In bài này

GIỚI HÀNH NIỆM PHẬT

Lượt xem: 5618

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC
GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA

(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette 90)


Phần thứ năm: GIỚI HÀNH

GIỚI HÀNH TỨ BẤT HOẠI TỊNH
A.- GIỚI HÀNH NIỆM PHẬT

Hiện giờ chúng ta đang trau dồi pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh, pháp môn đầu tiên trong 37 phẩm trợ đạo. Pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh là pháp môn gây tạo cho chúng ta niềm tin sâu sắc đối với Phật, Pháp, Tăng và Giới. Nếu chúng ta không thực hiện Tứ Bất Hoại Tịnh thì khó mà có niềm tin sâu ở Phật pháp. Vì vậy chúng ta muốn trau dồi Tứ Bất Hoại Tịnh thì phải chọn lấy cái thực tế của sự tu tập trong cuộc đời của chúng ta. Nếu chọn một phương pháp nào ngoài Vô thường, Khổ và Vô ngã của cuộc đời của chúng ta mà tu thì không đúng cách.

Quý thầy đã biết ba giới đầu tiên là Tam Quy: Phật-Pháp-Tăng. Đây là ba giới gốc, do ba giới này mà sinh ra 5 giới hay 5 pháp hay nói cho đúng là sinh ra muôn giới. Vậy chúng ta đã thọ tam quy, đã thọ 3 giới này thì chúng ta phải tu tập như thế nào?

Đạo Phật có vạch cho chúng ta 8 nẽo giải thoát, (nghĩa là trong Tứ diệu đế, ở Đạo đế, đức Phật có dạy chúng ta 8 nẽo để chúng ta tu hành giải thoát). 8 nẽo đó gọi là gì? Gọi là Bát Chánh Đạo, gồm có: 1/ Chánh Kiến, 2/ Chánh Tư Duy, 3/ Chánh Ngữ, 4/ Chánh Nghiệp, 5/ Chánh Mạng, 6/ Chánh Tinh Tấn, 7/ Chánh Niệm và 8/ Chánh Định. Vậy bây giờ quý thầy hãy tu nẽo thứ nhất là Chánh Kiến với 3 giới đầu tiên đó là 1/ Phật, 2/ Pháp, 3/ Tăng. Vậy lấy pháp gì tu 3 giới này?

Quý thầy phải lấy giới hành Tứ Bất Hoại Tịnh còn gọi là Tứ Kỉnh Pháp, cũng còn gọi là Tứ Tín Lực. Chúng ta lấy Tứ Bất Hoại Tịnh mà tu hành với 3 giới này (Phật, Pháp, Tăng), bởi vì thuộc giới hành thì mình phải lấy giới và pháp để hành nó thì sẽ đem đến sự giải thoát cho thân tâm của mình ngay liền, vì vậy chúng ta mới gọi là giới hành. Biết nó là giới hành thì chúng ta phải tu tập. Như vậy là chúng ta sẽ thấy trong bước đầu mà chúng ta tu tập là Tứ Bất Hoại Tịnh, còn có tên là Tứ Kỉnh Pháp, cũng còn có tên là Tứ Tín Lực.

Ở đây, gọi là Tín Lực là niềm tin đầu tiên. Chúng ta tin gì đây? Chúng ta tin Phật, Pháp, Tăng. Vậy Tín Căn là ở chỗ nào? Phật Pháp Tăng là nơitạo lòng tin của chúng ta, tạo cái căn để chúng ta tin, cho nên Phật Pháp Tăng là Tín Căn mà Tứ Bất Hoại Tịnh là Tín Lực, là lòng tin của chúng ta nơi căn gốc đó làm cho chúng ta không hoại diệt lòng tin, không hoại diệt thân tâm thanh tịnh của chúng ta, cho nên gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh, 4 pháp làm thân tâm chúng ta không hoại sự thanh tịnh. Hiểu được như vậy thì chúng ta mới có thể bắt đầu sự tu tập, mới có thể tốt được.

Phật Pháp Tăng là Tam quy là 3 giới đầu tiên mà trong đạo Phật coi là 3 căn lành, 3 nơi tin tưởng của tất cả tu sĩ sau này. Tu sĩ nào dựa vào 3 tín căn này mà tu tập thì sẽ làm cho vị tu sĩ đó đầy đủ trọn vẹn niềm tin, bởi vì tin ai hơn? Tin Phật. Tin gì hơn? Tin Pháp. Tin ai hơn? Tin Tăng.

Tại sao Tin Phật? Bởi vì Phật là người đã thể hiện sự giải thoát, đã ra khỏi được sanh tử luân hồi, đã chấm dứt được sanh tử luân hồi.

Tại sao Tin Pháp? Pháp là những lời mà Phật đã dạy làm cho người ta tùy vào pháp đó, nương vào pháp đó mà sống được giải thoát, được ra khỏi sanh tử luân hồi, làm chủ được sống chết.

Tại sao Tin Tăng? Tăng là những người theo Phật, nương vào Phật và nương vào Pháp Phật mà thành tựu những oai nghi tế hạnh. Tăng có những kinh nghiệm tu tập, chúng ta thấy rất rõ ràng, vì vậy mà niềm tin của chúng ta đặt nơi đó cho nên không bị hoại diệt lòng thanh tịnh của chúng ta.

Ba nơi đó là ba nơi mà chúng ta tin tưởng. Ba cái căn này làm cho chúng ta tin vì vậy mà gọi là Tín Căn. Tất cả những tu sĩ của đạo Phật đều phải nương theo đây mà tu tập thì mới có đủ tín căn, mới có đủ tín lực để thực hiện con đường của đạo Phật sau này.

Nói về ngũ căn ngũ lực, chúng ta thấy rằng trong ngũ căn thì tín căn là đầu tiên, còn nói về ngũ lực thì tín lực là đầu tiên, mà đầu tiên thì nó ở đâu? Ở Phật, Pháp, Tăng chớ không thể ở chỗ khác được vì ở chỗ khác thì không thể nào có lòng tin và có lực tin được.

Bắt đầu mới vô, người cư sĩ cũng như người xuất gia, khi thọ xong tam quy, tức là họ biết Phật Pháp Tăng rồi, thì vị thầy dạy họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Thường các bậc thầy dạy họ niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng bằng miệng, bằng ý, bằng danh hiệu suông. Họ dạy như thế nào? Họ dạy niệm Phật "Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật" hoặc là "Nam mô A Di Đà Phật". Đó là họ dạy niệm bằng miệng, bằng ý niệm, v.v... hoặc là người ta dạy một câu để niệm câu đó, thí dụ câu: "Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Chi Sư, Phật, Thế Tôn". Người ta dạy mình niệm câu đó gọi là niệm Phật.Hầu hết người ta niệm Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Như vậy không có nghĩa gì hết, mà cũng không giải thoát đâu. Nhiều người niệm như thế lâu ngày mà tham sân si phiền não vẫn còn. Họ niệm "Nam mô A Di Đà Phật", ăn chay, nhưng họ vẫn còn tham muốn cái này cái kia cái nọ, chứ chưa phải họ dứt bỏ hết tham, cho nên họ còn đau khổ, họ còn làm nô lệ cho những vật chất, cho những tham ái của họ.

Còn chúng ta niệm Phật như thế nào để hết tham ái, để diệt trừ thế gian vô thường hoại diệt này? Đó là chúng ta phải niệm cho đúng cách. Nếu niệm không đúng cách thì ngàn đời chúng ta cũng chẳng được giải thoát đâu.

Đạo Phật nói khi chúng ta bắt đầu tu thì có kết quả ngay liền, không có thời gian chờ đợi. Thế mà chúng ta niệm Phật đã qua 5 năm, 10 năm rồi mà nhìn lại thì chúng ta vẫn còn tham sân si, có giải thoát hoàn toàn không? Không. Các vị Hòa thượng còn trang trí thêm, làm vẻ đẹp thêm, phạm thêm giới. Ông thầy nào, vị hòa thượng nào cũng đeo xâu chuổi ở ngực, ở cổ, làm như là các cô gái về nhà chồng đeo chuổi ngọc, những cái đó cho thấy các ông thầy quá sang, trang điểm quá đẹp. Tưởng là niệm Phật để đưa mấy ông giải thoát, ai ngờ đâu là mấy ông phá giới. Trang điểm đẹp đẻ là sai giới luật của Phật. Phật cấm không cho chúng ta đeo tràng hoa, đeo chuổi ngọc, thế mà quý thầy bây giờlàm đẹp bằng đeo xâu chuổi hạt, chuổi hạt có khi bằng ngọc. Nếu chúng ta đi đến nơi nào có làm lễ gì thì hầu hết các bậc lớn đều có chuổi hạt đeo ở cổ, rồi chuổi hạt ở trên tay. Tay có chuổi hạt nhỏ, cổ có chuổi hạt dài lớn, mỗi chuổi hạt đều chọn lấy những hạt rất bóng, rất đẹp. Mỗi chuổi hạt đều có giá trị tiền bạc rất lớn. Thậm chí họ có thể tìm những hạt trân châu để làm các chuổi đó.

Đó là sự trang trí không đúng cách của tu sĩ đạo Phật. Phương pháp niệm Phật của họ là thường hay lần chuổi để niệm từng câu Phật, nhưng chẳng đúng theo con đường của Phật dạy, vì Phật dạy đâu có lấy miệng, lấy ý mà niệm.

Phật dạy niệm Phật như thế nào? Phật dạy chúng ta lấy 4 chỗ thân thọ tâm pháp mà niệm. Người tu đúng thì lấy tứ niệm xứ Phật đã dạy để niệm; người tu không đúng thì không lấy 4 chỗ đó để niệm mà người ta lấy miệng, lấy ý để niệm. Như niệm Phật thì người ta chỉ niệm hồng danh của Phật "Nam mô bổn sư Thich Ca Mâu Ni Phật". Pháp thì họ niệm làm sao? Pháp đâu có tên gì đâu cho nên họ nói "Niệm Pháp", còn niệm tăng thì họ có niệm gì đâu, không lẻ họ niệm "Nam mô Mục Kiền Liên" hay "Nam mô Xá Lợi Phất"? Vì vậy họ niệm "Nam mô Tăng". Cho nên có nhiều chỗ thì dạy "Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng". Nên hầu hết bây giờ gặp nhau, chúng ta nói "Mô Phật", đó là chào hỏi nhau bằng từ "Mô Phật" coi như là chúng ta niệm Phật. Niệm như vậy chẳng qua là xã giao chào hỏi nhau, chứ đâu có ích lợi gì cho sự giải thoát của chính mình.

Họ chẳng biết làm sao niệm, cho nên thường họ niệm như thế này: "Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Khi họ học giới thì họ niệm "Nam mô Giới", họ chẳng biết gì khác hơn hết.

Bởi họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, như vậy thì thử nghĩ xem làm sao có sự giải thoát, niệm ở miệng thì làm sao có giải thoát được. Họ niệm cái danh từ "Phật, pháp, tăng", chứ không phải là hành động sống hằng ngày của họ phải giống Phật Pháp Tăng. Cho nên cách niệm của họ là cách niệm sai, không đúng. Thật là buồn cười, họ không biết pháp hành nên niệm Phật Pháp Tăng kiểu điên khùng, chẳng bao giờ có được sự giải thoát mà chỉ niệm theo hình tướng thôi, không giải thoát được thân tâm của họ, không thực hiện đượcbốn điều kiện đã nêu trên: thế giới là vô thường, thế giới là vô chủ, thế giới là vô hộ, thế giới là nô lệ cho tham ái. Họ không ra khỏi bốn điều kiện đó đâu.

Trước khi học Tứ Bất Hoại Tịnh quý thầy nghe lời dạy này của đức Phật để suy nghĩ cuộc sống và mọi pháp sanh diệt trong thế gian này. Đây là bài đức Phật dạy cho chúng ta biết khi chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh, trước là chúng ta phải hiểu được lí các pháp của đời sống con người phải như thế nào mà vì nó làm cho chúng ta không thể nào thực hiện được Tứ Bất Hoại Tịnh. Tứ Bất Hoại Tịnh là pháp làm chúng ta tin Phật, Pháp, Tăng được trọn đầy.

