TỲ KHEO - TỲ KHEO NI (2/3)
TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC
GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA
(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette 90)
TỲ KHEO - TỲ KHEO NI (2/3)
Mười ba giới tăng tàng, cuốn phạn luật Bà Thi Ca dịch sanghadisesa là Tăng Tàng (hay triệt khai). Bốn tội ba la di có nghĩa là vô dư, vi phạm một giới thì không còn phương cứu chửa được; 13 tội tăng tàng là hữu dư, nếu phạm một giới nào còn có thể thú tội được, cũng như người bị cắt cổ mà còn cuốn họng gặp thầy thuốc hay còn có thể cứu chửa được, không phải một hai ba tỳ kheo mà phải đủ số 20 tỳ kheo thanh tịnh mới tác pháp xả tội này được.
(Ghi thêm: Luật Tổng Quát của Thượng Tọa Bộ có 6 thứ tội: 4 tội triệt khai (parajika) mất gốc, không thể sám hối; 13 tội tăng tàng (sanghadisesa) xuất tội bằng thọ biệt trú trước tăng hội; 2 tội Bất định (aniyata) không xác định tội; 30 tội ưng xả đối trị (nissagiyapácittiya) thọ sám hối; 92 tội ưng đối trị (pácittiya) thọ sám hối; 4 tội ưng phát lộ (pátidesaniya) thọ sám hối.)
7.- KIẾT GIỚI 13 TỘI TĂNG TÀNG
1.- Giới cấm thủ dâm: Tự mình hành dâm. (Có một số tu sĩ trong tuổi thanh niên không có pháp tu hành rồi cái dâm dục sanh ra, làm việc không trong sạch để tự thỏa mãn tánh dâm của mình.) Vì sao Phật kiết giới này? Nguyên do khi Phật ở thành Xá Vệ, ông Kaludayi dục ý bồng bột, chìu theo ý tưởng dục này chọc phá nam căn xuất tinh. Các tỳ kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật nói "Làm sao lại ở trong pháp tu thanh tịnh xuất gia mà có hạnh nhơ uế như thế được. Ông là người ngu si, thường ngày nhận thức ăn của tín thí lại đem tay ấy chọc phá nam căn", Phật quở trách rồi, họp chúng tỳ kheo mà kiết giới. (Các thầy thấy tay của chúng ta luôn luôn không nên để ở chỗ nam căn mà phải để ở trên chỗ khác; và tâm chúng ta tập trung vào một điểm để tâm được nhiếp phục không chạy loạn xạ, không bị giao động với các pháp bên ngoài. Người tu sĩ đạo Phật lúc nào cũng nhiếp tâm, không nên để tâm chạy lang thang. Chúng ta cũng không khoanh tay ở ngực như học trò lễ nho giáo, mà chỉ nên buông thỏng theo hai bên thân).
Lúc bấy giờ có thầy tỳ kheo loạn ý ngủ mê, ở trong chiêm bao xuất tinh, nghi mình phạm tội tăng tàng nên đem việc ấy bạnh Phật, Phật bảo "Ở trong chiêm bao thì không phạm vì chiêm bao là giả dối, không chân thật. Nếu chiêm bao là chân thật thì người tu phạm hạnh không ai được giải thoát. Vì các chiêm bao đều không thật nên người tu phạm hạnh trong pháp Ta đều dứt hết khổ".
