• lopbatchanhdao
  • vandao2
  • ttl1
  • khatthuc1
  • amthat1
  • thanhanhniem1
  • tamthuphattu
  • amthat3
  • huongdantusinh
  • ttl3
  • chanhungphatgiao
  • tinhtoa2
  • lailamtoduong1
  • quetsan
  • phattuvandao3
  • phattuvandao1
  • thanhanhniem2
  • benthayhocdao
  • vandaptusinh
  • tranhducphat
  • tinhtoa1
  • ThayTL
  • thanhanhniem3
  • toduongtuyetson
  • amthat2
  • daytusi
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
JGLOBAL_PRINT

Lý Quy Y Tam Bảo

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Trưởng lão Thích Thông Lạc, trích THỌ TAM QUY NGỦ GIỚI, tr.5-12)

Nguồn: Sách: Thọ Tam Quy Ngủ Giới

– Quy y Tam Bảo là nương tựa ở Phật, Pháp, Tăng; không những Tam Bảo thường trụ ở đời, mà chính Phật, Pháp Tăng nơi tự tâm của mỗi chúng ta nữa. Mỗi khi ta làm quấy, nói sai, lòng ta thấy hổ thẹn, lương tâm ta tự c ăn rứt hối hận không vui; cái biết tự khiển trách điều quấy, hoan hỷ những điều Giới đức, nhiệt tình vui vẻ trong những việc thiện lành, ý thức luôn sáng suốt – Ðó là Giác ngộ là PHẬT.

– Trông thấy người đau khổ, ta nghe lòng mình nao nao thương xót, muốn cứu giúp họ, là tâm từ bi của ta – Ðó chính là PHÁP.

– Thấy sự thuận hoà êm ấm của mọi gia đình, nhìn cảnh thanh bình an lạc của muôn loài, lòng ta mến chuộng; nghe những việc nồi da xáo thịt, thấy người hiền lương bị lừa đảo, hành hung hiếp đáp, ta tìm cách can ngăn – Lòng nghĩa cử thuận hoà ấy. Chính đó là TĂNG vậy.

– Chúng ta trở về với đức tánh giác ngộ sáng suốt, với tâm từ bi cứu khổ yêu thương, với lòng thanh tịnh thuận hoà là ta đã tương ưng với ba ngôi Tam Bảo. Là “Lý Quy Y Tam Bảo”. Vì, Phật là Giác ngộ sáng suốt, Pháp là Từ bi chân thật, Tăng là Thanh tịnh thuận hoà.

– Trở về với đức tánh giác ngộ sáng suốt ta sẽ sa thải bọn Quỉ si mê.

– Trở về với tâm từ bi yêu thương tha thứ, ta cố thanh trừng bọn ác Ma tham lam ích kỷ.

– Trở về với lòng thanh tịnh thuận hoà, ta quyết diệt trừ bọn A Tu La sân hận gây gỗ đấu tranh.

Vì thế, Quy y Tam Bảo không có nghĩa là hoàn toàn ỷ lại nơi Phật, Pháp, Tăng bên ngoài, mà chính ý thức chúng ta luôn biết sử dụng những phương pháp bỏ điều xấu ác, nương việc thiện lành, lìa mê mờ phiền khổ, về chỗ tươi sáng, hạnh phúc thanh lương vậy.

Tóm lại, giáo lý nhà Phật lúc nào cũng giữ tính cách “Trung Ðạo – Viên dung”. Người Quy y Tam bảo không phải hoàn toàn ỷ lại nơi Phật, Pháp, Tăng bên ngoài, mà phải trực nhận nơi Phật, Pháp, Tăng ở lòng mình. Ngược lại, cũng không tự cao nơi Phật, Pháp, Tăng của mình, mà thờ ơ sự sùng kính nơi thế gian Trù trì Tam bảo. Chúng ta Quy y Tam Bảo phải “viên dung sự, lý” và quyết định một hướng đi, tạo cho mình một nghị lực dũng mãnh, ngăn ác diệt ác pháp, làm lành tăng trưởng thiện, quyết tiến thủ trên con đường từ phàm đến Thánh. Quy y Tam bảo là một ý chí quyết tiến không lùi, nó vừa mở đầu, lại vừa dẫn đến cuối cùng của chiều sống đạo đức, sống giác ngộ, sống thanh thản an lạc, sống giải thoát.