Vậy bây giờ Thầy đọc lại bài pháp khi người ta hỏi đức Phật:

"Bạch Thế Tôn, có cái gì không thực ở ngoài có thể gây lo âu phiền muộn cho mình"."

Đức Phật trả lời: "Có thể có, này các thầy tỳ kheo, ở đây chúng ta nghĩ rằng cái này chắc chắn là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi nữa. Cái này chắc chắn nó có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái này. (nghĩa là người đó nghĩ như thế này cái này là của tôi, thí dụ như cha mẹ của mình, bây giờ rủi như cha mẹ mình chết thì như thế nào, bởi cha mẹ là của mình, cho nên khi cha mẹ mình chết thì mình có buồn không? Cho nên đức Phật nói mặc dù mình thấy các pháp đó ở ngoài mình, chứ đâu phải trong thân mình, nhưng vì mình nhận nó là của mình, thì mình sẽ có sầu muộn, tai họa, khóc lóc, đấm ngực đi đến bất tỉnh khi các pháp đó mất đi).

“Này các thầy tỳ kheo, như vậy có cái không thực, ở ngoài có thể gây lo âu phiền não cho chúng ta”.

Bởi cha mẹ mình đâu phải là thực có. Thế mà mình chấp cha mẹ mình thực có, do đó có sự phiền não khi người mất đi. Đó là pháp bên ngoài. Lấy một ví dụ tượng trưng, chứ có biết bao nhiêu cái thực có bên ngoài làm mình phiền não, như cái đồng hồ này, cuốn tập này, cuộn băng cassette này, nếu chúng mất đi cũng làm cho mình đi kiếm tìm, hay thế này thế khác. Đó không phải là làm cho mình phiền não sao? Đó là tất cả pháp ở bên ngoài chứ không phải là pháp trong mình đâu mà nó cũng làm cho mình phiền não.

Theo đạo Phật mà hiểu biết như vậy thì mình hãy buông xả nó xuống đi. Đó là những pháp làm cho mình đau khổ, làm cho mình muốn chết đi, làm cho mình sầu muộn đi, có sung sướng gì đâu. Những pháp đó chúng ta hãy bỏ nó xuống đi. Nếu chúng ta không dẹp được thì chắc chắn chúng ta bị sầu khổ.

“Bạch Thế Tôn có thể có cái gì không thực, có ở ngoài có thể gây lo âu phiền muộn?” (Có người hỏi đức Phật có thể có cái gì không thực, có ở ngoài mà có thể gây lo âu phiền muộn cho mình, nghĩa là nó ở bên ngoài, nó không thực có).

"Có thể có, này các thầy tỳ kheo, có người nghĩ như sau cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi nữa. Cái gì chắc chắn là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy, thì người đó sầu muộn, than vản, khóc lóc, đấm ngực đi đến bất tỉnh". (nghĩa là có những vật bên ngoài mà người đó nhận là của mình, như cha mẹ hay nhà cửa... bây giờ mình đã hiểu biết tất cả những vật đó không phải là của mình, nó sẽ bị hoại diệt, nó sẽ bị mất mát, nó sẽ bị tiêu mòn, bị hao mất, mình không giữ được nó đâu. Nếu mình biết cái đó không phải của mình, mình không giữ được nó, nó không là vật thường hằng, vậy khi vật đó mất đi thì đừng có buồn. Nếu mình hiểu được như vậy, thì khi cha mẹ chết, mình sẽ không buồn bởi vì mình thấy cha mẹ không phải là vật của mình, không phải thật sự là cha mẹ của mình mà chỉ do nhân quả.

Thầy muốn nói khi chúng ta đi vào con đường tu theo đạo Phật không phải chúng ta là những con người vong ân bội nghĩa đối với cha mẹ. Chúng ta biết công ơn sanh thành của cha mẹ, nhưng tâm niệm của ta đừng dính mắc vào cái không thật đó để rồi khi cha mẹ chết mình sầu muộn mà mình phải cứu lấy mình. Mình biết cha mẹ là cái không thật, mình không thể nào chết thay thế cho cha mẹ mình được, cũng không thể nào gánh vát các bất hạnh cho cha mẹ mình được. Do vậy khi cha mẹ mình chết, mình không buồn, vì mình biết cha mẹ không phải là của mình mà do nhân quả. Do chỗ thấy này, mình biết được chỉ có tu tập mới giải thoát được.

"Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực, ở trong có thể gây lo âu phiền muộn chăng?". Đức Phật nói có thể có. "Ở đây, này các thầy tỳ kheo, có người có tà kiến thủ: đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ có, cái này thường còn, thường hằng, thường trú, không hoại diệt."

Đó là mình có những tà kiến, có những kiến chấp cho cái này đúng, cho cái kia sai. Mình cho những cái đó là cái đúng của mình và chấp nhận cái đó là cái đúng của mình, vậy cho nên khi những cái này không thỏa mãn cho mình thì đâm ra buồn, đâm ra đau khổ, tức tối.

Những cái chưa phải đúng đó là tà kiến của mình, chưa phải là chánh kiến, vì chánh kiến thì mình phải thông suốt nó, vì nó là những cái ở trong tâm của mình. Cái đòi hỏi, cái ham muốn đều ở trong tâm của mình, những cái đó đều làm cho mình đau khổ, làm cho mình phiền não.

"Tôi sẽ nghĩ như thế nào, người này nghe Như Lai hay đệ tử của Như lai thuyết pháp, loại trừ tất cả những kiến xứ này, những cố chấp, thiên kiến này, thiên chấp này."

Những tà kiến đó, kiến xứ đó, cái cố chấp đó, cái thiên chấp đó, cái thiên kiến đó, cái tùy miên, cái miên man ở trong đó, sự đòi hỏi ham muốn của mình về điều đó và khi được Phật và các đệ tử của ngài chỉ rõ cho mình biết cái đó không đúng thì từ đó mình phá vỡ cái tà kiến, cái kiến chấp đó đi thì cái tâm của mình sẽ được thoái mái và dễ chịu cho nên nó tịnh chỉ mọi hành động, từ bỏ mọi sanh y, diệt trừ mọi khát ái cho đến li tham đoạn diệt, Niết bàn. Người đó khi được nghe như vậy mà hiểu được thì hoàn toàn được giải thoát, hoàn toàn li được các kiến xứ đó.

Nếu người đó không hiểu thì họ nghĩ rằng lời của Phật và các đệ tử của ngài nói như vậy là mình đoạn diệt hết những tà kiến, những kiến xứ, những thiên chấp này thì khi mình đoạn diệt nó hết rồi, khi mình li hết lòng ham muốn của mình rồi, thì mình mất tiêu luôn, mình không còn có nữa, như vậy là đoạn mất hết còn gì. "Người đó có thể khởi nghĩ như sau chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại. Người đó nghĩ như vậy rồi đau khổ, sầu muộn, than vãn, đấm ngực, đi đến chỗ bất tỉnh."

"Này các thầy tỳ kheo, có cái không thực, có ở trong ta, có thể gây cho ta phiền muộn."

Nếu chúng ta bị kiến chấp rồi chúng ta không thỏa mãn được những cái đó, rồi chúng ta nghe những lời của đức Phật dạy mình phải đoạn trừ cái đó đi. Người đó lại khởi nghĩ nếu đoạn trừ thì mất hết, mình phải còn cái gì chứ nếu mất hết, như nói cha mẹ của mình mà bảo mình bỏ đi, đức Phật dạy như vậy mình bất hiếu sao, mình không thương cha mẹ thì còn thương ai, cha mẹ chết mà không khóc là sao?

Đức Phật muốn nói bỏ ở đây không có nghĩa là bỏ cha mẹ mà bỏ cái tâm nức nở, cái tâm than khóc trước sanh tử luân hồi. Mọi người chắc chắn ai cũng phải đi vào con đường đó hết. Vậy là mình không khổ, chứ không có nghĩa là bỏ cha mẹ chết đói hay để cho cha mẹ chết đi. Đâu có nghĩa như vậy. Đó là những cái tà kiến, kiến xứ sai của tâm, làm cho mình khổ sở, làm cho mình khổ đau. Mình hiểu đúng những lời của Phật dạy thì mình không khổ, và mình thấy mình hết phiền muộn.

"Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong lại không gây lo âu phiền muộn?"

Thế Tôn đáp: "- Có thể có, này các thầy tỳ-kheo, ở đây, có người không có tà kiến như sau" (nghĩa là những người không có tà kiến, không có kiến chấp, không có thiên chấp cho nên họ dễ giải thoát lắm), "đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này mãi mãi". (người đó có những tà kiến như vậy, họ nghĩ như vậy. Nhưng khi họ nghe Như Lai hay đệ tử của Như Lai nói rồi thì họ không còn dính mắc cái đó nữa, họ buông xuống.

Cũng như quý thầy yêu cầu Thầy giảng thì Thầy lần lượt giảng cho quý thầy nghe hết. Nhưng trên bước đường giảng giáo án là phải đi tuần tự để xây dựng lại một đường lối không nghiêng về một người nào hết mà đây là dựng lại Phật pháp.

Quý thầy hôm nay được nghe đường đi của đạo Phật là phước báu của quý thầy. Quý thầy chỉ được nghe đường đi của đạo Phật, chớ không phải quý thầy muốn ngay liền quý thầy học cái pháp thiền nào đó để về tu. Cái ham muốn đó là cái ham muốn sai pháp, nó đưa đến bất mãn cho quý thầy, không toại nguyện được cho quý thầy. Nhưng làm sao khi Thầy là người dựng lại đường đi của đạo Phật cho đúng cách để cho người sau, không riêng gì quý thầy đang hiện có mặt ở đây, mà còn biết bao nhiêu người đang mong đợi. Và nhiệm vụ của quý thầy là nghe, nghe rồi còn phải suy tư chín chắn, còn phải giải quyết, còn phải lo lắng thu xếp đời sống của mình như thế nào để đi được trên con đường này, thì đó là vấn đề quan trọng của quý thầy. Nghe giáo án không phải là để quý thầy giải thoát liền bây giờ. Còn quý thầy đòi hỏi cấp thời, tức là quý thầy không thấy được giai đoạn cuối cùng mà Thầy nói ra lời này.

Nếu Thầy thấy rằng không đủ duyên độ chúng sanh thì Thầy chẳng làm mích lòng ai hết, thì Thầy giảng giáo án này làm gì? Trong mùa hạ này, quý thầy đến dự với Thầy chỉ muốn tu thiền, thì Thầy chỉ dạy thiền cho quý thầy mà thôi, hay quý thầy muốn tu hơi thở thì Thầy dạy về hơi thở thôi. Quý thầy chẳng hiểu các pháp khác ra làm sao hết thì mặc quý thầy. Đến khi 3 tháng hạ này qua rồi, quý thầy về chùa của quý thầy hay trụ xứ của quý thầy, quý thầy hiểu được chỉ bấy nhiêu thôi. Quý thầy đến đây muốn tu hơi thở thì Thầy chỉ dạy về tu hơi thở, muốn tu cái gì thì Thầy chỉ dạy cho cái nấy, Thầy chỉ sửa lại cho đúng những cái sai của quý thầy thôi, rồi trong 3 tháng này các thầy tu tới đâu mặc các thầy, Thầy không có trách nhiệm.

Còn đằng này Thầy dựng lại giáo án này tức Thầy có trách nhiệm với quý thầy từ cái thấp đến cái cao. Tuy trong những ngày hạ quá ngắn ngủi, Thầy vẫn đem hết sức của mình ra để xây dựng giáo án cho quý thầy thấy rõ được con đường đi của Phật pháp, để quý thầy có duyên đem giáo án này ra tu tập, lợi ích cho mọi người. Còn riêng Thầy, kể từ ngày giáo án này ra đời rồi thì Thầy đã ẩn bóng, chuyện danh chuyện lợi, Thầy đâu còn, Thầy đã ẩn bóng, đâu còn đi thuyết giảng nữa, Thầy đâu còn gặp ai mà thuyết giảng nữa, Thầy đâu còn độ ai nữa, cuộc đời Thầy sống mà như đã chết rồi. Thầy đã nói rõ ràng những lời Thầy này coi như những lời di chúc của Thầy.