Ở đây cũng là một lí luận của người sau viết. Theo sự tu tập theo đạo Phật, đức Phật chế giới đầu tiên là giới dâm. Tâm không chạy theo sắc dục thì làm sao có mộng chiêm bao trong dục được. Ít ra cũng thấy cô này cô kia, cũng háy cũng nguýt, thấy cô nọ cười với mình thì cũng thỏa thích trong lòng do đó mới chiêm bao dâm dục với cô ta mới xuất tinh được, chứ bộ khi không mà xuất tinh được sao. Một người chưa biết Phật pháp vẫn có mộng tinh, thấy người khác phái, tâm ham thích dâm dục mới sanh mộng và xuất tinh. Người tu lúc nào cũng phải giữ gìn phòng hộ 6 căn. Mới đầu còn phòng hộ, sau đó thấm nhuần, rồi khi tu định vô lậu quét sạch tâm ái, tâm tham dục thì thân tâm rất thanh tịnh, không còn dục cho nên mới đi vào 4 thiền được. Thân còn bất tịnh thì không thể nhập định được. Khi thở chậm thì thân phải thay đổi, không còn ở dạng bình thường của thế gian nữa, không còn luyến ái thì tâm làm sao còn sắc dục được. Chỉ khi tâm còn sắc dục mới có mộng dâm dục mới xuất tinh. Ăn vừa phải, ngủ vừa đủ, tu tập đúng cách thì làm sao có tâm sắc dục, làm sao có mộng tinh.
Nếu tự tay mình nắm vuốt làm vui, mò rớ khiến nó xuất tinh thì phạm tội Thâu lan giá (thullaccaya); nếu thấy cầm thú giao hội, tâm dục khởi lên xuất tinh thì nên tự trách tâm mình (tự sám hối).
Phòng hộ 6 căn là pháp đầu tiên của người mới tu theo đạo Phật thì các sự kiện xẩy ra chung quanh chúng ta đâu còn để ý nữa. Nếu để ý, tâm còn bị dính mắc thì phong hộ 6 căn chưa đủ.
Ở đây kinh giới nêu ra tội nặng tội nhẹ cho chúng ta thấy chứ theo Thầy thì không đúng. Khi vào tu thì ông thầy phải dạy cho đệ tử mình ngay từ bước đầu để phá tâm dâm bởi vì do dâm dục mới có sanh tử. Nếu không dạy những pháp để người đệ tử đối trị tức là đưa người ta đi đến chỗ chết, càng ngày càng phạm giới của Phật, rồi đuổi người ta. Lổi là tại vì ông thầy.
Loạn ý mà ngủ là có 5 điều tội:
1/ Có chiêm bao xấu,
2/ Chư thiên không ủng hộ,
3/ Tâm không thâm nhập Phật pháp,
4/ Không nghĩ minh tướng,
5/ Ở trong chiêm bao xuất tinh.
Còn thiện ý mà ngủ là có 5 công đức trái ngược trên.
Ở đây người ta cho 5 điều này là tội lổi do loạn ý. Sự thật đây là cái lí của người biên soạn giới, họ nêu ra 5 điều này là cái lí pháp chứ không phải là hành pháp. Họ nói loạn ý nhưng làm sao để cho người ta không loạn ý, phải dạy pháp nào cho người ta không loạn ý. Người thầy không dạy bảo làm sao cho tâm người ta xâm nhập Phật pháp; làm sao cho chư thiên ủng hộ? Làm sao cho hết chiêm bao. Người thầy không dạy cách thức cho người ta tu tập mà chỉ nói lí luận thôi, rồi kết tội người ta. Đây là cái lổi của người thầy, của người viết ra kinh giới này không đưa ra pháp hành. Nếu chỉ rõ cho người ta phải tu như thế nào để trị tâm dâm dục thì làm sao có 5 lổi này.
"Còn thiện ý mà ngủ là có 5 công đức trái ngược như trên" nghĩa là trái ngược lại những cái trên này là 5 thiện ý. Nhưng làm sao cho người ta thực hiện được 5 thiện ý này. Đây chỉ nói cái lí đúng thôi chứ không đưa ra pháp hành, nói được mà không có pháp hành.
Thầy vạch rõ cho thấy họ chỉ nói lí pháp mà không có hành pháp, cái hành để người ta đạt được lí đó thì không nói ra được. Cho nên người dạy đạo Phật là phải nắm vững lí pháp và hành pháp. Nói lí pháp thì trên mây xanh mà hành pháp thì không có, như nói nằm chiêm bao xuất tinh thì không có lổi, đó là sự bào chửa, nếu ban ngày không huân cái tâm dâm dục thì làm sao ban đêm ngủ chiêm bao, cho nên nói tội người ta thế này, tội người ta thế kia được mà không có pháp hành để người ta thoát khỏi tội. Cái đó là cái không đúng của Phật pháp.
