
TRÍ TUỆ BA MINH
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
Kính Thưa Thầy,
Con muốn đưa bài "TUỆ BA MINH" này lên mạng. Con đã giải thích theo sự hiểu biết của con (con nghĩ dễ dàng cho mọi người đọc cũng hiểu như thế) nhiều điểm mà Thầy giảng rất ngắn gọn nhưng trình độ hiểu biết của con (cũng như một số người đọc) không nắm bắt kịp. Do đó chắc chắn sự giải thích này của con chưa đúng ý Thầy dạy. Vậy kính mong Thầy hoan hĩ chỉ bày cho mọi người đọc bài này được sáng tỏ rõ ràng.
CÂU 1. Lực Như Lý Tác Ý tạo thành do bộ não vật chất. Vậy nó phải vô thường như não bộ và cũng phải bị hoại diệt như não bộ. Thế nhưng con ghi ở trong bài này “khi Lực Như Lý Tác Ý thành tựu thì không phụ thuộc não bộ”. Ðiểm này có đúng ý Thầy? Tuy thân này không còn, nhưng lực của tâm không tham sân si tức lực 7 Giác Chi điều khiển được cái biết, cái không biết; rời khỏi thân này nó điều khiển được nhờ Trạch Pháp Giác Chi.
Đáp: Không, điểm này con ghi không đúng, vì lực như lý tác ý do não bộ ý thức (phần vật chất) sinh ra, khi não bộ ý thức bị diệt thì lực như lý tác ý cũng bị diệt theo.
Ví dụ do cơ bắp của cánh tay mà con đánh người khác bị đau, có khi chết, nhưng nay cơ bắp cánh tay của con bị hũy hoại thì lực cơ bắp cánh tay của con không còn nữa, nó cũng bị diệt mất theo cơ bắp. Còn tại sao lực tham, sân, si, mạn, nghi khi một người chết có còn hay lại diệt mất theo thân tâm của nó? Lực tham, sân, si, mạn, nghi do qui luật nhân quả điều khiển thân tâm con người qua lòng ham muốn, chứ không phải pháp như lý tác ý nên nótrở thành nghiệp lực. Nghiệp lực trong từ trường thân hành, ý hành, khẩu hành tương ưng tái sinh luân hồi. Tham, sân, si, mạn, nghi tạo thành nghiệp lực và từ trường. Người chết thân tâm diệt, nhưng nghiệp lực và từ trường không diệt nên tiếp tục tái sinh luân hồi. Cho nên thân tâm mất nhưng nghiệp lực từ trường không mất.
Còn năng lực 7 GIÁC CHI thì sao? Khi thân tâm mất 7 năng lực này có mất không?
Để trả lời hai câu hỏi này xin quý vị hãy lắng nghe cho kỹ: Từ ý thức lực mới có NĂNG LỰC 7 GIÁC CHI. Năng Lực 7 Giác Chi tạo thành 4 sức mạnh như thần nên gọi là TỨ THẦN TÚC, nhờ 4 lực như thần này nó mới triển khai trí tuệ 3 MINH. Trí tuệ cuối cùng của 3 MINH quét sạch tất cả lậu hoặc nên gọi nó là LẬU TẬN MINH. Lậu Tận Minh tức là tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự. Chỗ tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự là DIỆT ÐẾ, Diệt Ðế là NIẾT BÀN. Trạng thái đó không còn tương ưng tái sinh với bất cứ một vật gì trên hành tinh này, nên gọi tên LẬU TẬN MINH. Lậu Tận Minh là trạng thái toàn thiện chấm dứt luân hồi.