QUY Y NHƯ VẬY ÐIỀU CẦN THIẾT LÀ GÌ?

– Là phải quyết định giữ vững “Chánh-Tri-Kiến”. Vì khi phát tâm Quy Y ta tự hứa nguyện dưới Phật đài và trước Thánh Chúng rằng:

“Con nguyện suốt đời tiến theo chiều Giác ngộ giải thoát, mà đức Phật đã trải qua, con hứa tránh mọi điều tội lỗi, làm tất cả điều lành, để trọn nhân cách con người”. Và “Con nguyện suốt đời Quy-Y Phật thì không Quy-Y Thiên thần Quỉ vật, Quy-Y Pháp thì không Quy-Y ngoại đạo tà giáo, Quy-Y Tăng thì không Quy-Y tổn hữu ác đảng”.

Lời thệ nguyện đó quyết định về “Chánh tri kiến” và giữ đúng như vậy thì sự Quy-Y còn, mà không giữ thì mất! Do những lời hứa nguyện này, tạo thành một năng lực dũng mãnh khiến ta tinh tấn không ngừng trên đường tự giác. Ngày xưa Ðức Thích Ca Mâu Ni cũng đã chỉ cội cây Bồ Ðề mà thệ nguyện rằng: “Nếu ngồi dưới cội cây này, mà tìm không được đạo, thì dù xương tan thịt nát Ta quyết không rời bỏ chỗ ngồi này...” Như thế việc Quy-Y duy nhất thì chánh tri kiến còn, mà chánh tri kiến mất thì sự Quy-Y cũng hỏng.

Ý NGHĨA CHÁNH TRI KIẾN TRONG VIỆC QUY-Y LÀ GÌ?

– Ðiều đó Phật tử cần phải hiểu cho thật kỹ. Nó vô cùng quan trọng! Bởi vì Quy-Y rồi dù không thọ và giữ giới đầy đủ nổi, thì cũng vẫn còn TAM QUY – Nhưng nếu thọ và giữ giới mà Quy-Y mất (Tức phá hủy Chánh-tri-kiến) – Nghĩa là “Phá Kiến” thì chỉ là người tà kiến ngoại đạo mà thôi !!!...

Chánh tri kiến trong sự Quy-Y là ẩn nơi lời thệ nguyện trên. Có nghĩa là ta đã xác nhận và quyết định lấy đạo đức nhân bản nơi Phật, Pháp, Tăng làm cái lẽ sống đạo của mình, làm lý tưởng lập trường của đời mình. Vì chủ trương của Ðạo Phật về cuộc đời là “Sống đạo đức nhân bản –nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, sống hỗ trợ sinh tồn”. Nếu ta phản bội chủ trương đó, vô tình hay cố ý thừa nhận và tuyên truyền cho những tưởng tri ảo giác siêu hình mê tín, những đường lối cầu khẩn Thần quyền (nương vào tha lực – phi đạo đức nhân quả) hoặc những tư tưởng cạnh tranh… hóa trang với bất cứ hình thức nào khác, thì thế là chánh tri kiến mất. Mà thà chúng ta chỉ có một mình “phạm giới”, không giữ nổi sự sát sinh, trộm cắp v.v… nhưng, những sự việc đó không làm lầm lạc ai được – Không ai cho sự việc đó là phải ! Nghĩa là không lôi cuốn ai vào tội ác như mình. Nhưng nếu trái lại, ta dùng tà kiến, tà tưởng biện minh để che dấu sự phá giới! Chẳng hạng như: Nói Phật cho huỷ bỏ những học giới nhỏ nhặc hoặc có thể dùng tam tịnh nhục… và lợi dụng tín ngưỡng để thoã lòng tham dục, sân si (sống thiếu đạo đức) rồi phủ che những chiêu bài như để “thử thách” hoặc “khảo đảo cho tiêu nghiệp” hay để “trả nghiệp” v.v… thì đã tự làm mất “Chánh tri kiến” và tự mình phản lại lý tưởng của Phật pháp! Mà còn tiếp tay cho những tà tưởng đạo đức trá hình, xuyên tạc cạnh tranh lợi dưỡng… thì ngàn vạn người, thế hệ này tiếp thế hệ khác, sẽ mê theo sự cổ võ những chiêu bài tà tưởng ấy để bước vào con đường sinh sát nhau liên miên vô tận đó! Con đường mà loài người sẽ diệt vong bởi chính những hành vi tà tưởng của loài người. Trong Kinh nói rằng tội “Phá Kiến” rất nặng, điều đó rất đúng. Bởi vậy, mọi người Phật tử chúng ta đều phải xác nhận rằng sự mong mỏi hợp lý của nhân loại hôm nay cũng như ngày mai là phải được sống có đạo đức, được sự hỗ trợ của nhau, được an bình và được tiến hóa, chứ “ngày mai” không thể cũng là cái ngày kết quả của sự tham cầu lợi dưỡng cạnh tranh... Chính muốn ngày mai không thể như vậy, cho nên ngày nay : Chúng ta, những người phật tử, mới quyết tâm Quy-Y theo lý tưởng của Phật Pháp. Sự quả quyết nầy phải duy nhất giữ vững thì mới không mất ba Quy-Y, và không mất lý tưởng lập trường của một người Phật tử chân chánh là “Quy-Y Phật thì không Quy-Y Thiên-thần Quỉ-vật, Qui-Y Pháp thì không Quy-Y ngoại đạo tà giáo, Quy-Y Tăng thì không Quy-Y tổn hữu ác đảng”.