2.- Giới cùng người nữ không xúc chạm nhau. Vì sao Phật chế giới này? Do khi Phật ở nước Xá Vệ, ông Kaludayi nghe Phật cấm không được chọc nam căn, nên đợi phụ nữ đến phòng, dụng ý mà sờ mó hôn hít. Các tỳ kheo đem việc này bạch Phật. Phật kêu ông Kaludayi đến quở trách rồi họp chúng tỳ kheo lại chế giới.
Ông Kaludayi này nghe Phật cấm không được thủ dâm nên ông hôn hít phụ nữ khi họ đến thất của ông được. Dụng ý là sao? là tâm sanh ái nhiễm xúc chạm từ tóc cho đến chân của người nữ, nắm kéo xô đẩy đạp trên lưng của người nữ mà sanh tâm nhiễm đắm, hoặc người nữ đạp trên thân phần của người tỳ kheo, hoặc bóp tay, bóp chân, đấm lưng, hay y vật ngăn cách tỳ kheo xúc chạm hoặc nhiều hoặc ít đều bị phạm tội tăng tàng.
Nếu cả hai có y vật ngăn cách mà xúc chạm thì chỉ phạm tội ác tác, hễ xúc chạm đến thân người nữ thì phạm tội hữu dư, nương dựa vào người nữ như ghế giường mà khởi động dâm tâm thì phạm tội thâu lan giá (thullaccaya), nếu người nữ lễ tỳ kheo nắm chân hôn, tỳ kheo sanh tâm thọ lạc thì bị tội tăng tàng (sanghadisesa).
Trong chuyện tiền thân của đức Phật, công chúa hôn chân của thái tử trước khi thái tử đi tìm ngọc báu. Nàng ôm chân thái tử khóc vì sợ thái tử chết nơi xứ ấy nhưng chàng quyết chí ra đi. Sau khi tìm được ngọc báu trở về thấy công chúa hấp hối nên đem ngọc báu đổi lấy lon gạo rang nấu cháo cho công chúa, mà không tiếc viên ngọc đáng giá tiền của của cả nước, mới so được cái phước vì lòng từ bi cứu công chúa. Đây là câu chuyện tiền thân của đức Phật với vợ hiện nay là Gia Du, người vợ sợ thái tử vào nơi nguy hiểm mà không tìm được ngọc nên ôm chân thái tử khóc. Do sự xúc chạm như vậy nên thái tử thấy viên ngọc đã tìm được không còn quý nữa.
Trong giới này diễn tả như vậy là muốn lấy cớ người phụ nữ ôm chân chồng. Đức Phật làm như vậy là không phạm tội. Nhưng theo Thầy nghĩ lúc đó đức Phật chưa phải là Phật, chỉ là một người có vợ thì đó là tình cảm của người ta, dĩ nhiên là không có tội, có gì liên quan người tu sĩ đâu mà đem đưa vào chỗ này. Khi đã là tu sĩ mà phụ nữ ôm chân hôn, ông thầy sanh tâm đắm nhiễm thì bị tội rồi chứ gì. Các ông giới luật đem sự việc này so sánh thì không đúng vì tu sĩ thì khác với cư sĩ. Cư sĩ không tà dâm là không dâm dục với vợ của người khác, còn tu sĩ thì phải hoàn toàn không dâm dục vì đó là đường lối không còn sanh tử luân hồi. Mấy ông viết giới đem mẫu chuyện này để bào chửa tội dâm.
Thầy có thấy trong báo Công An có đăng vụ một thầy có vợ, vị thầy nói Phật không cấm tỳ kheo có vợ cho nên tỳ kheo vẫn có vợ như thường. Không biết ông thầy này tu như thế nào, đã li gia cắt ái, không còn ái dục, không còn thương ghét, thế mà ông thầy này còn có vợ được.