Tóm lược để quý vị hiểu biết rõ ràng: từ pháp NHƯ LÝ TÁC Ý tạo ra ý thức lực. Ý thức lực gồm có 7 năng lực gọi là 7 GIÁC CHI. Năng Lực 7 Giác Chi hoạt động quét sạch các lậu hoặc liền trở thành 4 THẦN TÚC, 4 Thần Túc triển khai thành TUỆ 3 MINH và tuệ 3 MINH cuối cùng là LẬU TẬN MINH. Đó là con đường chấm dứt luân hồi sinh tử, khi thân tâm này hoại diệt thì tất cả những lực ấy đều bị diệt theo, chỉ còn có LẬU TẬN MINH. Lậu Tận Minh là cái sáng suốt không lậu hoặc, tức là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Tóm lại con đường nhân quả nghiệp báo luân hồi do từ tâm tham, sân, si, mạn, nghi của con người tạo tác ra từ trường và nghiệp lực. Khi thân tâm này diệt thì từ trường và nghiệp lực này không diệt tiếp tục tương ưng tái sinh luân hồi mãi mãi từ kiếp này sang kiếp khác không bao giờ dứt
CÂU 2. Ở ví dụ cuối bài khi nhập Tứ Thiền tịnh chỉ hơi thở. Nếu muốn thở lại thì Trạch Pháp tác ý hơi thở thì có hơi thở và thân bắt đầu thở trở lại. Ở đây năng lực Giác chi làm được vì thân ngũ ấm hãy còn và hơi thở là của thân ngũ ấm. Người đọc sẽ lý luận như vậy.
Đáp: Thân NGŨ ẤM không thở tức là hơi thở không còn, hơi thở không còn mà còn sống là nhờ ở trong trạng thái Tứ Thiền. Vì vậy mà dùng trạch pháp tác ý truyền lệnh nên thân ngũ ấm thở lại, ra khỏi trạng thái thiền Thứ Tư. Do kinh nghiệm này mà quý vị hiểu Trạch Pháp Giác Chi có nghĩa là chọn lựa câu TÁC Ý cho phù hợp để điều khiển thân tâm.
Ví dụ: Muốn nhập Nhị Thiền liền tác ý để thân tâm nhập Nhị Thiền: “DIỆT TẦM TỨ NHẬP NHỊ THIỀN”. Khi câu trạch pháp như vậy sáu căn ngưng hoạt động thân tâm ở trong trạng thái hỷ lạc do định Nhị thiền sinh, lúc bấy giờ tầm tứ diệt, có nghĩa là mắt không thấy, tai không nghe, ý không khởi niệm….. Như vậy năng lực Trạch Pháp Giác Chi điều khiển được thân ngũ ấm. Người tu tập có 7 năng lực giác chi muốn thân tâm nhập định nào là nó nghe theo không dám cãi, muốn nó chết là nó chết, muốn nó sống là nó sống. Bảy năng lực “GIÁC CHI” tức là "4 THẦN TÚC"
CÂU 3. Ðúng với lời dạy của Thầy: Một người có 3 Minh "không phải nhớ mà sống trở lại" vào thời điểm nào đó trong quá khứ. Ở lần nhuận lại này con ghi thêm chữ NHƯ (như sống lại), vì người ta lý luận "Thầy đang hiện tại sống" thì làm sao "sống trở lại". Không thể một người có cùng lúc hai cái sống: hiện tại và quá khứ. Vậy có làm sai lệch ý của Thầy? (Trường hợp này có thể giải thích bằng hình ảnh một người xem quá khứ của mình được ghi lại trong video hay dĩa hình? Con giải thích theo cách này nên mới dùng chữ "NHƯ".
Đáp: Thật không đúng, tâm phàm phu nói đến TAM MINH như những người mù rờ voi. Chỉ biết suy luận một cách sai lệch theo sự tưởng tượng của mình. Một người thực hiện Tam minh lúc bấy giờ họ đang ở trong trạng thái nào của định, vì thế đức Phật mới gọi: “ĐỊNH SINH TUỆ” như vậy rõ ràng thân tâm phải nhập định thì TUỆ 3 MINH mới sử dụng được, còn thân tâm ở trong trạng thái ý thức bình thường như cuộc sống của mọi người thì làm sao thực hiện 3 Minh được. Cho nên câu nói: "Thầy đang hiện tại sống" thì làm sao "sống trở lại". Không thể một người có cùng lúc hai cái sống: hiện tại và quá khứ" là sai vì đã có thời gian trong câu nói.