Như vậy, chúng ta đã rõ nghĩa cụm từ QUY Y TAM BẢO:

– Quy-Y có nghĩa là quay về nương tựa.

– Tam bảo là ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.

– Phật là giác ngộ (Tánh toàn Chơn)

– Pháp là chơn chánh (Tâm toàn Thiện)

– Tăng là tịnh hạnh (Hạnh toàn Mỹ)

NHƯNG HIỆN GIỜ CÓ QUÁ NHIỀU PHẬT, PHÁP, TĂNG THÌ LÀM SAO BIẾT ÐƯỢC PHẬT, PHÁP NÀO CHƠN CHÁNH VÀ LÀM SAO BIẾT ÐƯỢC BẬC NÀO LÀ THÁNH TĂNG TU CHỨNG CÓ ÐỦ TỊNH HẠNH ÐỂ NƯƠNG TỰA QUY Y?

– Ðiều nầy rất quan trọng, nếu không tìm hiểu tới nơi tới chốn cho thông suốt rõ ràng thì dễ bị danh lợi tà đạo mượn cữa tín ngưỡng, đội lốt Phật giáo, như chùm gởi bám vào cây Bồ Ðề nhà Phật để mê hoặc lợi dụng lừa đảo một số tín đồ Phật tử ngây thơ, nhẹ dạ đã trở thành con chiên ngoan đạo của Thần Si-Va, Thần tà … Do lòng danh lợi, tham dục mà họ tìm mọi cách để đầu độc, mê hoặc những kẻ khát khao đến cầu đạo, dễ thành cuồng tín, mê tín một cách đáng thương… như hiện nay đang diễn ra ở các chốn Thiền môn !...

1) PHẬT BẢO: Phật Bảo là ngôi báu vô giá tối thượng. Châu báu trong đời dù quí giá đến mức nào cũng có thể định được giá trị của bảo vật ấy – Còn gương hạnh ân đức cao thượng của Ðức Phật là vô giá để cho loài người từ vua chúa, quan thần đến muôn dân nương về Qui Y ngôi Phật Bảo này đều được lợi ích lớn. Vì Phật Ngài đã đoạn diệt mọi phiền não, tham ái, ác pháp có đầy đủ năm đức tối thượng là Giới đức, Ðịnh đức, Tuệ đức, Giải thoát đức và Giải thoát tri kiến đức. Hoàn toàn trong sạch cao thượng.

Trong kinh Chi Bộ đức Phật dạy : “Này chư Tỳ Kheo, một bậc độc nhất vô nhị tu chứng xuất hiện trong thế gian, không có người đồng đẳng; không có người cạnh tranh… Bậc không giống như tất cả chúng sanh… là bậc tối thượng trong tất cả chúng sanh có hai chân. Bậc độc nhất vô nhị ấy là đức Như Lai, đức Alahán, đức Phật Chánh Ðẳng Giác… Này chư Tỳ Kheo, bậc độc nhất vô nhị này đang xuất hiện trong thế gian là bậc tối thượng trong tất cả, để chúng sanh qui ngưỡng nương về”.