Ngày xưa đức Phật di chúc cho các đệ tử của Ngài lấy giới luật mà làm thầy, còn Thầy để lại giáo án này là để lại lời di chúc của Phật, tức là giới luật của Phật. Thầy làm xong giáo án này là trách nhiệm của Thầy coi như là độ chúng sanh làm Phật. Ai tu được hay không tu được đó là phước báu của họ, chứ không phải của Thầy nữa. Thầy đã làm xong nhiệm vụ của Thầy.

Những ý kiến của quý thầy đưa lên đó là những ý kiến không đúng với giáo án của Thầy, làm cho giáo án gián đoạn đi. Thay vì Thầy phải giảng từng bực từng bực của 37 phẩm trợ đạo. Trước kia Thầy đã dạy một số trong 37 phẩm trợ đạo, Thầy đã dạy Tứ Vô Lượng Tâm từ bi hỉ xả, rồi đến Tứ Chánh Cần, rồi nay đang giảng giới hành Tứ Bất Hoại Tịnh. Sắp đến đây quý thầy sẽ học Ngũ Căn, rồi Ngũ Lực, rồi sau đó mới học tới Trạch Pháp Giác Chi, Tứ Niệm Xứ, rồi mới dạy tới Tứ Như Ý Túc, tứ thiền, rồi mới tới Tam Minh.

Trong đó Thầy xen vào Bát Chánh Đạo, tức là Chánh Kiến phải như thế nào, Chánh Tư Duy phải như thế nào, lần lượt khai triển 8 nẽo này ra trong những pháp tu này. Trong khi đó Thầy xen vào 4 Chơn Lý Khổ Tập Diệt Đạo. Như hồi nãy giờ là Thầy xen Khổ Tập vào rồi. Các pháp bên ngoài làm chúng ta khổ tức là Khổ Tập chứ gì, đó là chơn lý.

Cha mẹ mình chết làm sao mình không khổ, nhưng khi cha mẹ mình chết mình thấy đó là nhơn quả, vì vậy cho nên mình không buồn, mình làm cho hết bổn phận của người con đối với cha mẹ chớ không phải ngồi khóc than cha mẹ chết.

Như vậy là đạo Phật muốn cho chúng ta thoát ra khỏi tâm dày vò đau khổ, mình phải thấy hiểu biết nhân quả cho rõ ràng. Như vậy là Thầy đã dạy Khổ Đế. 

Rồi cái tư tưởng, cái kiến chấp của mình như thế này, như thế kia mà không thỏa mãn được, rồi sanh ra buồn khổ. Chúng ta biết rằng đó chính là cái pháp bên trong của mình làm cho sanh ra những đau khổ đó. Đó là những cái mà đức Phật đã nêu ra trong Khổ Đế.

Khổ Đế bên ngoài là các pháp bên ngoài làm cho tâm chúng ta khổ. Rồi các pháp bên trong ta có những pháp làm cho chúng ta đau khổ. Do chỗ này mà Thầy đã giảng cả Khổ Tập Diệt Đạo. Như vậy là Thầy đã dạy cả 4 chơn lí Khổ Tập Diệt Đạo của Phật, rồi từng cái chúng ta tu tập trên 8 nẻo Chánh Đạo đều lần lượt diễn tả trên 4 chơn lí này hết, không thiếu chỗ nào cả. Như vậy quý thầy đã thấy được điều Thầy đã dạy.

Quý thầy thấy được từ nội tâm của ta khi không có các pháp làm chúng ta khổ và cũng không có các pháp bên ngoài làm chúng ta khổ, tức là chúng ta li dục li ác pháp rồi. Mà li dục li ác pháp rồi thì chúng ta sẽ sống như Phật. Cho nên chúng ta sẽ thành tựu được rất dễ Tứ Bất Hoại Tịnh. Nếu chưa li dục li ác pháp mà muốn tâm mình giống như tâm Phật thì chắc chắn rất khó, cho nên hằng ngày chúng ta phải dùng pháp hành như thế nào để thực hiện cho được Tứ Bất Hoại Tịnh.

1.- THÂN NIỆM PHẬT

Trong kinh sách Phật dạy có bốn chỗ niệm gọi là Tứ Niệm Xứ, đó là Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Vậy Thân niệm Phật là niệm làm sao? Đặt câu hỏi để thấy chỗ lấy thân niệm Phật thì phải niệm như thế nào cho được. Bởi vì Phật dạy lấy bốn chỗ thân thọ tâm pháp để niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, thế thì chúng ta phải niệm làm sao đây, niệm như thế nào?

Chúng ta đã thọ tam quy tức là nương tựa Phật Pháp Tăng rồi. Vậy nương tựa Phật Pháp Tăng là nương tựa như thế nào. Chữ nương tựa ở đây không có nghĩa là nhờ vả, vì khi nhờ vả người ta thì mình làm biếng không chịu làm. Người ta có gì cho mình ăn hay giúp đở mình cái gì thì mình không chịu làm. Đó là nhờ vả. Ở đây chữ nương tựa không có nghĩa là nhờ vả, mà chỉ có nghĩa sống đúng như Phật sống, sống đúng như pháp dạy, sống đúng như chư tăng sống, thì đó là gọi là nương tựa. Chữ nương tựa ở đây là quy y, mà quy y là trở về nương tựa, tức là sống đúng như vậy, do đó chúng ta hiểu chúng ta phải dùng bốn chỗ thân thọ tâm pháp của chúng ta để sống như Phật Pháp Tăng Giới.

Vậy thì nương tựa như thế nào để sống cho giống.

Thân niệm Phật là thân ta phải sống giống như thân Phật. Sống giống như thân Phật là khi thân của chúng ta niệm Phật thì ta phải xem thân Phật sống như thế nào trong trường hợp đó thì thân chúng ta phải sống như Phật vậy, gọi là thân niệm Phật, chớ không phải niệm Phật mà chỉ đọc danh từ suông là "Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật" đâu. Niệm Phật đúng là thân ông Phật sống như thế nào thì thân ta phải sống giống như thân ông Phật vậy.

Vậy thân Phật sống như thế nào? Ở đây Thầy tóm lượt lại để quý thầy thấy thân Phật như thế nào thì thân ta niệm Phật cũng phải vậy.

1- Thân Phật thường hay phòng hộ sáu căn. Phật đi ra có nhìn bên nay bên kia không? Phật có ngó láo liên không? Khi Phật đi Phật nhìn xuống đất giữ gìn sáu căn của Phật không ngó qua ngó lại. Vì vậy thân chúng ta niệm Phật thì phải bắt chước Phật, phải sống như Phật, chúng ta đi cũng phải ngó xuống để phòng hộ sáu căn. Phật đi không ngó qua ngó lại, chỉ nhìn xuống đất quan sát từng bước đi của mình để tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Vậy thân ta niệm Phật thì thân ta cũng phải phòng hộ sáu căn, mắt phải nhìn xuống đất, không nhìn qua nhìn lại, luôn luôn ý tứ từng bước đi, tránh không làm đau khổ chúng sanh và giết hại chúng sanh. Hành động như vậy gọi là thân niệm Phật.

2- Thân Phật thường đi ăn xin. Thân ta niệm Phật thì ta cũng phải đi ăn xin như Phật. Phật ăn xin mà mình không ăn xin, lại đi làm nghề này nghề khác, cuộc sống không giống Phật, như vậy mình có niệm Phật không? Thân niệm Phật thì thân ta phải sống giống Phật chứ. Thân ta không niệm Phật là thânta sống không giống Phật.

3- Thân Phật thường hay ngồi thiền, thân ta niệm Phật thì thân ta cũng thường hay ngồi thiền.

4- Thân Phật thường đi kinh hành. Thân ta niệm Phật thì thân ta cũng phải thường hay đi kinh hành.

5- Thân Phật không giết hại chúng sanh. Thân ta niệm Phật thì thân ta cũng phải không giết hại chúng sanh.

6- Thân Phật không làm khổ mình khổ người. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không làm khổ mình khổ người.

7- Thân Phật không lấy trộm của ai. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không lấy trộm của ai.

8- Thân Phật không làm điều dâm dục. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không bao giờ làm điều dâm dục.

9- Thân Phật không ăn uống phi thời. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không ăn uống phi thời.

10- Thân Phật ít ngủ, không hôn trầm thùy miên. Thân ta niệm Phật cũng vậy, ít ngủ, không hôn trầm thùy miên.

11- Thân Phật không nằm giường cao rộng lớn. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không nằm giường cao rộng lớn.

12- Thân Phật không trang sức vòng hoa chuổi hạt. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không trang sức vòng hoa chuổi hạt.

13- Thân Phật không cất giữ tiền bạc, của báu. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không cất giữ tiền bạc, của báu.

14- Thân Phật nằm nghiêng theo kiểu kiết tường. Thân ta niệm Phật cũng phải nằm nghiêng theo kiểu kiết tường.

15- Thân Phật thường hay đặt niệm trước mặt, ngủ mà rất tỉnh thức nên không mộng mị chiêm bao. Thân ta niệm Phật cũng vậy, thường đặt niệm hơi thở trước mặt, tỉnh thức, không mộng mị chiêm bao.

Phần thứ hai là Thọ niệm Phật. Thọ niệm Phật như thế nào?

Phật đã làm chủ được ba trạng thái thọ: 1/ Thọ lạc, 2/ Thọ khổ, 3/ Thọ bất lạc bất khổ. Bây giờ chúng ta hiểu được ba cái thọ như vậy thì thân Phật đối với ba cái thọ này như thế nào?

1- Thọ lạc niệm Phật. Phật không ưa thích cái lạc, cũng không vui mừng, cũng không ca ngợi, cũng không cầu mong, cũng không ước muốn, cũng không tưởng nhớ cái lạc. Do thế thọ lạc không tác dụng và lôi cuốn được Phật, không làm Phật đam mê, không làm say đắm Phật. Vì thế thọ đến đi như không có mặt thọ, thọcó mà như không có. Chúng ta thấy rõ ràng.

Thọ lạc như mình ăn miếng ngon, thấy nó ngon mình thích, mình ca ngợi cái này ngon quá, mình cầu mong ước muốn còn có ăn nữa, mình tưởng nhớ nó nữa. Còn Phật thì ngon dở gì cũng không cần thiết, cho nên đối với Phật thọ lạc không ăn thua nhằm nhò gì, không lôi cuốn, không say đắm Phật được. Chúng ta lấy thọ niệm Phật thì thọ của chúng ta cũng phải giống như Phật vậy, phải y như Phật vậy, cho nên chúng ta ăn ngon, hay chúng ta nằm êm ấm,... khi chúng ta có cảm giác khoái lạc, chúng ta chẳng thích gì cả. Đối với Phật thì Phật đâu chấp nhận thọ lạc, đâu tham mê nó, đâu có bị nó lôi cuốn. Chúng ta tu hành theo Phật cũng vậy, đối với thọ lạc chúng ta cũng không ham thích.

Người đời thích thọ lạc ở cái này cái kia, như thích ăn ngon, thích uống nước ngọt, thích uống rượu, mê hút thuốc... Họ chạy theo thọ lạc, họ mê tất cả những cái này. Trái lại, chúng ta là người tu Tứ Bất Hoại Tịnh, tu theo Tam Quy mà tâm niệm Phật thì chúng ta lấy thọ lạc niệm Phật, ta phải sống giống như Phật, không ưa thích, không vui mừng, không ca ngợi, không cầu mong, không tưởng nhớ, không ước muốn thọ lạc, nhờ thế thọ lạc không tác dụng được ta, không lôi cuốn, không làm cho ta đắm mê. Muốn được vậy ta phải tu tập như thế nào? Ta phải dùng những pháp Phật như thế nào để cho thọ niệm Phật. Nãy giờ Thầy đã tóm lượt từ thân niệm Phật, Thọ niệm Phật.