Trường hợp này thì không phạm: khi nhận vật cho chạm vào nhau; hoặc trợt chân ngã nhằm người nữ; hoặc người nữ té xuống sông, rơi trong hầm lửa; hoặc người nữ ăn nhằm chất độc; người nữ tự thắt cổ, đâm cổ... vì lòng từ mà cứu tế họ mà tâm không xúc động thọ vui thì không phạm.
Thầy nói chỉ khi người tu xong rồi mới xúc chạm mà tâm không động, còn khi người chưa tu xong đụng tới người nữ là tâm thân đều rung hết rồi. Nó có sự giao động rất mạnh về tâm dục khi xúc chạm da thịt người nữ, cho nên tu sĩ phải cố gắng tránh.
Trong kinh Tăng Chi Phật đã nói "Ta không thấy một pháp nào thu hút, cám dỗ tâm người nam bằng sắc thân của người nữ, bằng tiếng nói của người nữ, bằng hương của người nữ". Chúng ta là tu sĩ trên bước đường tu tập chúng ta phải suy nghĩ cho kỹ, một khi đã xúc chạm với thân người nữ rồi chúng ta phải quán hết sức để xả, phải xả cho thật sạch. Khi được dạy độc cư là phải độc cư 100%, vị thầy phải làm hàng rào vửng chắc cho các đệ tử của mình. Sau khi tu độc cư thân tâm đã thanh tịnh rồi, mới không bị đọa vào ba đường ác. Cho nên trong thời đức Phật, vị tỳ kheo nào đã tu xong, đã chứng quả Alahán xong thì Phật chấp nhận cho vị này xin về thăm gia đình, chứ khi chưa chứng quả Alahán mà xin thì đức Phật không dám cho, vì khi tu chưa xong mà cho về thì tâm sẽ đắm nhiễm liền.
Trong luật Thiện Chiến nói: Nếu người nữ đập tỳ kheo, tỳ kheo khởi dục tâm thọ lạc thì phạm tội đột các la (dukkatayo). Nếu người mẹ lâu ngày đến thăm nắm tay mừng rở, hoặc chỗ đường hẹp như khi ở trên xe bị dằn đụng chạm đến môi người nữ thì không phạm; nhưng khi qua sông không được cởi các con vật cái. Trong giới mà Phật dạy như vậy thì chúng ta vẫn thấy rằng có thể trước các con vật cái, tâm chúng ta cũng dễ bị xúc động, cho nên chúng ta tránh khi qua sông không được cởi các con vật cái. Sự cứu người nữ bị rơi xuống nước, tỳ kheo là bồ tát phải khởi tưởng như đất nắm kéo lên thì không phạm.
Sự tưởng như đất thì khó mà tưởng lắm, và tưởng không kịp đâu, chỉ khi nắm cứu rồi về chúng ta đặt niệm mà quán ngày quán đêm cho sạch thì may ra, và vị tỳ kheo đã cứu người nữ rồi thì nên xin đến chùa khác ở, không cho ai biết tin, hay vị trụ trì chùa có vị tỳ kheo cứu người phải mau mau tìm cách đưa người đệ tử của mình đến chùa khác ở. Đó là cách tốt nhất vừa cứu khổ mà vừa giải thoát cho người đệ tử của mình.
Còn bồ tát khi cứu người té sông, vì lòng từ bi cứu người, không cần phải lựa chọn chỗ nào để nắm cứu người. Bồ tát thì ôm chỗ nào cũng không phạm lổi.