Trong đời, những thứ châu báu như kim cương, hột xoàn, ngọc ma ni, vàng y bốn số 9… là những báu vật, đồ trang sức của hạng giàu sang phú quí, người nghèo khổ thiếu thốn nhìn thấy được những thứ quí giá ấy cũng là điều khó. Huống chi được sử dụng chúng làm đồ trang sức cho mình, phải không thưa quí vị? Nhưng, những thứ châu báu trong cõi người này cũng không thể nào so sánh với Phật Bảo tối thượng.

Vì, Phật Bảo là vô giá cao thượng, nên nhưng người đến Qui Y nương tựa nơi Phật Bảo là những người có phước duyên, đã từng tạo thiện duyên tích luỹ nhiều đời nhiều kiếp trong thời Ðức Phật Thích Ca còn tại thế hoặc các vị Thanh Văn Thánh Chúng đệ tử của Phật. Nên kiếp hiện tại này những người ấy mới có chủng tử phước điền đến xin Qui Y nương về Tam Bảo.

Như vậy, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trên hành tinh này, người Ấn Ðộ dòng dõi Hoàng tộc, là Thái tử Sĩ-Ðạt-Ta kết duyên với công chúa Gia-Du-Ðà-La và đã sinh Hoàng tôn La-Hầu-La. Ngài cũng có gia đình vợ con như bao nhiêu người khác, nhưng giác ngộ được nỗi khổ của kiếp làm người, rời bỏ Hoàng cung bèo mây hạnh phúc, để tìm lối giải thoát bốn nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết… Ngài là người có lịch sử tu chứng hẳn hoi là Giáo Chủ của Ðạo Phật đã để lại cho loài người một nền đạo đức nhân bản – nhân quả tuyệt vời, một phương pháp tự lực tu tập đến chỗ làm chủ được bốn sự khổ sinh, lão, bệnh, tử chấm dứt luân hồi. Ngài đã chỉ rõ cho loài người đường lối tự lực tu tập rất rõ ràng. Ngài dạy rằng “Trên đầu con người chẳng có một đấng thiên liêng siêu hình nào cai quản cả, và trước Ngài cũng chưa có vị Phật nào ra đời cả…” Như vậy, thì chúng ta chỉ Qui Y và thờ duy nhứt một Ðức Phật Thích Ca để tưởng nhớ công đức của Ngài và lấy gương hạnh của Ngài để soi sáng nhắc nhở đạo tâm chúng ta hằng ngày phải tu tập sống buông xả như Ngài. Còn những gì khác được đặt để như “Phật quá khứ hay Phật vị lai hoặc Bồ Tát Long Thần…” thì đều là của Bà La Môn Ða Thần Giáo sau này đưa vào chùa nên không có lịch sử gương hạnh và giáo pháp để lại rõ ràng như Ðức Phật Thích Ca thì chúng ta không Qui Y thờ phụng những vị Thần mạo danh Phật ấy !!!.

Theo Phật sử ghi lại, sau 6 năm tu khổ hạnh không thành, Ngài đến dưới cội Bồ Ðề miên mật trong 49 ngày đêm thực hành “Pháp Tứ Niệm Xứ” và Ngài đã chứng đạt chân lý –thành Phật. Rồi liền tìm lại 5 người bạn cũ đồng tu khổ hạnh đã rời bỏ Ngài qua ở vườn Lộc Uyển (Vườn Nai). Nơi đây, Ngài đã cất lên tiếng Sư Tử Hống Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên bằng bài kinh “Chuyển Pháp Luân – Tứ Diệu Ðế” (ngày nay Hội Phật Giáo Thế Giới dùng biểu tượng hai con Nai trắng đỡ bánh xe Pháp Luân, mà chúng ta thường thấy biểu tượng này trong các kinh sách của Phật Giáo). Ngài đã gởi thông điệp đến cảnh báo cho loài người, nếu muốn tu hành có kết quả để thoát kiếp nhân sanh đau khổ như Ngài thì nên tránh xa hai cực đoan: “Một là tránh xa sự đam mê thụ hưởng ngũ dục, lạc thú thấp hèn làm mất chủng tử Thánh thiện, mất phẩm chất cao thượng –Hai là không nên tự ép xác hành hạ mình, sống đời khổ hạnh ức chế thân tâm mê lầm phiền não”. Và Ngài đã vạch ra con đường “Trung Ðạo” chỉ rõ bốn chân lý “Khổ, Tập, Diệt, Ðạo” của kiếp người cho 5 anh em ông Kiều Trần Như nhờ nghe bài pháp này liền được Pháp Nhãn thanh tịnh xin Qui Y theo Phật và sau đó chứng đạt Thánh quả.