Đã thân tâm sống trong thiền định thì thiền định không có không gian và thời gian. Nhờ thân tâm sống không có không gian và thời gian nên mới sử dụng TUỆ 3 MINH. Ở đây trạng thái thiền định không có không gian và thời gian là thiền định nào. Có phải là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền hay Tứ thiền không? Không, đức Phật không sử dụng các trạng thái thiền định này mà đức Phật sử dụng trạng thái thiền định Tứ Niệm Xứ tức là tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự. Dưới cội bồ đề đức Phật đang ở trong trạng thái bất động của thân tâm định này Ngài thực hiện 3 MINH, đến sao mai mọc thì Ngài đã thực hiện LẬU TẬN MINH của TUỆ BA MINH
Túc Mạng Minh thuộc Tuệ 3 Minh (gồm có Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) không có vấn đề thời gian và không gian. Cái biết của Túc Mạng Minh quá khứ cũng như hiện tại đều là HIỆN TẠI BIẾT. Người ta không hiểu điều này nên họ nói dùng trí tuệ Túc Mạng Minh nhớ lại. Họ nghĩ là dùng ý thức nhớ lại, tương tự như chuyện xẩy ra ngày qua, nay chúng ta nhớ lại. Ðó là ý thức nhớ lại. Tuệ Túc Mạng Minh không nhớ lại như vậy.
Khi nói tuệ Túc Mạng Minh không có thời gian và không gian, điều này rất khó hiểu. Chẳng hạn khi muốn biết một việc gì ở quá khứ thì họ liền sống trong kiếp quá khứ đó. Vì họ là người đã tu chứng đạo nên tâm họ luôn luôn ở trong trạng thái bất động tâm định, vì thế ý thức họ muốn thực hiện TÚC MẠNG MINH trở về đời sống quá khứ thì liền đó họ sống trở lại ngay thời điểm đó trong quá khứ, nhưng trong khi họ đang sống hít thở không khí trong đời sống hiện tại mà tâm họ đang ở trong trạng thái bất động định của 4 NIỆM XỨ, chứ không phải sống như tâm trạng của người phàm phu, họ sống trở lại ngay thời điểm đó trong quá khứ đó. Nói gọn là không phải nhớ mà sống trở lại. Cũng không phải như người đang ngủ nằm mộng vì họ đang sống trong mộng, đang sống trong tưởng thức. Nói như sống là sai, nói như mộng cũng là sai. Tuệ Túc Mạng Minh là tâm thức hoạt động, chứ không phải ý thức và tưởng thức. Ý thức và tưởng thức ngưng họat động thì tâm thức mới hoạt động. Thí dụ khi Thầy muốn biết về một sự việc nào vào thời điểm nào trong quá khứ, ở tại đâu thì Thầy là người chứng đạo ở trong tâm bất động nên sống lại trong lúc đó ở chỗ đó rất dễ dàng. Thầy dùng Túc Mạng Minh là Thầy sống lại trong thời đó mặc dù việc đó đã xẩy ra cách đây 100 năm hay 1,000 năm. Nếu muốn biết nó thì Thầy sống trở lại thời gian đó ngay liền vào lúc sự việc đó đang xẩy ra. Ðó gọi là tuệ Túc Mạng Minh. Vì thời gian của tuệ Túc Mạng Minh không có, nên nó rất nhanh, và muốn lúc nào tức thì nó trở về ngay thời điểm đó lúc ấy. Chỉ trong một tích tắc thôi là cả một đời sống trong đó.
Khi chứng 3 Minh thì nghiệp ác không còn, chỉ duy nhất còn có nghiệp thiện, nhưng nghiệp thiện ấy không phải thiện hữu lậu mà thiện vô lậu. Người chứng 3 Minh dù làm tất cả những việc thiện hữu lậu nhưng tâm luôn trở về thiện vô lậu. Nói như vậy chúng ta phải hiểu: MINH tức là VÔ LẬU. Với tâm vô lậu làm việc thiện thì việc thiện nào cũng trở thành thiện vô lậu.
Con có biết thiện vô lậu là gì không? Là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Ðó là trạng thái LẬU TẬN MINH. Vì thế cái biết 3 Minh không liên quan chi tới nghiệp tái sanh, không liên quan chi tới cái thân nhân quả này.
Trong kinh Bát Thành có 8 pháp độc nhất tu tập để chứng đạt chân lí. Tám pháp này tu tập dẫn đến đạt được mục đích tâm vô lậu hoàn toàn: "tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt…" (kinh Bát Thành, số 52, Trung Bộ II, trang 34). Nói đến vô lậu là nói đến 7 Giác Chi; nói đến 7 Giác Chi là nói đến 3 Minh; nói đến 3 Minh là nói Tâm Vô Lậu. Chúng chỉ khác tên chứ tính chất không khác.