Chúng ta phải thấy rằng khi chúng ta chưa có pháp hành mà chỉ nói suông thôi thì đó là lí pháp, chỉ nói cái lí chứ chưa phải là hành pháp, không có cái hành. Vậy phải trở lại vị trí Thân niệm Phật, từ đó chúng ta mới đi tới Thọ niệm Phật, rồi Tâm niệm Phật, rồi Pháp niệm Phật như thế nào để cho có pháp hành kèm theo. Nếu chúng ta cứ nói lí pháp mà không có pháp hành thì biết gì để tu, biết gì để chúng ta lấy Thân niệm Phật được. Muốn sống được như Phật đâu phải dễ, cho nên phải có pháp hành. Mà pháp hành tức là giới hành của chúng ta.

Thân niệm Phật như thế nào? Phải dùng giới hành hộ trì sáu căn.

Hồi nãy Thầy có giới thiệu chúng ta phải hộ trì sáu căn. Bắt đầu người tu sĩ muốn Thân hành niệm Phật thì phải chọn nơi để tâm chuyên nhất cảnh. Tâm chuyên nhất cảnh như thế nào? Quý thầy phải lựa chọn một chỗ an trú thanh vắng như một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một bải tha ma, một hang đá, một núi rừng, hay giữa trời không mông quạnh, một đống rơm, một chòi lá bên giòng suối. Đó là những nơi lí tưởng để chúng ta thân hành niệm Phật, đó là cảnh gọi là Tâm Chuyên Nhất Cảnh. Thân Phật thường thường phòng hộ sáu căn, vậy bây giờ mình cũng phòng hộ sáu căn. Mình đi ngó nhìn xuống như Phật thì mình phải tập như thế nào, phải hướng tâm nhắc như thế nào để cho mình đạt được phòng hộ sáu căn. Đó là hành động tu tập của chúng ta gọi là pháp hành hay giới hành.

Vậy phòng hộ sáu căn như thế nào?

A- Loại sắc nào do mắt phân biệt khi ta thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng thiện pháp suy giảm thì loại sắc do mắt phân biệt đó ta nên tránh xa, nghĩa là bây giờ một vật gì có hình tướng, có sắc tướng khi mà chúng ta thân cận nó thì bất thiện pháp tăng trưởng, các thiện pháp suy giảm. Loại sắc nào do mắt phân biệt khi ta thân cận mà bất thiện pháp suy giảm mà thiện pháp tăng trưởng thì ta nên thân cận.

Thí dụ có những đồ vật khi ta thân cận mà các đồ vật đó bị mất hay hư hao, tâm ta có biến động thì ta không nên thân cận chúng. Bây giờ chúng ta bỏ hết, chỉ còn 3 y một bát đi khất thực thì có thấy các thiện pháp tăng trưởng không? Nó tăng trưởng rất nhiều, nó làm chúng ta thấy không còn bận tâm lo lắng, không còn sợ hãi, không còn sợ trộm cướp, không còn gì hết. Như vậy là chúng ta thấy an ổn cho nên thiện pháp tăng trưởng, làm chúng ta không còn mất mát gì hết, ngủ rất an vui. Còn bây giờ chúng ta giữ một ngôi chùa, làm trụ trì một ngôi chùa mà để mất chuông đồng, tượng Phật bằng ngọc, bằng vàng thì có khổ tâm không? Chúng ta lo lắng đủ thứ hết, như vậy là ác pháp tăng trưởng thiện pháp tổn giảm. Hay ở các chùa có ốp gạch sáng đẹp thì phải chùi rửa cho bóng sạch. Thôi thì xa lìa hết các thứ đó đi là xa lìa các ác pháp, không còn lo lắng gì cả.Ăn ngon ngủ yên là thiện pháp tăng trưởng.

B- Loại tiếng nào do tai phân biệt, đem đến cho chúng ta thiện pháp tăng trưởng, ác pháp suy giảm thì tiếng đó nên thân cận. Như bây giờ quý thầy nghe âm thanh Thầy thuyết giảng đem đến lòng thiện, đem đến cho quý thầy sự tu tập thì tiếng đó là tiếng tốt, còn tiếng nào nghe nó rỉ rã làm cho chúng ta thương vay khóc mướn, làm chúng ta đau sầu khổ, nghe nó thì thương nhớ cái này thương nhớ cái kia, những tiếng đó là tiếng không tốt, những tiếng chửi lộn đánh mắng cũng không tốt. Vậy chúng ta nên xa lìa những ác pháp đó, mà hãy gần gủi âm thanh dạy đúng chánh pháp để chúng ta li tất cả thế giới vô thường hoại diệt này đi, li tất cả thế giới vô hộ vô chủ này đi, li tất cả thế giới tham ái khao khát không bao giờ cùng tận này đi. Tức là chúng ta phải chọn tiếng nào đúng tiếng nào sai.

C- Loại hương nào do mũi phân biệt hương mà giải thoát, hương nào làm chúng ta mê. Như chúng ta ngửi mùi hương của hoa hay mùi này kia thơm quá, mê quá. Đó là hương làm chúng ta đam mê; mùi hương của loài hoa chỉ đi theo chiều gió cuốn thôi, không thể đi ngược gió được. Trái lại mùi hương đạo đức, mùi hương nhân quả là những mùi hương làm cho chúng ta giải thoát. Mùi hương đó đi ngược gió, đi bốn hướng được, mùi hương của đạo đức nhân quả sẽ đi ngược gió, là những mùi hương tốt. Cho nên chúng ta nên chọn lấy mùi hương tốt, nó sanh ra thiện pháp, nó làm chúng ta không làm những hành động ác, do đó chúng ta nên chọn mùi hương tốt đó.

D- Loại vị nào do lưỡi phân biệt là vị ngon dở ngọt bùi của thế gian, là những loại vịbất tịnh, ảo giác, chúng ta hãy xa lìa đi. Còn loại vị li dục li bất thiện pháp, nó sanh ra những hỉ lạc của li dục li bất thiện pháp thì chúng ta hãy chọn cái đó.

Như vậy thì ở trong bốn thiền chúng ta thấy thiền thứ nhất đến thiều thứ tư, do chúng ta li những vị của thế gian, chúng ta li ra hết, do đó chúng ta mới thọ hưởng được những vị xuất thế gian. Những vị đó làm chúng ta liên tục được kéo dài mãi sự hỉ lạc. Còn loại vị chúng ta thọ hưởng của thế gian chỉ thấy ngon ở miệng nhưng khi nuốt qua khỏi cổ thì hết ngon rồi; chỉ chớp mắt ở miệng thôi, loại vị đó chúng ta nên lìa nó đi, bỏ nó đi.

E- Loại xúc chạm nào do thân phân biệt, loại xúc chạm nào gây sự cảm xúc khoái lạc thế này thế kia, như sự êm ấm của nệm mút, chăn bông, chăn lông làm chúng ta thấy êm ấm thân chúng ta, thì chúng ta xa lìa hết đi.

"Sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý phải tập trung dưới bước đi, không được phóng dật theo sáu trần sắc thinh hương vị xúc pháp", tức đi không ngó qua ngó lại bên nay bên kia. Đó là nhắc nhở chúng ta đừng để mắt tai mũi miệng thân ý phóng dật ra bên ngoài, luôn luôn tập trung dưới bước đi. Nhắc nhở như vậy may ra mới phòng hộ được nó.

Bây giờ Thầy nói những pháp hướng quý thầy phải nhớ cho kỹ và hằng ngày siêng năng tu tập.

Trong buổi tối không phải chúng ta chỉ ngồi theo dõi hơi thở thôi, nhiều khi chúng ta phải cần thời gian dùng các pháp hướng phòng hộ sáu căn để chúng ta tu tập, chúng ta phải nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, chứ không khéo thì quý thầy sẽ không đạt được kết quả tốt.

Bao giờ cũng phải nhớ rằng chúng ta phải phòng hộ sáu căn đừng cho dính mắc sáu trần. Vốn thân tâm của chúng ta dễ dính mắc sáu trần, hở chút nào nó cũng dính mắc, ngay bước đầu mà không phòng hộ nó thì chúng ta không đạt được sự giải thoát. Cho nên muốn tu tập thiền định của đạo Phật thì sự phòng hộ là điều kiện tiên quyết.

Ở đây chúng ta lấy 3 giới đầu tiên là Phật Pháp Tăng, là những gương hạnh giải thoát, nương vào những gương hạnh đó mà sống một cuộc sống cho đúng cách. Muốn sống đúng cách thì pháp hướng phòng hộ là phải siêng năng chuyên cần tu tập. Nếu không siêng năng chuyên cần tu tập pháp hướng phòng hộ thì quý thầy khó đạt được sự giải thoát.

Hôm nay Thầy nói đến giai đoạn giới hành này là những lời tâm huyết rất quan trọng vì chúng ta sống trong thiện pháp mà không có pháp hành thì không thể nào sống được. Chúng ta phòng hộ sáu căn mà không có pháp hành thì chúng ta chỉ gìn giữ đi nhìn xuống đất có một lúc thôi, không bao giờ chúng ta giữ gìn nó mãi được. Nếu hằng ngày chúng ta siêng năng chuyên cần nhắc tâm ta mãi bằng pháp hướng cho thấm cái lí như vậy thì khi đi ra tự nó đã nhìn xuống đất, không còn nhìn ngó chỗ này chỗ kia. Tự nó đã thấy thế giới này là vô thường, là khổ, là hoại diệt nên nó chẳng còn ham muốn một vật nào hết. Do sự nhắc pháp hướng này nó làm cho chúng ta giữ gìn thân tâm, mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta rất thanh tịnh, không còn bị đắm nhiểm nữa.

Nhớ như vậy thì quý thầy phải siêng năng hết sức mà tu tập vì rồi đây quý thầy sẽ không còn nghe những lời của Thầy nhắc nhở quý thầy nữa.Khi đó quý thầy lấy bài này và xem lại những lời của Thầy. Quý thầy sẽ không bao giờ có một vị Thầy bằng xương bằng thịt trực tiếp nhắc nhở quý thầy như vầy, quý thầy không còn trực tiếp nghe nữa, quý thầy chỉ còn đọc hay nghe lời ghi âm của Thầy nhắc nhở mà thôi. Dù quý thầy ở bất kỳ đâu, lời nói này vẫn còn nhưng quý thầy sẽ không còn thấy trực tiếp thấy Thầy nữa, do vậy quý thầy phải nhớ kỹ, phải nỗ lực, phải siêng năng tu tập những lời này. Đây là những lời tâm huyết, những lời kinh nghiệm do bản thân tu tập của Thầy nói ra để cho quý thầy biết.

Khi Phật nói ra mà trong kinh điển ghi lại, Thầy biết đó là những lời tâm huyết của Phật. Khi Phật nói Như Lí Tác Ý, như cái lí giải thoát đó mà tác ý thì chúng ta mới phòng hộ được sáu căn; như cái lí mà tác ý thì chúng ta mới nhập được định; như cái lí mà tác ý thì chúng ta mới thực hiện được đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực. Còn không có như lí tác ý làm sao chúng ta có được những đại oai lực, đại thần lực, đại minh lực được. Nên pháp như lí tác ý này là pháp tuyệt vời, quý thầy phải nhớ kỹ, đừng để quên. Hằng ngày phải trau dồi thân tâm của mình liên tục, không được gián đoạn, lúc nào chúng ta cũng phải phòng hộ sáu căn. Vì con đường sanh tử không chờ quý thầy đâu. Nó đến là nó đến chớ không thể nào quý thầy nói với nó ngươi phải hoản lại chờ một giây lát được. Cho nên khi quý thầy còn một chút hơi thì phải nỗ lực thực hiện phòng hộ chứ đừng để khi co tay giật chân rồi thì tu không kịp nữa đâu. Có như vậy thì quý thầy mới thực hiện được con đường giải thoát này.

Trên đây là trạch pháp để phòng hộ sáu căn. Nhờ giới hành phòng hộ sáu căn nên oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ hiện lên rất rõ nét. Xét về quả tu, từ bắt đầu vào đạo đã được dạy Thân niệm Phật là pháp phòng hộ sáu căn đầu tiên này thì ngay trong hiện tại vị tu sĩ ấy cảm thấy mình không còn dính mắc sáu trần nên tâm lúc nào cũng quay hướng vào trong và nhận ra có một trạng thái li dục li ác pháp qua sự hành trì này.