Vì duyên phước hội tụ đầy đủ, ngôi Tam Bảo ra đời từ đây – Ngài là Phật Bảo, bài kinh Chuyển Pháp Luân-Tứ Diệu Ðế là Pháp Bảo và 5 anh em Kiều Trần Như là Tăng Bảo đầu tiên. Thế là phước duyên của loài người đã đến, ngôi Tam Bảo được thiết lập ở trần gian, mặt trời Chánh Pháp đã chiếu soi. Dòng dõi Sư Tử (dòng họ Thích) bắt đầu truyền bá chánh pháp, đi đến đâu là quét sạch 62 luận thuyết siêu hình của Bà La Môn đến đó… Các vị giáo chủ Bà La Môn lúc bây giờ như Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Ca Diếp, Ngài Xá Lợi Phất… mỗi Ngài đều dẫn cả trăm đồ đệ của mình đến xin Qui-Y Ðức Phật và được Phật tiếp độ cho xuất gia nhập vào Tăng Ðoàn để tu tập, nhiều vị đã chứng đạt Thánh Quả, chỉ trong một thời gian mà Tăng Ðoàn của Phật đã lên đến 1250 vị. So với dân số ít ỏi ở Ấn Ðộ thời đó và sự ngự trị của 62 hệ phái siêu hình nơi kinh điển truyền thống của tư tưởng Vệ Ðà đã tiêm nhiễm lâu đời, độc tôn chiếm giữ cả bốn giai cấp trong xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ…

Nhưng, một khi có Bậc tu chứng, có Phật Bảo xuất hiện thì những sương mù tà giáo của thế giới siêu hình đều được soi sáng dưới mặt trời Chánh Pháp và đã bị quét sạch… đủ biết oai đức và sự cảm hoá của Phật pháp khi có Bậc Thánh Tăng La Hán tu chứng xuất hiện là thế nào rồi… Như vậy, Phật Bảo là nơi nương về của hàng chúng sanh cao quí. Mặc dầu Phật đã tịch diệt Niết Bàn cách đây 2.550 năm. Nhưng, những chứng tích lịch sử về đời sống đạo hạnh của Phật vẫn hiện hữu trên đất nước Ấn Ðộ và Giáo pháp mang tính nhân bản cao của Phật giáo luôn ngự trị nơi lòng người khắp hành tinh, cùng sự thành kính tri ân của nhân loại ở thời đại văn minh ngày nay đang hướng về Phật – Một Bậc Thánh Nhân Giáo Chủ Vĩ đại… đã để lại một nền đạo đức nhân bản - nhân quả tuyệt vời mà chưa có một vị Giáo Chủ nào trên trái đất này làm được như Ngài. (Vì còn nhập thất không có tư liệu để tra cứu, xin quí vị đọc thêm những sách nói về lịch sử Ðức Phật & Phật Pháp – H.T. Thích Minh Châu phiên dịch từ tạng kinh Pali thì đáng được tin cậy hơn kinh sách tưởng giải của đại Thừa…).

2) PHÁP BẢO: Pháp Bảo là những lời dạy của Ðức Phật, sau khi tu tập chứng đạt, Phật liền đem kinh nghiệm thành quả tu hành của Ngài chỉ dạy lại cho chúng ta rất rõ ràng. Ngài dạy: “Ta chỉ là người chỉ đường, các con hãy tự lực thắp đuốc lên mà đi…” hoặc dạy: “Nếu Ta nói một điều gì mà mọi người hiểu được, biết được bằng ý thức thì Ta không có nói dối. Còn Ta nói ra một điều gì mà mọi người phải hiểu bằng tưởng ngoài sức hiểu biết bằng ý thức của con người thì Ta đã có nói dối trong Ta…”.