Chúng ta chỉ là tỳ kheo, nhất là tiểu thừa nữa, không bằng bồ tát đâu, đụng tới chỗ nào của người nữ, tâm cũng dính hết. Cho nên chúng ta phải cố gắng cứu người nữ khi hữu sự, rồi chúng ta rời khỏi chỗ đang ở. Cũng như có chuyện gì buộc phải thị hiện thần thông thì sau đó phải rời khỏi chỗ đang ở, không cho ai biết tin tức của mình, vì có sự cung kính rất lớn đối với người có thần thông. Cho nên hai phần này - cứu người, nhất là người nữ, và thị hiện thần thông - thì phải rời chỗ đang ở và mai danh ẩn tích, không để lộ tung tích ra. Khi chúng ta chưa lộ gì hết thì cứ thư thả ở chỗ nào cũng được. Còn khi đã lộ ra mình có thần thông hay cứu người thì phải ẩn tích mai danh để tu cho tới nơi tới chốn, bằng không thì sẽ gặp ác pháp và con đường tu hành của chúng ta sẽ bị gián đoạn.
Khi bấy giờ đức Phật đang đi trong nhân gian thấy có đám lửa cháy bèn dạy các tỳ kheo: giả thử có người nắm lửa đó mà rờ mó hun hít liền cháy da thịt gân xương tiêu hết, nếu lại có người nắm cô gái rờ mó hun hít thì hai sự này, sự nào hơn. Các thầy tỳ kheo bạch: Theo người đời thì nắm con gái hun hít là hơn, nếu nắm lửa thì bị cháy da cháy thịt gân xương tiêu hết, đau khổ không thể chịu được. Phật bảo thà nắm lửa mà hun hít cho gân xương mình tiêu hết còn hơn. Vì sao? Vì không do nhân duyên này mà chịu đọa trong ba đường ác.
3.- Không nói lời lẳng lơ, thô xấu. Vì sao Phật chế giới này? Do duyên xưa khi Phật ở nước Xá Vệ, lúc bấy giờ ông Kaludayi nói lời dâm dục thô xấu với người nữ, kể nói hai đường tiểu tiện và dâm dục tương đương với nhau. Các thầy tỳ kheo bạch Phật. Phật gọi ông Kaludayi quở mắng rồi họp chúng tỳ kheo lại chế giới này. Nói lời lẳng lơ (nói tục tỉu) thô xấu như thế, nói rõ ràng là phạm tội tăng tàng, nếu vì người nữ mà nói pháp bất tịnh hay nói lần lượt, như nói về nhũ (vú), nữ căn, nói chuyện về phần dâm dục, nói lời tục tỉu, lời không đúng thì người đó phạm lổi. Trong chiêm bao thì không phạm.
Theo Thầy nghĩ người hay nói dâm dục là người có tâm dục rất mạnh, người này đừng có tu mà hãy về sống đời cư sĩ, chứ mặc chiếc áo tu sĩ mà còn khởi tâm nói ra những lời lẳng lơ, ý tưởng ra nữ căn, tưởng ra hình sắc của người nữ khiêu dâm bằng eo, bằng vú của họ thì họ đừng có đi tu nữa. Ý bất tịnh mới khiến miệng nói ra thì còn đi tu gì nữa.
Nếu người nữ nói lời tục tỉu, vị tỳ kheo nghe mà vui theo, tuy vị tỳ kheo không nói ra cũng bị phạm tội hữu dư. Nếu ở lời mình nói thô ác song không phải chữ kiêng cử thì không phạm. Gặp những chữ cần kiêng cử thì phải nên để ý như chữ giới không nói thành dái, ở Bắc Câu Lưu Châu không nói Bắc Cu Lưu Châu. Những chữ như vậy không được nói, nghĩa là những chữ gợi lên ý nghĩ nam căn, nữ căn không được nói. Đây là cẩn thận trong lời nói, cho nên Phật bảo phải phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý.