Đó, quý thầy thấy chưa, khi quý thầy phòng hộ được sáu căn thì ngay đó quý thầy đã thấy được trạng thái tâm của quý thầy li dục li ác pháp. Chỉ phòng hộ thôi, chưa tu gì hết, chỉ giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình cho nó li dục li ác pháp. Mà khi đã li dục li ác pháp rồi thì có trạng thái giải thoát thật sự, tâm hồn thanh tịnh thanh thản làm cho chúng ta có một niềm hân hoan. Hân hoan ở đây không có nghĩa là cái vui của thế gian, mà hân hoan là làm chúng ta trở thành người vô sự hoàn toàn đối với các pháp thế gian, vô sự hoàn toàn không còn dính mắc trong các pháp thế gian này, cho nên gọi là vô sự với một tâm hồn vô sự.

Quý thầy chỉ mới tu có bấy nhiêu đó thôi mà cũng đủ cho quý thầy được li dục li ác pháp rồi, đâu còn đòi hỏi gì nữa. Nếu quý thầy siêng năng tu tập, kết quả này ngày càng sâu hơn, li dục li ác pháp ngày càng tiến tới thì quý thầy sẽ nhập được Sơ thiền, rồi Nhị thiền, Tam thiền, rồi Tứ thiền, rồi làm chủ sự sống chết của thân này, rồi kết quả của nó là quý thầy sẽ chấm dứt được luân hồi tái sanh.

Bởi vậy Phật Pháp có kết quả hiện tại, không có thời gian, nghĩa là đạo Phật dạy chúng ta khi tu đúng thì chúng ta không có chờ thời gian 5 ngày, hay 10 ngày sau mà có giải thoát ngay trong hiện tại. Tại sao vậy? Tại lúc bấy giờ quý thầy chỉ dùng pháp hướng nhắc tâm mình. Đâu có gò bó thân tâm mình, đâu có làm cho nó mệt mỏi, đâu có ức chế thân tâm mình chỗ nào, cho nên đâu có gì làm rối loạn cơ thể của quý thầy khiến quý thầy thấy nhức vai, đau lưng, tức ngực. Ở đây quý thầy chỉ nhắc phòng hộ sáu căn, suy tư trong nhẹ nhàng khoan thai thư thả, không có gì hết, làm sao quý thầy có trạng thái gì khiến khổ đau trong thân quý thầy đâu, làm sao có gì dính mắc trong tâm quý thầy đâu mà làm cho quý thầy phải giận hờn buồn phiền đau khổ.

Cho nên ngay khi mới ngồi thẳng lưng kiết già phòng hộ sáu căn là quý thầy đã thấy được sự giải thoát thật sự của nó rồi. Đâu phải ngồi cho đến khi hai chân quý thầy tê đau nhức khổ sở để rồi quý thầy nói sao tôi ngồi thiền đau nhức. Đâu có ai bảo quý thầy ngồi lâu dữ vậy, quý thầy chỉ ngồi trong 5, 10 phút đặt cái niệm trước mặt của quý thầy, rồi quý thầy dùng pháp hướng mà nhắc tâm quý thầy phòng hộ sáu căn, chứ đâu bắt quý thầy ngồi 1, 2, 3 giờ để quý thầy chịu đau chịu khổ mà quý thầy nói là khổ sở. Phật dạy quý thầy ngồi có sự an lạc của ngồi, đi có sự an lạc của đi, đó là sự giải thoát, quý thầy chỉ cần dùng pháp hướng để nhắc tâm mình thấm nhuần được đạo lí giải thoát của đạo Phật.

Khi quý thầy tu hành mà nghe bất an trong thân và tâm của quý thầy, đó là quý thầy tu sai pháp của Phật, đó là tu theo pháp của ngoại đạo, nên làm thân của quý thầy nhọc nhằn khổ sở mệt mỏi, hôn trầm, thùy miên, vô ký. Đó là quý thầy tu sai. Còn quý thầy tu đúng thì không hôn trầm, không thùy miên, không mệt nhọc gì cả, lúc nào cũng thấy giải thoát an vui, rất là tỉnh táo. Mới bước đầu quý thầy tu pháp phòng hộ sáu căn thì quý thầy đã thấy quá rõ ràng, có sự giải thoát cụ thể, không thể nào chối cải được.

Điều này chứng minh hùng hồn, không thể chối cải được, do thế mới gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh là Tín lực nghĩa là sức lực của niềm tin mạnh mẻ, nghĩa là khi chúng ta vào tu mà thực hiện sự phòng hộ sáu căn thì chúng ta tin rằng đúng là chúng ta đã giải thoát thật sự rồi. Từ chỗ kết quả đó, chúng ta có lòng tin mạnh mẽ, gọi là tín lực. Tín lực là lòng tin mạnh mẽ của kết quả giải thoát, có sự an lạc, có sự thích thú trong sự tu tập, có sự thanh tịnh trong sự tu tập. Khi có lòng tin đó thì làm sao chúng ta rời Phật được, rời Pháp được, rời Tăng được, cho nên lòng tin đó gọi là tín lực. Chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh làm cho thân tâm thanh tịnh và do vậy chúng ta có lòng tin, và lòng đó trở nên rất mạnh. Đó là lực tin tưởng mạnh mẽ của chúng ta.

2- Thân Phật thường đi ăn xin, thân ta niệm Phật cũng vậy, không làm tất cả mọi nghề nghiệp mà chỉ lấy nghề điăn xin làm chánh nghiệp nuôi chánh mạng mà thôi.

Như hiện giờ chúng ta nên khéo léo tổ chức như thế nào để hằng ngày chúng ta có một bữa cơm đi xin ăn mà thôi. Hiện giờ nếu chúng ta mang bình bát đi vào xóm xin ăn thì vụng về. Ở đất nước Ấn Độ, hay Miến Điện, là các đất nước theo Phật giáo Nam tông có các Phật tử cúng dường. Chúng ta ở Việt Nam phải khéo léo tổ chức như thế nào để có người nấu cơm cho mình xin ăn. Như bên phái nữ trong tu viện chịu cực khổ nấu nướng cho mình ăn. Quý thầy khi đến giờ ra chỗ để cơm, người ta cho gì thì mình nhận về ăn ngày một bữa. Còn nếu chúng ta đi khất thực trong xóm dân như thời đức Phật thì đất nước chúng ta không cho phép, làm như vậy là chúng ta không khéo léo. Sau chiến tranh, đa số dân bị nghèo, nếu chúng ta đi xin ăn thì sẽ làm khổ người khác, cho nên chúng ta không nên đi xin ăn như thời đức Phật được, do vậy chúng ta nên tổ chức thế nào để có người nấu cho chúng ta ăn. Nếu chúng ta muốn đi xin ăn như thời đức Phật thì có những cư sĩ khá giả họp lại mở tiệm cơm chay ở tại đâu đó, rồi chúng ta là những tu sĩ mỗi ngày chỉ đến đó xin một bữa cơm trưa. Quý vị cư sĩ cho gì thì chúng ta ăn cái nấy, sau khi có cơm thì trở về tu viện thọ thực rồi tu hành. Chúng ta chỉ có nghề đó thôi, không làm cho ai đau khổ hết, cũng không làm cho xã hội nghèo đói nữa. Hình ảnh tổ chức như vậy là đúng cách, đúng thời cuộc.

Thân Phật thường đi xin ăn, chúng ta muốn đi xin ăn như Phật thì chúng ta dùng pháp hướng nhắc nhở, chứ nhiều khi chúng ta đi xin mà còn ngại ngùng thì cũng khó mà đi xin được. Vậy muốn đi xin thì hằng ngày chúng ta phải tu như thế nào để chúng ta dạn dĩ đi xin tự nhiên.

- Hằng ngày chúng ta đặt niệm đi xin ăn trước mắt dùng pháp hướng: "Đi xin ăn là một nghề chơn chánh. Người tu hành ta phải đi xin ăn như thế nào không làm khổ mình khổ người". Chúng ta suy xét bây giờ ngồi tu đây mà mình muốn trở thành một người đi xin ăn, thì phải xin ăn như thế nào cho hợp lí, xin ăn như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người. Suy tư đi xin mà có phong cách của tu sĩ đi xin ăn. Đây là câu pháp hướng để quý thầy đi xin ăn, không còn nương tựa nhất định vào ai. Sau khi quý thầy về nơi nào đó muốn tu hành đúng chánh pháp, nhất là quý thầy đã phòng hộ sáu căn của mình, thì phải đi xin ăn.

Cái thứ hai là quý thầy phải tổ chức như thế nào để mình đi xin ăn, chứ không phải đi làm ruộng, làm rẫy lấy huê lợi để sống tu. Quý thầy không được làm điều đó. Quý thầy phải làm sao để có người tự nấu rồi cho quý thầy ăn, quý thầy chỉ cầu ăn no bụng để tu, không màng ngon dở. Nếu quý thầy có một số cư sĩ hộ thất thì nên nói với họcho mình ở trong thất tu theo thời gian nào đó, thí dụ 3 năm hay 5 năm, quý vị cư sĩ chỉ cho chúng tôi ngày một bữa ăn, nấu sao cũng được. Trước 11 giờ chúng tôi ôm bát đến nhà quý vị khất thực, rồi về ăn. Quý thầy đừng tự lo cái ăn uống cho quý thầy, quý thầy cũng không nên có tiền bạc rồi tự lo cho mình về ăn uống. Cái đó là cái chết của quý thầy, càng lúc quý thầy càng xa lìa Phật pháp, không phải là chánh nghiệp nữa đâu.

Ngày xưa đức Phật đi xin ăn được là vì phong tục Ấn Độ đã quen cho những người tu hành. Còn ở Việt Nam không làm được như vậy đâu, cho nên quý thầy phải khéo tổ chức. Cũng không được có vườn cây trái rồi đến mùa bán trái lấy tiền chi tiêu cho đời sống tu. Nếu trong phạm vi thất ở có cây trái gì thì chỉ nên để người cư sĩ hộ thất xử lí, mình không can dự, không đụng tới cây trái đó, không tự mình giữ lại để ăn trong bữa ăn trưa. Quý thầy phải nhớ kỹ đi xin ăn thì phải đúng pháp đi xin ăn, ai cho gì thì ăn nấy, không thể ăn hơn chỗ mình đi xin. Chứ không phải muốn ăn loại gì trong thất có. Đó là chạy theo dục lạc của mình. Làm cái gì thì sẽ thú hướng cái đó, cho nên quý thầy đừng nghĩ làm việc gì, làm nghề gì. Đừng ngại người ta cho mình ăn không ngồi rồi, vì họ đâu biết rằng suốt ngày quý thầy không có phút nào ngồi không, quý thầy phải làm việc để giải thoát.

Quý thầy phải nhớ khi thân đi xinăn như thân Phật thì phải làm cho đúng cách đi xin ăn của đức Phật. Ngày xưa đức Phật đi xin từ nhà này sang nhà khác, nay mình có cư sĩ giúp đở cho mình để hằng ngày đến đó mình xin ăn, người cư sĩ này có thể nuôi mình một năm hay 3 năm hay cho đến 10 năm trong sự tu tập của mình. Khi tu chưa xong mà người cư sĩ này không còn giúp đở mình được nữa thì nên đi tìm người khác để xin ăn cho đúng cách.

"Chỉ có đi xin ăn mới giải thoát được sự ăn uống, Ta phải chấp nhận nghề đi xin ăn". Đó là trạch pháp tác ý để có sự quyết tâm, không có nghĩ ăn thừa, ăn thiếu ở chỗ đi xin. Chỉ có đi xin ăn mới giải thoát được sự ăn uống, chứ nếu quanh chỗ thất mình ở có trái xoài, trái mít chín, trái bưởi chín, mình hái xuống ăn phụ thêm, mình nghĩ mình đâu ăn trộm ăn cắp của ai, nhưng chính chỗ đó là mình chạy theo dục lạc rồi.