Trong bộ não của chúng ta có ba nhóm tế bào: nhóm tế bào não ý thức, nhóm tế bào não tưởng thức và nhóm tế bào não tâm thức. Cả ba nhóm tế bào não này chứa đựng và thực hiện cái biết của một người còn sống. Khi đang còn thân nhân quả này thì chúng ta sử dụng tế bào não thuộc tâm thức cho trí tuệ 3 Minh. Khi chúng ta chết rồi, tế bào não thuộc tâm thức vật chất chết rồi, cùng với các nhóm tế bào khác của não, thì cái biết của ý thức, của tâm thức không còn, nhưng lực không tham, sân, si, mạn, nghi của 3 Minh vẫn còn. Lực không tham sân si hoàn toàn do pháp Như Lý Tác Ý mà ra, nên khi tu tập nó sử dụng bộ não. Cho nên khi tập luyện pháp môn Như Lý Tác Ý thì phải dựa vào bộ não (ý thức), mà khi thành tựu Lực Như Lý Tác Ý rồi thì nó là NĂNG LỰC 7 GIÁC CHI. Năng Lực 7 Giác Chi là 4 THẦN TÚC. Tứ Thần Túc là 3 MINH. Mà trong 3 MINH có LẬU TẬN MINH, mà Lậu Tận Minh là Tâm Bất Ðộng trước các ác pháp và cảm thọ hay nói cách khác là tâm THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ, nhưng tâm thanh thản an lạc và vô sự là DIỆT ÐẾ. DIỆT ÐẾ là một trong bốn chân lí của đạo Phật: KHỔ, TẬP, DIỆT ÐẠO mà DIỆT ÐẾ tức là NIẾT BÀN. Cho nên thân tâm có hoại diệt nhưng NIẾT BÀN không hoại diệt.
Khi chúng ta chết rồi, cái biết của ý thức, của tưởng thức và của tâm thức không còn, nhưng lực của không tham sân si do ý thức tu tập theo pháp Như Lý Tác Ý vẫn còn. Cũng như nghiệp lực tham, sân, si, mạn, nghi do thân tâm tạo ra, khi thân tâm hoại diệt thì nghiệp lực này vẫn còn nên nó cùng với từ trường mà tái sinh luân hồi. Vì thế khi thân này lìa bỏ thì cái 3 Minh vẫn còn, nó không biến mất theo với sự huỹ hoại của tế bào bộ não. Nhưng lực của tâm không tham sân si là lực đặc biệt nó trở thành lực của 7 Giác Chi như trên đã nói. Tuy thân này không còn, nhưng lực của tâm không tham sân si tức lực 7 Giác Chi điều khiển được cái biết, cái không biết; Lực của 7 Giác Chi là lực không tham sân si. Lực không tham sân si là lực vô lậu. Trong Tam Minh có Lậu Tận Minh. Vì thế LẬU TẬN MINH tức là TÂM VÔ LẬU như trên đã nói.
Khi luyện 4 Niệm Xứ được hoàn toàn sung mãn rồi thì năng lực 7 Giác Chi xuất hiện ra. Năng lực 7 Giác Chi là lực của tâm không tham sân si. Cho nên tâm dù còn chỉ một chút xíu tham sân si thì năng lực 7 Giác Chi đúng mức không xuất hiện ra đâu. Lực của tâm không tham sân si là lực của 7 trạng thái Bồ Ðề giải thoát, nó điều khiển bởi Trạch Pháp Giác Chi, mặc dù lúc đó thân này đã bị hũy hoại rồi, nhưng lực 7 Giác Chi vẫn còn. Khi nó không cần thể hiện trong dạng này hay dạng khác thì nó thanh thản, an lạc vô sự. Nó tương ưng với mọi tâm không tham sân, si, mạn, nghi (tức mười phương chư Phật, chư vị A-La-Hán).
Năng lực 7 Giác Chi của các tâm không tham sân si không khác nhau, như một, cho nên người ta lầm tưởng nó là Ðại Ngã, rồi Tiểu Ngã là từng cá nhân. Nhưng không phải thế. Năng lực 7 Giác Chi của các tâm không tham sân si tương ưng nhau. Có giống nhau mới tương ưng. Khi hai người giống hệt nhau thì không có gì để nói có khác nhau.