Phòng hộ miệng là đừng nói bậy bạ. Vậy mà ở đây còn nhắc nhở cái gì. Pháp hành phòng hộ là đủ hết rồi thì làm sao phạm những cái này, cho nên những giới như vầy là thừa. Khi chúng ta học đến giới hành trong giới kinh của Phật thì chúng ta thấy pháp Phòng Hộ Sáu Căn đầy đủ, cần gì phải ngắt ra như vầy, để giới bổn thành ra quá nhiều mà bằng thừa. Người tu sĩ chỉ cần thực hiện pháp Phòng Hộ Sáu Căn là đã thanh tịnh được thân khẩu ý rồi.
4.- Không khen mình, đòi cúng dường. Vì sao Phật chế giới này? Do lúc bấy giờ Phật ở trong thành Xá Vệ, ông Kaludayi nói sự dâm dục ở trước người nữ, tự khen mình dòng trưởng giả tu hạnh thanh tịnh, bảo người nữ nên đem sự dâm dục ấy mà cúng dường cho ông. Các thầy tỳ kheo hay biết sự tình như vậy mới đem bạch Phật. Phật kêu ông Kaludayi quở mắng rồi họp chúng lại chế giới. Đây là đòi sự cúng dường phi pháp. Nếu ở trước người nữ khen mình nói rõ ràng cúng dường dâm dục thì phạm tội tăng tàng; nói không rõ ràng thì phạm tội thâu lan giá.
Ở đây theo Thầy thấy người tu sĩ làm sao nói được những sự này, chỉ có những người mượn chiếc áo đạo để chạy theo dâm dục của cuộc đời, hay những người thấy ông thầy có tiền rồi theo ông ta. Biểu cúng dường kiểu đó thì thật ra chỉ có ông ác thần mới dám chứng minh.
5.- Không làm mai dong, gả cưới. Vì sao Phật chế giới này? Nguyên do khi Phật ở núi Linh Thứu, tỳ kheo Ca La khéo biết việc thế tục, vì người mà làm mai mối gả cưới. Cặp vợ chồng nào được vừa ý mừng vui thì cúng dường khen ngợi; cặp vợ chồng nào không vừa ý thì trách mắng oán la. Các tỳ kheo đem việc này bạch Phật. Phật kêu Ca La đến quở trách rồi họp chúng tỳ kheo chế giới này.
Trong luật Thiện Kiến nói: Nếu cha mẹ bất hòa, cha đuổi mẹ về bên ngoại, sau cha ăn năng bảo con là tỳ kheo rằng tôi tuổi già hôm sớm không người hầu nuôi, nên bảo mẹ ông trở về thăm tôi. Tỳ kheo nhận lời bảo mẹ trở về thăm cha thì phạm tội tăng tàng. Vì sao vậy? Nếu hai vợ chồng cư sĩ tranh cải, tỳ kheo khuyên giải hòa hợp thì phạm tội thâu lan giá. Nhưng nếu vợ chồng kia không hòa hợp, ở trong tăng sự hay Phật sự có chỗ kém thiếu, vì cớ ấy tỳ kheo xuất sự khuyên khiến cho hòa hợp thì không tội. Có hai tỳ kheo, một người có con trai một người có con gái cùng cưới gả nhau, cả hai đều phạm tội tăng tàng.
Giới làm mai gả cưới này thì Thầy thấy một người tu sĩ không nên làm chuyện này, bởi vì Phật nói con đường sanh tử là chỗ giữa nam nữ mà bây giờ mình đã tu theo đạo Phật mà làm mai mối như vậy là không được. Các thầy cũng hay làm môi giới, cặp vợ chồng hòa thuận thì cung kính cúng dường, cặp vợ chồng không hòa thuận thì người ta nói ông mai này làm mối không đúng... chửi mắng ông thầy chùa, như vậy rõ ràng là mình làm sai, không đúng, hơn nữa dù có được hạnh phúc đi nữa, đã làm mai thì thường phải thêu dệt phải nói láo, cho nên người tu sĩ không được làm mai. Giới cấm làm môi giới này đúng lắm. Ông thầy chùa không bao giờ được làm môi giới.