"Đi xin ăn không có quyền đòi hỏi món ngon vật lạ, vì nhờ thế chúng ta li dục li ác pháp thế gian". Câu này trạch pháp ra để biết nghề đi xin ăn làm cho ta li dục.

"Đi xin ăn là một pháp môn li dục li ác pháp tốt nhất. Ta hãy chấp nhận đời sống đi xin ăn". Đó là câu thứ tư.

Hằng ngày đặt niệm như vậy, tu tập như vậy. Mặc dù bây giờ chưa làm được nhưng tác ý như vậy sẽ giúp quý thầy lìa xa những sự thọ dụng thực phẩm hằng ngày mà quý thầy đang có, nghĩa là bây giờ hằng ngày quý thầy chưa đi xin, nhưng quý thầy vẫn tác ý như vậy để thấy như quý thầy đi xin ở nhà bếp, đi xin của người khác cho mình ăn.

Khi quý thầy chấp nhận nghề đi xin ăn rồi và đồng thời luôn luôn quý thầy cố gắng thực hiện cho bằng được nghề đi xin ăn. Chớ nếu quý thầy không thực hiện nghề đi xin ăn này thì chắc chắn chánh nghiệp của quý thầy không có. Mà chánh nghiệp không có thì chắc chắn không bao giờ quý thầy giữ giới luật của Phật nghiêm chỉnh được, do vậy quý thầy không bao giờ thực hiện sự giải thoát được.

Cái ăn coi vậy chứ khó lắm, không đơn giản đâu, hở một chút là bị nhiểm, hở một chút là nó luận làm chúng ta dễ say mê dục lạc. Cho nên chúng ta phải sáng suốt, phải cẩn thận, phải nỗ lực, phải suy tư, phải quán xét để thực hiện một đời sống đúng cách là chúng ta đi xin ăn cho được rốt ráo, cho được giải thoát. Bởi vì muốn được giải thoát như Phật thì phải làm sao giống như Phật, phải suy tính như thế nào, suy nghĩ như thế nào, tư duy như thế nào để chúng ta thực hiện đúng oai nghi đức hạnh của đức Phật.

3- Thân Phật thường hay ngồi thiền. Chúng ta thấy ông Phật hay ngồi thiền, rồi ông đi kinh hành, chứ ông đâu có nằm ngủ ngu si đâu. Thân ta niệm Phật cũng thường hay ngồi thiền như vậy, nghĩa là bây giờ cái thân của mình niệm Phật thì cũng bắt chước sống như Phật, cũng phải ngồi thiền như vậy.

- Ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, đặt niệm trước mặt.

- Tu định Vô Lậu. Tức là chúng ta phải đặt niệm như niệm thân, niệm thực phẩm để tu định Vô Lậu quán xét nó vô thường, khổ, vô ngã như thế nào, nó bất tịnh như thế nào, nó hôi thúi như thế nào. Đó là chúng ta tu định Vô Lậu.

- Tu định Chói Sáng, giữ gìn tâm của mình cho nó sáng suốt, cho nó thanh thản, cho nó tự nhiên. Đó là tu định Chói Sáng hay định Sáng Suốt.

- Tu định Niệm Hơi Thở.

- Tu định Hiện Tại An Lạc Trú.

- Tu Tứ Niệm Xứ.

Thường thường Phật đặt niệm trước mặt rồi tu định kia định nọ, tất cả các loại định cho đến thậm chí như tu Tứ Niệm Xứ Phật cũng đặt niệm trước mặt của mình, cũng ngồi kiết già.

Ở đây tất cả các loại định quý thầy đã tu tập rồi cho nên Thầy không nhắc lại, như định Vô Lậu, định Sáng Suốt, định Niệm Hơi Thở, định Hiện Tại An Lạc Trú.

Bây giờ Thầy nhắc thêm cách tu Tứ Niệm Xứ để cho quý thầy hiểu đại khái. Tu Tứ Niệm Xứ phải tu như thế nào mà nói đức Phật phải ngồi thiền tu Tứ Niệm Xứ. Sau này Thầy sẽ dạy rõ hơn để quý thầy biết cách thức tu tập Tứ Niệm Xứ. Đức Phật đặt niệm Tứ Niệm Xứ thì đức Phật quán thân trên thân, nhiệt tâm tỉnh giác, chánh niệm để khắc phục tham ưu ở đời, nghĩa là không còn tham muốn, không còn phiền não ở đời nữa. Nhờ sống quán thân trên nội thân được chánh định và chánh an tịnh, do đó tri kiến giải thoát được sanh khởi. Đối với các thân khác ngoài tự thân, như thọ, tâm, pháp cũng quán như vậy, nghĩa là người tu Tứ Niệm Xứ thì trên thân quán thân, luôn lúc nào cũng tập cho nó có tỉnh giác và tập cho nó ở trong chánh niệm để nó khắc phục chế ngự lòng tham muốn, lòng ưu phiền, lòng giận hờn, lòng si mê của mình, để cho mình không còn tham muốn, si mê nữa, không còn giận hờn nữa.

Nhờ sống quán thân trên nội thân như vậy thì chánh định mới có và sự chánh an tịnh mới có. Khi có chánh định và chánh an tịnh thì tri kiến giải thoát được sanh khởi. Vì vậy mà ở trên thân quán thân thì lúc nào chúng ta cũng thấy rõ là thân bất tịnh, thấy rõ là thân vô thường, thấy rõ là thân khổ, thấy rõ là thân không có mà do duyên hợp mà thành. Tất cả tri kiến giải thoát sanh khởi thì chúng ta thấy rất rõ, thấy thân mình, thấy thân người, rồi thấy mọi thân cũng đều như vậy.

Chúng ta đã quán thân trên thân rồi, thì quán thọ, quán tâm, quán pháp cũng như quán thân trên thân vậy. Rồi trên thọ quán thọ, trên tâm quán tâm, trên pháp quán pháp. Chúng ta cũng quán xét như khi chúng ta quán xét trên thân, rồi cũng nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm ở trên đó, cũng chế ngự ở trên thọ, trên tâm, trên pháp của chúng ta không cho nó tham ưu.

Mỗi loại định đều có trạch pháp dùng để hướng tâm, dùng để tịnh chỉ, dùng để quán sát, dùng để chế ngự, dùng để li, dùng để từ bỏ, dùng để an trú. Ở đây, quý thầy thấy rằng khi tu Tứ Niệm Xứ thì bắt đầu từ thân tới thọ, tâm, pháp, nhưng luôn luôn lúc nào cũng phải dùng trạch pháp hết, dùng trạch pháp là những câu hướng tâm để tịnh chỉ tức là để cho nó ngưng, để cho nó dứt đoạn.

Rồi dùng pháp hướng để làm gì? Để nhắc chúng ta quán xét, tức là suy tư để tìm ra những cái chưa hiểu, để thấu rõ những cái chưa thông, để chế ngự lòng ham muốn của chúng ta.

Chúng ta dùng pháp hướng để không cho nó khởi lên sân hận, phiền não của đau khổ nữa. Chúng ta dùng pháp hướng để để li, để lìa ra tất cả những cái không cần thiết, những cái làm đau khổ. Chúng ta dùng pháp hướng để an trú, để từ bỏ, để dứt đoạn.

Như vậy có khi chúng ta dùng pháp hướng để an trú, có khi chúng ta dùng pháp hướng để dứt đoạn, có khi chúng ta dùng pháp hướng để từ bỏ. Khi ở trong Tứ Niệm Xứ, tất cả những cái này chúng ta cũng đều dùng những câu pháp hướng mà các câu pháp hướng này dùng để quán xét, dùng để li, dùng để dứt đoạn, dùng để an trú được trong tâm thanh thản, tâm giải thoát. Cho nên chúng ta an trú được trong tâm thanh tịnh. Quý thầy thấy một pháp mà chúng ta đã hiểu biết và tu tập mang đến kết kết quả rất lớn thì ta muốn làm sao nó sẽ làm y như vậy, kết quả giải thoát rất cụ thể, rõ ràng.

4- Thân Phật thường đi kinh hành, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thường đi kinh hành như Phật. Từ lâu quý thầy cũng biết đi kinh hành, nhưng Thầy xem thấy sự đi kinh hành của quý thầy chưa đúng cách, nhưng vì quý thầy không hỏi cho nên Thầy không dạy. Nhưng nhân hôm nay giảng đi kinh hành Thầy mới giảng trạch ra cho quý thầy biết đi kinh hành như thế nào đúng mà đi kinh hành như thế nào là sai; lúc này đi kinh hành bằng trạng thái gì, lúc khác đi kinh hành bằng trạng thái gì. Quý thầy chưa hiểu lúc nào phải đi kinh hành như thế nào và đi kinh hành như vậy lúc đó để làm gì?

Thứ nhất là thân ta niệm Phật thì Phật cũng thường đi kinh hành. Tiếng chung là đi kinh hành, nhưng trong kinh hành đó có nhiều cái, như đi kinh hành để phá hôn trầm, buồn ngủ thì khác người đi kinh hành sau khi ngồi tu mỏi mệt vì ức chế tâm, vì chế ngự tâm thế này thế khác. Khi mỏi mệt thì người đó đi kinh hành để thư giản, nó không giống như người đi kinh hành thường hoặc đi kinh hành trong chánh niệm tỉnh thức, hoặc đi kinh hành để phá hôn trầm thùy miên. Quý thầy không biết cho nên nghe đi kinh hành thì chỉ biết đi kinh hành thôi, chứ chẳng biết phân biệt đi kinh hành thế nào, tu tập thế nào cho đúng cách. Thầy chưa nghe một người nào hỏi Thầy về kinh hành hết. Do không hỏi nhưng đến khi giảng đi kinh hành thì Thầy phải giảng trạch cho quý thầy hiểu. Khó là ở chỗ tu sao cho đúng, đi kinh hành sao cho đúng đây.

Chúng ta phải tu tập đi kinh hành thư giản. Kinh hành thư giản là làm cho tâm chúng ta trở về không còn mệt nhọc, trở về không còn có sự khổ, không còn có sự khó khăn trong sự mệt nhọc, lười biếng trong thân của chúng ta nữa. Khi đã tu tập mệt nhọc ta trạch pháp một câu dùng làm pháp hướng để nhắc tâm mình "Ta đi kinh hành thư giản thân tâm. Thân tâm phải thanh thản nhẹ nhàng, vô sự, không được ức chế tâm, không được ghìm tâm, không được tập trung tâm mà hãy vô sự tự nhiên như người nhàn du". Chúng ta phải nhắc câu đó để thư giản thân tâm chúng ta, khi bước đi, chúng takhông tập trung tâm mãi dưới bàn chân. Khi đi kinh hành thư giản thì chúng ta phải đặt pháp hướng để nhắc tâm của mình thư giản.

Thầy nhắc lại câu này để quý thầy thấy rằng khi đi kinh hành để thư giản thì thân tâm chúng ta phải thư giản sau thời chúng ta tu định Vô Lậu (ngồi quán xét tâm lậu hoặc của mình) hay khi tu định Chánh Niệm Tỉnh Giác là khi chúng ta nương vào hơi thở trong 30 phút hay 1 giờ, thân tâm có sự mỏi mệt thì chúng ta đi kinh hành để thư giản sự mỏi mệt đó, chúng ta phải nhắc tâm như thế nào chứ không khéo tâm quen thói tập trung trong hơi thở, đi mà cứ hít thở hoài thì nó còn mỏi mệt hơn là chúng ta không đi nữa. Mà khi mệt quá quý thầy cứ ngồi mà lim dim ngủ gật, khi xả nghỉ thì chúng ta mới thấy không tỉnh táo được, cho nên lúc bấy giờ chúng ta đi kinh hành để làm cho tâm chúng ta thư giản, để làm cho tâm chúng ta tỉnh táo, thanh thản nhẹ nhàng, không còn mệt mỏi nữa. Do vậy lúc nào chúng ta đi kinh hành chúng ta thấy đúng thấy sai. Vậy thì chúng ta phải dùng pháp hướng đây: Thứ nhất là chúng ta phải tu tập đi kinh hành thư giản. Kinh hành thư giản là làm cho thân chúng ta không còn mệt nhọc, không còn có sự khổ, không còn có sự khó khăn trong sự mệt nhọc, lười biếng nữa.