Ba Minh cũng vậy, nó tương ưng với nhau nhưng vẫn hai người, vẫn là nhiều người chứ đâu có hoà lẫn nhau thành một khối được. Nó chung khối nhưng không hoà. Con không tham sân si, Thầy cũng không tham sân si, hai người vẫn là hai người chứ đâu thành một được. Chẳng khác gì hai đứa sanh đôi, gương mặt chúng không có gì sai khác nhau nhưng hai đứa chứ đâu phải một, nó chỉ giống nhau thôi. Ở đây ý thức phàm phu không thể hiểu được và cũng không ngôn ngữ để diễn đạt: "Mình với tôi tuy hai mà một, tôi với mình tuy một mà hai."
Lực của 7 Giác Chi bằng nhau, không khác, không nhiều hay ít hơn. Trong 7 Giác Chi thì có Khinh An Giác Chi. Khi nó muốn biết khinh an thì nó dùng Trạch Pháp Giác Chi để trạch pháp cho Khinh An Giác Chi xuất hiêïn ra, thì nó biết khinh an. Khi không cần biết thì Khinh An Giác Chi vẫn còn đó. Cho nên nó hay lắm. Khi không cần thiết thì không có cái biết ở trong đó. Khi nó không thành cái biết thì nó không biết, nhưng khi nó trạch ra thành cái biết thì nó biết.
Ngược lại, nghiệp lực tham sân si do ý thức bị vô minh chạy theo ngũ dục lạc tạo thành. Cho nên tham sân si thì có lực tham sân si. Lực tham sân si tương ưng với tái sanh, với mọi người, mọi lòai thú vật, vì còn có tham, sân, si thì còn tái sinh. Còn có tham, sân, si là hợp duyên của cái biết trong vô minh. Và nghiệp lực tham, sân, si điều khiển cái nghiệp đi tái sanh. Nếu nó không tái sanh thì chắc chắn là lực tham sân si này không có và lực tham, sân, si này không thể tồn tại được ở trạng thái không tái sanh. Chung quanh nó toàn là lực tham sân si vì thế nó tương ưng nhau cho nên hợp duyên sanh ra, mới có cái biết trong tham sân si. Khi hợp duyên đủ có thân người thì liền có ba cái biết (ý thức, tưởng thức và thức thức). Cái có tham sân si thì nó cuốn theo tham muốn chứ không thể không tham muốn, không thể không tham sân si như lực 7 Giác Chi thanh tịnh được. Cho nên còn lực tham sân si này thì không thể có lực 7 Giác Chi nên không có được cái biết của 7 Giác Chi. Chỉ khi có tu tập và tu tập đúng Chánh Pháp Phật mới thành tựu lực 7 Giác Chi.
Lực không tham sân si, tức lực 7 Giác Chi, tuy không còn thân người nhưng vẫn có. Khi lực 7 Giác Chi muốn biết một cái nó cần biết, thí dụ nó muốn biết khinh an thì nó xuất hiện trạng thái khinh an liền. Nó thực hiện các Giác Chi mà không cần cái thân nhân quả này đâu. Nó hay ở chỗ đó. Nó không có cái biết, nhưng khi muốn biết thì nó trạch pháp ra nó biết bởi vì trong 7 Giác Chi có Trạch Pháp Giác Chi mà Trạch Pháp Giác Chi thì có năng lực trạch ra các pháp.
Như bây giờ Thầy nhập Tứ Thiền thì trạng thái Tứ Thiền có trạng thái không thở, nghĩa là hơi thở tịnh chỉ. Chỉ người có năng lực 7 Giác Chi, trong đó có Trạch Pháp Giác Chi, mới nhập được Tứ Thiền. Khi Trạch Pháp Giác Chi tác ý ra hơi thở thì bắt đầu có hơi thở thở liền! Tại hơi thở là Pháp của Giác Chi mà vì thân lúc bấy giờ đang không thở nên nó trạch pháp hơi thở là thân có hơi thở chút xíu, từ đó hơi thở bắt đầu, rồi thân bắt đầu thở chầm chậm.