Trong giới kinh, Phật không cho làm sứ giả chứ đừng nói làm môi giới. Còn ở đây đưa ra giới như vậy rồi bào chửa rằng làm như vậy là không tội như thế này thế khác. Đây chúng ta nghe: Năm giới trên đều thuộc về ái dục. Giới thứ nhất tuy không có cảnh người nữ mà được thọ lạc; giới thứ hai do ngôn ngữ mà thọ dục lạc; giới thứ ba do lời nói thô xấu; giới thứ tư do khéo phương tiện mà cầu dục lạc; giới thứ năm là giới làm môi giới, vì sự dục lạc của người và ở trong đó nhận sự cúng dường cầu y thực.
Theo Thầy nghĩ tỳ kheo đã lìa gia đình rồi thì tự cha mẹ mình tự giải quyết lấy nhân quả của mình, chứ khi tỳ kheo đã tu đi rồi thì đừng dính dấp vào việc gia đình nữa. Nếu cả cha mẹ xa nhau thì tu sĩ phải biết lợi dụng thực tế cuộc sống của họ mà khuyên cả hai nên tu hành, đem Phật pháp khuyên giải cha mẹ tiến bước trên đường tu tập, chứ không nên khuyên hai người sống lại với nhau, vì làm vậy là làm môi giới cho cuộc sống thường tình nhỏ mọn của thế gian, không đúng cách của người tu sĩ.
6.- Giới làm nhà quá lớn. Vì sao Phật chế giới này? Xưa Phật ở núi Linh Thứu thành Vương Xá cho các tỳ kheo làm phòng nhà riêng. Khi bấy giờ có tỳ kheo ở nước Thắng Giả, nghe Phật hứa cho, liền riêng làm nhà lớn, công lực rất nhiều nên thường đi cầu xin cư sĩ vật liệu để cất nhà lớn; lại có một tỳ kheo nữa, muốn cất phòng nhà lớn, tự mình đốn cây, ông thần cây mất chỗ nương tựa. Khi ngài Đại Ca Diếp đến trong thành Thắng Giả khất thực, các cư sĩ xa xa trông thấy đều trốn tránh, Ngài hỏi ra mới biết duyên cớ, Ngài đem bạch Phật, đức Phật mới gọi hai tỳ kheo ấy đến quở trách rồi họp chúng tỳ kheo lại chế giới.
Có một số cư sĩ nói với Thầy như vầy: "Các con thấy các thầy đi khuyên cất chùa, các con đều trốn". Cũng giống như khi ông Ca Diếp vào thành Thắng Giả khất thực.
Theo luật, Phật chế giới làm am thất có bề dài 12 gang tay Phật, bề ngang 7 gang tay Phật, một gang của Phật bằng 3 gang của người thường. Ở trên núi Linh Thứu, cốc của Phật có 2,5 mét vuông (mỗi bề 2,50 mét), còn cốc của ông Ananda 2,20 mét vuông (tương đương như thất của chúng ta ở trong Tu viện), tăng phòng ở tại Lộc Uyển thì 2,70 mét. Chỗ có nạn các thú dữ, nhiều ổ kiến, chỗ có nhiều xe cộ qua lại ồn náo, thông thường nếu không được vị tăng chỉ chỗ cho làm mà tự làm thì phạm tội tăng tàng, nhưng nếu cất thảo am lá đủ dung thân thì không phạm. Thầy thấy trong thời đức Phật chế ra giới cất thảo am như vầy có thể hợp, một vị tu sĩ ở cốc 2,50 - 2,20 mét, chỉ bằng 2 tấm tole, để đụt mưa nắng là được; nắng ráo thì tu pháp này, mưa gió thì tu pháp khác, tùy thời tiết nắng mưa.