Khi tu tập mà có sự mệt nhọc, ta trạch pháp một câu dùng làm pháp hướng để nhắc tâm mình "Ta đi kinh hành thư giản thân tâm. Thân tâm phải thanh thản nhẹ nhàng, vô sự, không được ức chế tâm, không được ghìm tâm, không được tập trung tâm mà hãy vô sự tự nhiên như người nhàn du".

Chúng ta phải nhắc câu đó để thư giản thân tâm chúng ta. Khi bước đi kinh hành thư giản thì không tập trung tâm mãi dưới bàn chân. Khi đi thì chúng ta phải đặt pháp hướng để nhắc tâm thư giản.

Thầy nhắc lại câu này để quý thầy thấy rằng khi đi kinh hành để thư giản thì thân tâm chúng ta phải thư giản. Sau thời chúng ta tu định Vô Lậu (ngồi quán xét tâm lậu hoặc của mình) hay khi tu định Chánh Niệm Tỉnh Giác (là khi chúng ta nương vào hơi thở trong 30 phút hay 1 giờ), thân tâm có sự mỏi mệt thì chúng ta đi kinh hành để thư giản sự mỏi mệt đó, chúng ta phải nhắc tâm như thế nào chứ không khéo tâm quen thói tập trung trong hơi thở, đi mà cứ hít thở hoài thì nó còn mỏi mệt hơn là chúng ta không đi nữa.

Khi mệt quá quý thầy cứ bị lim dim ngủ gật, không xả nghỉ thì chúng ta không tỉnh táo được, cho nên lúc bấy giờ chúng ta phải đi kinh hành thư giản để làm cho tâm chúng ta thư giản, để làm cho tâm chúng ta tỉnh táo, thanh thản nhẹ nhàng, không còn mệt mỏi nữa. Do vậy lúc nào chúng ta tu hành chúng ta thấy đúng, thấy sai. Vậy thì chúng ta phải dùng pháp hướng đây:

a.- Về kinh hành thư giản - "Ta đi kinh hành thư giản thân tâm, thân tâm ta phải thanh thản nhẹ nhàng vô sự, không được ghìm tâm, ức chế tâm, không được tập trung tâm mà phải vô sự tự nhiên như người nhàn du" nghĩa là bây giờ mình đi kinh hành thư giản thân tâm thì dùng trạch pháp đó. Chúng ta nhắc như vậy rồi chúng ta bước đi, lúc nào chúng ta cũng thanh thản, nhẹ nhàng, không bị ức chế tập trung tâm mình ở bước đi hoặc hơi thở.

Đi kinh hành thư giản là đi thư thả nhẹ nhàng, làm cho thân tâm của mình được thư giản không còn mệt nhọc nữa. Quý thầy phải hiểu chứ. Đi kinh hành thư giản cho đúng cách thì chúng ta sẽ thấy con người chúng ta có giải thoát, có an lạc, có an ổn cho thân tâm, còn nếu đi kinh hành thư giản không đúng cách thì quý thầy đã tu sai.

b.- Về kinh hành tỉnh thức. Trái lại có khi đi kinh hành chúng ta phải tập trung dữ lắm. Tập trung tâm để làm gì, để tỉnh thức theo bước chân. Như đi kinh hành tu tập chánh niệm tĩnh giác hay tỉnh thức ta trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng "Ta đi kinh hành ta biết ta đi kinh hành", sau khi đi độ 3 hay 5 thước nhắc tâm một lần. "Ta đi kinh hành ta biết ta đi kinh hành". Trong khi đi kinh hành chánh niệm tĩnh giác phải tập trung tâm ở dưới bước chân của mình, tỉnh táo ở bước chân đi của mình. Sau đó mình lại nhắc nữa câu hướng tâm đó nữa và đi trong sự tỉnh táo chú ý bước chân, nhắc như vậy cho đến khi hết giờ tu. Đó là tu tập chánh niệm tĩnh giác ở trong bước đi kinh hành.

Câu khác nữa cho đi kinh hành tu tập chánh niệm tỉnh thức "Ta đi kinh hành ta phải tỉnh thức mỗi bước chân đi", nhắc như vậy cho tâm tỉnh thức ở mỗi bước chân đi. Cứ hai câu tác ý đó thay đổi nhau nhắc sau mỗi 3 hay 5 thước đi được. Dùng hai câu đó làm pháp hướng tu tập chánh niệm tỉnh thức.

c.- Về kinh hành trau dồi lòng từ. Khi đi kinh hành để trau dồi lòng từ, ta trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc tâm ta. Đây là câu pháp hướng trau dồi lòng từ "Dưới chân ta bước đi có nhiều côn trùng nhỏ nhít, ta hãy thương yêu chúng nên phải ý tứ từng bươc đi, tránh không làm đau khổ và chết chóc chúng sanh". Chúng ta dùng câu pháp hướng này, khi chúng ta đi chúng ta nhìn dưới đường mà đi để tránh không đạp lên chúng sanh. Đó là câu pháp hướng trau dồi lòng từ.

Chúng ta phải phân biệt đi kinh hành thuộc loại kinh hành nào, chứ khi chúng ta đi kinh hành chánh niệm tỉnh thức mà dùng câu pháp hướng trau dồi lòng từ thì không đúng, không thuộc hẳn chánh niệm tỉnh thức. Phải biết rõ như vậy. Những pháp này đều giúp ta tỉnh thức hết nhưng kinh hành thư giản làm cho thân tâm chúng ta bớt mỏi mệt, bớt nhọc nhằn thì nó cũng giúp sức tỉnh thức, nhưng không ở mức độ thư giản được thân tâm không mệt nhọc, không mệt mỏi.

d.- Về kinh hành phá hôn trầm. Đi kinh hành để phá hôn trầm thì kinh hành mà phá hôn trầm chứ không phải đi kinh hành nào cũng pháp hôn trầm hết đâu. Đi kinh hành mà phá hôn trầm thì phải có câu trạch pháp để phá được hôn trầm thùy miên. Ta dùng câu này làm pháp hướng nhắc tâm "Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không được lừ đừ buồn ngủ nữa", nhắc như vậy nhưng nó chưa tỉnh táo đâu, cho nên trước khi đi kinh hành chúng ta phải chạy lúp xúp, hoặc chạy tại chỗ hoặc chạy đường dài, chạy chừng nào chúng ta thấy đổ mồ hôi mới thôi, chừng đó chúng ta mới tỉnh, mới hết lừ đừ buồn ngủ. Nghĩa là trước khi đi kinh hành để phá buồn ngủ thì chúng ta phải vận động cơ thể và cái tâm của chúng ta cho nó tỉnh thức. Trước khi chạy lúp xúp chúng ta phải nhắc "Tâm phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không được lừ đừ buồn ngủ nữa", ra lịnh nó như vậy rồi bắt đầu chạy theo kiểu hai chân phải kéo lên cao cho đụng bụng, chạy một chỗ hoặc chạy đường dài, chạy đến khi mồ hôi đổ ra thì ta tỉnh lại liền, hoặc chạy đưa thẳng gối theo kiểu bộ đội đi diển hành và thả chân xuống cho mạnh. Đổ mồ hôi là phải đi tắm.

Sau khi tắm xong, trước khi đi kinh hành chúng ta nhắc "Thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng" bây giờ nó tỉnh rồi, nó không còn buồn ngủ nữa. Nhưng coi chừng, con ma buồn ngủ không chịu thua chúng ta đâu, nó có thể trở lại, cho nên chúng ta đi kinh hành. Bây giờ nó giảm bớt cường độ hôn trầm thùy miên nhiều rồi, do vậy chúng ta mới đi kinh hành hướng tâm nhắc "Thân tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng", nếu còn hơi bị buồn ngủ thì ra lệnh "Chân mặt bước" thì chân mặt bước; "Chân trái bước" thì chân trái bước. Mình phải ra lịnh và dùng lực tinh thần nhắc nó để làm cho nó tỉnh. Đó là cách thức đi kinh hành phá buồn ngủ, hôn trầm.

Không có kinh hành như vậy chúng ta khó phá được hôn trầm thùy miên lắm. Có nhiều người dùng hơi thở dài để phá hôn trầm, nhưng chỉ được một lát, sau đó hôn trầm vẫn trở lại, hoặc nếu thở hơi thở dài nhiều thì sẽ bị rối loạn cơ thể, sinh mệt, do đó phải đi kinh hành để phá hôn trầm theo kiểu đã dạy. Đi kinh hành để vượt qua giờ đó thì sẽ hết buồn ngủ.

Nếu quý thầy lấy kinh sách đọc để đầu óc duyên theo kinh sách thì đầu óc tỉnh nhưng cơ thể chưa tỉnh. Mình ngồi yên đọc kinh sách thì chỉ có tâm hoạt động còn thân không hoạt động cho nên vẫn còn trạng thái im lặng của thân, tuy tâm tỉnh thì thân theo đó mà tỉnh nhưng chưa hẳn tỉnh, do đó sự tập luyện chưa hẳn đã đúng.

Đi kinh hành, chúng ta dùng pháp hướng để tâm tỉnh và dùng thân động để thân tỉnh, cả hai cái đó đều giúp chúng ta tỉnh cả thân và tâm. Chúng ta tập luyện kinh hành như vậy thì nó vừa phá hẳn hôn trầm của cái thân mà cũng vừa phá hẳn hôn trầm của cái tâm. Sau đó nó mới sạch hôn trầm thùy miên.

Còn có người dạy chúng ta khi bị hôn trầm thùy miên thì treo chân treo giò lên, ngồi suốt đêm để hôn trầm thùy miên đến, đuổi đi, rồi sau đó sẽ hết. Sự thật không phải vậy. Chúng ta đừng nên hành thân hành xác quá khổ như vậy mà chúng ta phải tập cho nó có sự vận động rồi nó sẽ làm cho chúng ta hết hôn trầm thùy miên.

Sau này chúng ta sẽ tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ nữa, chúng ta nương vào hơi thở tập cho nó lần lượt tỉnh, rồi chúng ta sẽ phá sạch hôn trầm ra hết. Chúng ta sẽ làm chủ được sức tỉnh thức của chúng ta.

5- Thân Phật không làm hại chúng sanh, thường thương xót chúng sanh, nghĩa là cái thân của Phật là thân không bao giờ làm cho chúng sanh đau khổ, từ cây cỏ đức Phật cũng không bao giờ đạp lên làm cho chúng héo úa nữa. Thường thân Phật bao giờ cũng thương xót chúng sanh chứ không bao giờ làm cho chúng sanh nào đau khổ hết, thì thân chúng ta niệm Phật cũng vậy, nghĩa là thân của mình niệm Phật cũng không làm chúng sanh đau khổ, luôn luôn phải biết thương xót chúng sanh. Cho nên mình niệm Phật thì phải bắt chước y như Phật, Phật làm gì thì ta làm cái ấy.

Trạch pháp câu này ra để nhắc tâm không làm đau khổ chúng sanh "Thân ta niệm Phật phải giống thân Phật, bắt đầu từ nay về sau không làm hại chúng sanh, không ăn thịt chúng sanh, hằng ngày phải thương xót chúng sanh như con mình".

Tuy bây giờ còn ăn thịt chúng sanh, nhưng câu trạch pháp là như vậy. Khi nhắc mãi câu trạch pháp, nhắc riết đến khi thấm nhuần rồi thì chúng ta hết muốn ăn thịt chúng sanh nữa, vì thân mình niệm Phật thì phải như thân Phật. Phật thì không ăn thịt chúng sanh, khi ăn thực phẩm thì Phật biến mãn tâm từ khắp cùng mười phương, có lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh. Thân mình niệm Phật thì cũng làm y như vậy, chứ tại sao thân của mình lại ăn thịt chúng sanh, làm đau khổ chúng sanh. Làm cho thân tâm của chúng ta hằng ngày thấm nhuần, thấu suốt được cái lí không làm đau khổ chúng sanh của câu trạch pháp này, cho nên từ đó chúng ta không còn ăn thịt chúng sanh nữa. Và khi không còn ăn thịt chúng sanh thì thấy thoát ra được cái nghiệp đau khổ của chúng sanh. Từ đây cả gia đình của quý vị ăn rau cải tương dưa, không cần ăn thịt chúng sanh nữa. Thịt chúng sanh có ngon gì cũng có sự đau khổ, cũng có tội ác trong đó, không phải thiện; cho nên từ câu trạch pháp này khiến cho thân niệm Phật trở thành như thân Phật, có lòng thương xót tất cả chúng sanh.