Nhưng, hiện giờ Tam tạng kinh điển của Ðại thừa (tức là kinh sách phát triển của khoảng 20 hệ phái sau thời Ðức Phật đến nay) trong các thư viện lớn của Phật giáo trên thế giới đã thống kê có trên mười hai ngàn (12.000) quyển mỏng dày, gồm trên một triệu (1.000.000) trang giấy đủ cỡ. Chứa đựng nội dung tám mươi bốn ngàn (84.000) pháp môn tu tập, phần lớn là nương cầu vào tha lực siêu hình trừu tượng mơ hồ ngoài sức hiểu biết bằng ý thức của con người, lại đều mang nhãn mác chánh pháp của Ðức Phật Thích Ca thuyết!... Vì vậy, chúng ta phải sáng suốt phân minh những giáo pháp nào không có phương pháp hành trì cụ thể ngoài ý thức hiểu biết của con người, tha cầu bạc nhược, không có công năng của Pháp Bảo là tự lực ngăn ác diệt trừ ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, chuyển mê khai ngộ,không tiến dẫn con người từ chỗ sống thiếu đạo đức, sống mê mờ phiền khổ đến chỗ đạo đức thanh lương, làm chủ lão bịnh tai ương sinh tử – Thì đó không phải là “Chánh Phật Pháp” – Mặc dầu quí Hoà Thượng hay các nhà học giả đã dịch trong kinh Nguyên Thủy hay kinh sách phát triển Ðại thừa Tối thượng thừa… gì gì đi nữa, thì chúng ta cũng không y chỉ theo những loại kinh Pháp đó để tu hành vì đó là tà Pháp do các Tổ sau này không tu chứng như Phật, lòng còn danh lợi ngồi tưởng tượng vẽ vời, tự ý đưa vào tam tạng kinh điển rồi mạo danh Phật thuyết!

Tạng Kinh Nikaya của Phật Giáo Nguyên Thủy không nhiều như kinh sách của Ðại thừa. Nhưng, những lời nào đúng là của Ðức Phật dạy còn lại nơi Tạng Kinh Nikaya chưa bị người đời sau thêm bớt sửa đổi xuyên tạc thì đó là PHÁP BẢO VÔ GIÁ mà không có một tôn giáo nào trên hành tinh này có được những Bảo Pháp như bốn chân lý Tứ Diệu Ðế & 37 phẩm trợ đạo của Phật Giáo…

Vì đó, là những pháp môn tự lực tu hành có công năng ngăn ác và diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, chuyển mê khai ngộ, chuyển khổ thành vui, tiến dẫn con người từ phàm phu tu chứng Thánh quả làm chủ sanh, già, bịnh, chết. Chấm dứt kiếp luân hồi đau khổ. Vì vậy, chúng ta phải y chỉ nương tựa vào 37 đạo phẩm này để tu tập đến chỗ viên mãn mà cốt lõi của nó là “Giới – Ðịnh – Tuệ” trong Tám Ðường Chánh Ðạo. (xin quí vị nghiên cứu kỹ những bộ sách của Ðức Trưởng Lão Thích Thông Lạc một người đã tu chứng biên soạn do NXB Tôn Giáo liên kết với TV Chơn Như ấn hành: Bộ Những Lời Gốc Phật Dạy 4 tập, Ðường Về Xứ Phật 10 tập, Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống đã in 2 tập, và 1 tập Những Chặng Ðường Tu Học Của Người Cư Sĩ. Ðây là những Pháp Bảo quí giá mà những người Tu Học Phật cần phải nghiên cứu kỹ rồi mới Qui-Y Tu Tập sẽ có kết quả).

3) TĂNG BẢO: Tăng Bảo là những vị Tăng Sĩ đệ tử Ðức Phật, cạo bỏ râu tóc, đắp áo Cà Sa, ta bà khất thực, ăn chay ngày một bữa, sống y như Phật, thiểu dục tri túc, giới đức tinh nghiêm, làm gương hạnh sáng cho mọi người soi. Tăng Bảo là Bậc Thánh Tăng phạm hạnh, người đã chứng đạt chân lý mới đủ Dũng-Trí-Bi, có đủ Tứ vô lượng tâm… luôn làm gương hạnh thiện pháp cho Phật Tử làm nơi nương tựa Qui-Y để Tu tập.