6- "Thân Phật không làm khổ chúng sanh, thân ta niệm Phật cũng không được làm khổ ai hết". Trạch pháp câu này dùng pháp hướng như lí tác ý "Thân ta niệm Phật, từ nay về sau có ai chửi mắng mạ lị, mình không được chửi mắng lại, không được giận hờn thù oán họ, phải hết sức thương yêu họ, vì họ là người đã thọ khổ trong lòng do sân hận".

Nếu thân chúng ta niệm Phật, mà thân Phật không sân hận, không thù oán ai, thì thân mình cũng như vậy, không có sân hận, không có thù oán người khác. Cứ ám thị nhắc mình hoài câu trạch pháp trên, sau đó thì mình không còn sân hận, không thù oán ai hết, thậm chí người ta chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta nói móc lò mình, người ta sĩ nhục mà mình hoàn toàn không còn có đau khổ nữa, nghĩa là mình không có giận hờn nữa, mình được giải thoát hoàn toàn. Đó là thân mình niệm Phật nên thân mình được giải thoát.

Quý thầy thấy mỗi lần chúng ta niệm Phật đều đem đến sự giải thoát thật sự cho thân mình. Nhớ những câu trạch pháp này, hằng đêm, hằng ngày quý thầy ngồi lại thì nhắc câu đó để cho tâm quý thầy thấm nhuần được lí này. Nhờ vậy khi quý thầy bị người ta mắng chửi, người ta mạ lị, người ta sĩ nhục mà quý thầy không giận hờn họ, bởi vì quý thầy thấm nhuần lí giải thoát của câu trạch pháp này vào tâm hồn của quý thầy cho nên khi nghe người ta mắng chửi, nghe người ta mạ lị, người ta sĩ nhục mà quý thầy vẫn thản nhiên, không còn buồn phiền, không còn giận họ mà còn biết thương họ vì họ đang khổ, họ đang sống trong nhân quả nghiệp khổ.

7- Thân Phật không bao giờ lấy trộm của ai, thân ta niệm Phật cũng vậy, không bao giờ lấy trộm của ai. Trạch pháp câu này dùng pháp hướng như lí tác ý hằng ngày "Người mất của đau khổ, thân ta niệm Phật phải giống như thân Phật, há ta lấy của của người không cho, để làm cho người đau khổ".

Trạch pháp câu này ra để nhắc mình đừng lấy vật lớn vật nhỏ của ai hết, vì lấy của người, người mất của người ta tiếc, người ta khổ sở cho nên thân mình niệm Phật, Phật không bao giờ lấy trộm của ai hết, của không cho nhất định Phật không lấy; thân ta niệm Phật ta cũng như vậy, không lấy của ai hết, vật lớn vật nhỏ, trái cây, cục đường cũng không lấy cắp lấy trộm của ai.

8- Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục, thân ta niệm Phật cũng vậy, ta cũng phải tuyệt đường dâm dục vì con đường dâm dục là con đường ái, sanh luân hồi, là con đường đau khổ, là con đường bất tịnh.

Cho nên từ khi đi tu cho đến khi về thăm lại gia đình, đức Phật không bao giờ gần gủi lại người vợ thân yêu của mình nữa, coi như người xa lạ. Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục nên thân Phật trong sáng, thân ta niệm Phật cũng vậy, cũng tuyệt đường dâm dục để cho thân tâm ta được thanh tịnh mới có hy vọng nhập được thiền định, làm chủ được sanh tử luân hồi.

Ta nên trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng nhắc nhở thân tâm ta sống đúng thanh tịnh, tiệt trừ dâm dục "Thân ta niệm Phật, phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là hôi thúi dơ bẩn, phải xa lìa như xa lìa hầm phân". Đó là câu trạch pháp của chúng ta nhắc nhở chúng ta hằng ngày sợ hãi sự dâm dục.

Hãy tránh xa dâm dục đi, đừng ham thích dâm dục, nó là con đường sanh tử làm cho con người khổ đau, mọi người đều từ đó sanh ra mà chịu khổ đau từ người này đến người khác, từ tổ tiên ông bà sanh chúng ta ra cho đến bây giờ con cháu của chúng ta cũng đều thọ lấy những sự khổ đau này không bao giờ dứt, cho nên chúng ta phải xa lánh dâm dục như xa lánh nơi dơ bẩn nhất, nơi hầm hố khổ đau nhất.

9- Thân Phật không ăn uống phi thời, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải ăn uống không phi thời. Trạch pháp câu này, dùng pháp hướng như lí tác ý mà nhắc nhở thân tâm ta "Món ăn là bất tịnh hôi thúi, không có chi là ngon, chỉ là một ảo giác tầm thường của vị giác mà thôi. Ta hãy thấu suốt lí bất tịnh của thực phẩm mà xa lìa, từ bỏ. Xem ăn uống chỉ là thứ thuốc trị bịnh đói mà thôi". Đó là chúng ta trạch pháp câu này ra để hằng ngày khi ngồi thiền chúng ta nhắc nhở, đặt câu này trước mặt để quán. Có thì ăn mà không có thì thôi, không thèm khát nữa. Có như vậy thì chúng ta mới thấy được sự giải thoát của mình. Nếu không được vậy, nghĩa là còn thèm ăn, còn mong cầu món này món kia, thì khó mà được sự giải thoát.

10- Thân Phật thường tỉnh thức không ngủ, không bao giờ có hôn trầm thùy miên, thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thường tu tập tỉnh thức trong giấc ngủ. Muốn được vậy, khi chúng ta bắt đầu nằm xuống ngủ thì chúng ta nhắc "Thân ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở không được quên", nhắc nó như vậy để cho tâm luôn luôn biết hơi thở ra hơi thở vô mà thân thì ngủ. Có như vậy thì chúng ta mới thấy tập đúng như Phật.

Phật nằm kiết tường, Phật đặt hơi thở trước mặt rồi Phật cũng nhắc như vậy. Phật nằm đó suốt đêm, cái thân ngủ mà tâm không ngủ. Mình cũng bắt chước làm như vậy, bởi vì thân ông Phật làm sao thì thân ta niệm Phật cũng làm như vậy, cho nên câu pháp hướng nghe ngắn gọn mà rất đầy đủ ý nghĩa: "Thân ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên nghe". Thân ngủ mà tâm luôn luôn nghe hơi thở vô ra. Khi nằm xuống, ta đặt niệm trước mặt, hướng tâm như vậy. Tu tập từ từ cho đến khi thân ngủ mà tâm tỉnh thức. Hồi nãy chúng ta tỉnh thức ở trong những hành động đi đứng nằm ngồi, bây giờ chúng ta tỉnh thức trong khi ngủ nữa.

11- Thân Phật không nằm giường cao rộng lớn, Phật chỉ nằm giường tre, trên tảng đá hoặc trên đất, thường ở chòi tranh vách lá. Thân ta niệm Phật cũng vậy, không nằm giường cao rộng lớn, gỗ quý, bất kỳ nằm chỗ nào cũng được miễn là chỗ ấy không sang đẹp để thân tránh khỏi đắm nhiểm. Trạch pháp câu này, ta dùng pháp hướng như lí tác ý để nhắc nhở thân ta xa lìa những nơi sang đẹp êm ái của dục lạc thế gian "Thân nằm trên giường cao rộng lớn, êm ấm làm tâm dễ đắm nhiểm sanh dục lạc ưa mến, ta phải xa lìa, không được bén mảng tới". Dùng câu đó nhắc để tâm mình đừng có ham thích nằm giường cao rộng lớn, nằm mền nệm êm, cảm giác thích thú sanh ra tâm không giải thoát, tâm không li dục li ác pháp.

12- Thân Phật không trang sức vòng hoa chuổi hạt, thân ta niệm Phật cũng vậy, không trang sức vòng hoa chuổi hạt. Trạch pháp câu này dùng pháp hướng như lí tác ý nhắc nhở thân ta "Thân là vô thường, thân là bất tịnh hôi thúi, nay còn mai mất, có gì tốt đẹp mà trang sức vòng hoa chuổi hạt, ta hãy từ bỏ xa lìa nó đi". Đây là câu pháp hướng để nhắc cho chúng ta xa lìa sự trang sức thân của chúng ta. Niệm Phật thì chúng ta phải xa lìa làm đẹp, làm tốt, làm cho thơm tho vì thân là vô thường, bất tịnh, không có thơm tho gì hết.

13- Thân Phật không cất giữ tiền bạc, của báu; thân ta niệm Phật cũng vậy, không cất giữ tiền bạc của báu, trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm ta như lí tác ý "Tiền bạc của báu là rắn độc, sẽ giết chết chúng ta, sẽ làm chúng ta đau khổ". Đó là câu chúng ta trạch ra, chúng ta thấy tiền bạc của báu là thuốc độc, những thứ có thể làm chúng ta đau khổ, cho nên chúng ta xa lìa nó đi. Đừng nghĩ rằng nó thõa mãn cho chúng ta khi chúng ta muốn cái này cái kia, đó là chúng ta nô lệ cho nó. Chúng ta khởi muốn là chúng ta bị nô lệ cho tiền bạc của báu. Đó là những câu nhắc cho chúng ta để chúng ta cảnh giác, để chúng ta thấm nhuần, để chúng ta đừng bị tiền bạc của báu sai mình.

Tiền bạc của báu là vật nguy hiểm, nếu ta cất giữ nó ta sẽ trở thành nô lệ, đầy tớ trung thành cho nó, nghĩa là tiền bạc của báu rất là nguy hiểm, nó sẽ là ông chủ của mình. Nếu mình cất giữ nó, nó sẽ sai mình thế này thế khác, biến mình trở thành tên nô lệ trung thành cho nó. Tiền bạc của báu có quyền lực lắm mà chúng ta không ngờ được, nó là ông chủ của chúng ta. Bây giờ chúng ta không muốn mình trở thành tên nô lệ, không muốn mình trở thành tên đầy tớ cho tiền bạc của báu thì hãy ném nó xuống sông xuống biển hết đi, thì tiền bạc của báu không còn sai mình được nữa, không còn làm ông chủ của mình nữa. Cho nên câu trạch pháp này chúng ta nên nhớ "Tiền bạc của báu là vật nguy hiểm lắm, là ông chủ; nếu chúng ta cất giữ nó, chúng ta sẽ trở thành tên nô lệ, tên đầy tớ trung thành của nó". Chúng ta nhớ nhắc những câu này để không còn thích thú trong việc cất giữ tiền bạc nữa.

14- Thân Phật nằm nghiêng theo kiểu kiết tường, thân ta niệm Phật cũng nằm theo kiểu kiết tường như Phật. Trạch pháp câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở thân ta hằng ngày "Nằm kiết tường để tâm dễ tỉnh thức, không bị mê muội, dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ không bị chiêm bao". Chúng ta biết rằng khi ngủ mà nằm ngữa, nằm sấp thì dễ bị mê muội, còn nằm kiết tường thì khó bị và nằm kiết tường đặt niệm hơi thở thì phá được chiêm bao, làm chủ được giấc ngủ của chúng ta nữa. Cho nên đặt câu trạch pháp này để chúng ta dùng làm pháp hướng nhắc nhở chúng ta "Nằm kiết tường để tâm dễ tỉnh thức, không bị mê muội, dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ không bị chiêm bao". Nhắc nhở chúng ta luôn luôn phải nằm ngủ trong kiểu kiết tường, luôn luôn đặt niệm hơi thở nhiếp phục tâm mình, không cho có chiêm bao. Nhớ câu này là để chúng ta nằm kiết tường và đặt niệm hơi thở để làm chủ giấc ngủ phá chiêm bao.

Đến đây là hết phần thân niệm Phật.