Trong thời Pháp nhược ma cường này mà tìm được Bậc Thánh Tăng tu chứng làm gương hạnh như ngọn hải đăng đứng tự tại giữa cuồng phong biển dục để chỉ đường dẫn lối cho tàu thuyền tránh khỏi những chặng đường quỉ quái đá ngầm; những rạng ma chướng san hô độc ác, gây hiểm trở nơi đại dương nghìn trùng bá đạo, bá pháp như hiện nay… Thì không phải dễ ! Cho nên, muốn tu theo đạo Phật không phải đụng đâu Qui-Y đó, mà phải tìm hiểu rất kỹ rồi mới tin, lòng tin phải có căn cứ. Ðức Phật dạy: “Chớ có tin, chớ có tin… Chớ y cứ vào tin đồn, vào truyền thống kinh điển… Muốn tìm hiểu Phật Giáo thì phải chọn một vị Thầy tâm hết tham, sân, si… Ðể được thân cận, được thấy các Bậc Thánh, được thuần thục pháp các bậc Thánh, được tu tập pháp các Bậc Thánh…”. Nếu chưa chọn được vị Thánh Tăng như vậy thì không nên vội vàng Qui-Y Tam-Bảo, mà phải hiến cuộc đời của mình cho tà sư ngoại đạo để tạo duyên nghiệp trùng trùng nơi tà kiến không lối thoát, thật là oan uổng ! Quí vị hãy nhìn vào chùa chiền thờ phụng cúng tế và các hàng Tăng Ni Phật Giáo hiện nay thì đủ biết và nên hết sức thận trọng khi tìm một vị Thầy tu chứng để Qui-Y. Nếu chưa tìm ra thì hãy khoan đã!

“Vì, duyên khởi duyên, trùng trùng duyên khởi…

Hễ nương Thầy tà sẽ dẫn tới đường tà !

Chánh Ðiện càng to thì Chánh Ðạo càng xa !!

Kiếp sau cũng sẽ đến nhà Ðàn Na để cúng !!!...”

Vậy, Qui-Y Tăng Bảo rất hệ trọng. Vì, Thánh Tăng cũng như Phật hiện tiền tại thế, Pháp Bảo chân lý của Phật cũng từ đây được triển khai. Nếu chân lý Chánh pháp của Phật không có những Bậc Thánh Tăng kế thừa tu chứng triển khai giảng dạy thì chúng ta khó có thể giác ngộ được chân lý, nếu chân lý chưa giác ngộ thì biết đâu để hộ trì và nếu chân lý không được hộ trì, thì làm sao có thể chứng đạt được chân lý ấy. Phải không quí vị ? Cho nên, Tăng Bảo là một báu vật quí giá nơi đời. Vì có Tăng Bảo mới soi sáng cho chúng ta thấy được Pháp Bảo và Phật Bảo.

Chúng ta nhìn qua lịch sử kinh sách văn học Phật Giáo trên 2500 năm qua, thì biết được có Bậc Thánh Tăng nào tu chứng hay không. Bậc Thánh Tăng tu chứng xuất hiện, như Sư Tử Vương giữa ngàn loài thú… và ngàn loài thú đều lo sợ tiếng rống của Sư Tử Vương… (bằng chứng là tập sách “Tạo Duyên Hoá Ðộ Chúng Sanh” và “bộ sách Ðường Về Xứ Phật” được nhà X.B Tôn Giáo cho in phát hành).

Thời kỳ Ðức Phật ra đời, ở Ấn Ðộ lúc bây giờ đã có 62 luận thuyết siêu hình tưởng, của kinh điển Vệ Ðà đã thống trị bằng tín ngưỡng cả bốn giai cấp, của xã hội Ấn Ðộ thời ấy ! Khi đức Phật rời bỏ Hoàng Cung, xuất gia làm Ðạo Sĩ… Ngài cũng bị cọng nghiệp chung lặn hụp vào các pháp tà tưởng siêu hình của Bà La Môn ấy, để tu tập khổ hạnh suốt sáu năm không thành! Cuối cùng, Ngài tự rời bỏ các vị giáo chủ này và đã tìm ra con đường giải thoát cho chính mình, rồi chỉ lại đường lối “Tu Tập – Trung Ðạo” mà Phật đã tìm ra, để con người tự lực tu tập đúng với đạo đức nhân bản của con người ở hành tinh này. Nhưng đến ngày nay, Chánh Pháp của Phật đã bị lai tạp tà giáo xen vào! Nếu không có Bậc Thánh Tăng tu chứng, chỉnh đốn lại và khai thị cho chúng ta, thì chúng ta khó mà biết được pháp nào là Chánh Pháp của Phật, Pháp nào là tà pháp mạo danh, đưa vào kinh sách của nhà Phật!...

Như vậy, ba ngôi Tam Bảo ví như ba cái vòng tròn, có chung một tâm điểm, tuy một mà có đủ ba, mà Tăng Bảo là vô cùng hệ trọng. Vì có Tăng Bảo thì Pháp Bảo mới được thực hành soi sáng, và có sự truyền bá của Tăng Bảo thì Pháp Bảo mới đem lại lợi ích cho muôn người; Tăng Bảo cũng là người đại diện cho Phật Bảo, làm gương hạnh cho chúng ta noi theo. Vì vậy, chúng ta phải tìm hiểu kỹ càng, chọn Bậc Thánh Tăng giới hạnh đàng hoàng có tu chứng cụ thể rõ ràng, rồi mới xin Qui-Y nương tựa thân cận nơi các Ngài để tu học, sẽ được khai thị soi sáng lợi ích lớn lao trên đường tu tập. Vì:

“Không có Thầy, đố mầy tu nên chi –

Bá đạo bá tri, vị chi tu bá láp!”

Ai là Trí giả? Phải rõ kẻo lầm…

Mình còn láng quáng, cõng câm dắt mù!...

Cả ba đều té lăn cù xuống mương!!...”

Tam Bảo cũng là ba đức tánh giác ngộ, chơn chánh, thanh tịnh, đang ẩn tàng nơi mỗi chúng ta – Ba đức: Sáng suốt (Giác ngộ), trong sạch (Thanh tịnh) và chơn thật bất hư (Chơn chánh) mà Phật và chư vị Thánh Tăng là những người đã phát huy viên mãn.

Chúng ta nương về Tam Bảo tu học, tức là để phát huy ba đức tánh đó đến chỗ rốt ráo là thành Thánh, thành Phật như các Ngài chớ chẳng có chi lạ cả.

Chúng ta đã có đầy đủ phước duyên Quy-y Tam bảo thì phải luôn luôn cố gắng phát huy ba đức tánh ấy đầy đủ mới tròn nghĩa Qui-Y. Ngược lại nếu chúng ta mang danh là phật tử theo đạo giải thoát của Phật mà chẳng thực hành theo giáo pháp Phật để lại, đặng sớm thành tựu ba đức tánh cao quí ấy thì hóa ra chúng ta chỉ có “Qui” mà không có “Y”. Như thế chưa phải là người đã Qui Y Tam Bảo.

MUỐN TRỞ VỀ VỚI BA ÐỨC TÁNH ẤY PHẢI LÀM SAO?

– Trước hết phải tịnh tu tam nghiệp “Thân – Khẩu – Ý” bằng cách:

1) - Thân: Không sát sanh, trộm cắp, dâm dục là đã trở về với đức tánh “Thanh-tịnh”.

2) - Khẩu: Không vọng ngôn, ác khẩu, ỷngữ, lưỡng thiệt tức là trở về với đức tánh “Chơn-chánh”.

3) - Ý: Không tham lam, sân hận và si mê tức là đã trở về với đức tánh “Giác-ngộ”.

Nói tóm, là phải tu tập mười thiện pháp để cho thân khẩu ý thường được tương ưng với Phật-Pháp-Tăng tức là đã quy-y tam bảo đúng pháp.

“Giữ gìn tam nghiệp, Khế hiệp Chơn tâm

Thân không sát đạo tà dâm

Khẩu không thêu dệt thọc đâm hai chiều

Cũng không dối gạt đặt điều

Chuyện không nói có, nói điều điêu ngoa

Miệng không mắng chưởi rầy la

Nói lời dịu ngọt ôn hòa hiền lương

Ý mã luôn đặt dây cương

Chẳng cho tham dục giận hờn phát sinh

Vẹt tan bóng tối vô minh

Nhờ đèn Tam Bảo quang minh soi lòng

Luôn luôn nhìn lại bên trong

Cầm cương ngựa ý đề phòng tâm viên

Diệt trừ vọng tưởng đảo điên

Ngăn ác diệt ác – Thiện chuyên hành trì.

Ai người chân thật Quy Y

“Tam nghiệp” “thập thiện” tu trì chớ quên.

Niết Bàn thanh thản bước lên

Từ đây thoát kiếp lênh đênh luân hồi”.

***