Vì sao Phật chế giới làm nhà lớn phải có tỳ kheo chỉ chỗ làm. Do duyên xưa Phật ở trong vườn của trưởng giả Ni Câu Luật nước Câu Diệm Ni Chi, lúc bấy giờ vua Ưu Điền cùng tôn giả Kiều Đà là bạn thân nên tùy ý tha hồ làm nhà lớn. Gần thành có cây thần Ni Câu Luật, người ngựa đi qua lại nhiều đều dừng nghỉ dưới cội cây đó. Kiều Đà liền đốn cây đại thọ ấy mà làm nhà lớn. Các cư sĩ thấy vậy chê hiềm. Các tỳ kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật họp chúng tỳ kheo lại chế giới này. Đây tự mình làm nhà lớn mà không mời tỳ kheo chỉ định chỗ làm tránh chỗ có nạn có hại nên phạm tội. Giới này cũng là giới thứ 6 nhưng chỉ khác là làm nhà quá lớn. Đây là giới Phật cấm làm nhà lớn không được tự ý. Khi muốn làm nhà lớn thì phải hỏi chúng tỳ kheo, phải hỏi Phật để rồi chúng tỳ kheo hay Phật chỉ định chỗ làm cho thích hợp. Chỗ đông người mà làm thất thì làm sao tu; ở đó chỉ đón danh đón lợi đón sự cúng dường cho tiện lợi. Chúng ta thấy chỗ nào có phật tử đi trẫy hội mà làm thất tu hành thì phải coi chừng ông thầy đó thuộc loại háo danh hám lợi.
7.- Giới chê hiềm người tội không căn cứ. Vì sao Phật chế giới này? Nguyên do xưa kia Phật ở núi Linh Thứu, bấy giờ tôn giả Bạt Đà Ma La được chứng quả Alahán rồi tự nghĩ rằng ta nên ra sức để cúng dường chúng tăng, liền đến bạch Phật. Phật khiến các tỳ kheo bạch nhị yết ma, sai tỳ kheo Bạt Đà chia ngọa cụ lần lượt cho chư tăng thọ thỉnh. Lúc bấy giờ tỳ kheo Từ Địa là bực hạ tọa nên được chia ngọa cụ và thất phòng rất xấu liền sanh lòng tức giận.
Hôm sau có người mời thọ trai, Từ Địa đến lượt, tỳ kheo Bạt Đà sai Từ Địa đến nhà đàn việt thọ trai, đàn việt nghe Từ Địa đến liền trải tọa cụ xấu, đặt thức ăn xoàng. Từ Địa lại càng thêm tức giận tỳ kheo Bạt Đà, bèn khiến người em gái là Từ Địa tỳ kheo ni khi ở trong Tăng hội họp hiềm chê tôn giả Bạt Đà phạm tội dâm. Phật biết nhưng cố hỏi tôn giả, tôn giả đáp "Con từ lúc sanh ra cho đến nay, trong chiêm bao còn không có việc ấy, huống chi là lúc giác ngộ lại có việc ấy ư!".
Phật bảo các tỳ kheo rằng có hai hạng người một đời vào địa ngục: tỳ kheo không có phạm hạnh mà tự xưng là có phạm hạnh, và hai là tỳ kheo có phạm hạnh thật mà tỳ kheo khác đem việc phi phạm hạnh không căn cứ chê hiềm tỳ kheo này.
Phật quở trách rồi họp các tỳ kheo lại chế giới này. Nếu tỳ kheo đem pháp khí ba-la-di mà chê bai tỳ kheo khác, nói rõ ràng thì tỳ kheo bị chê bai phạm tội tăng tàng, nói không rõ ràng thì tỳ kheo chê bai phạm tội thâu lan giá; không phạm nếu tỳ kheo bị chê bai nói chân thật, nói diễu cợt, hay nói lầm lẩn.
Qua giới thứ 6 này Thầy thấy vị tỳ kheo Từ Địa được người ta chia cho phòng xấu ở, rồi được thực phẩm không được ngon, không được tốt thì sanh lòng tị hiềm vị tỳ kheo Bạt Đà nên bàn mưu với người em gái là tỳ kheo ni Từ Địa dèm pha Bạt Đà phạm tội dâm, nên cô ni này nói giữa tăng chúng như vậy. Tuy Phật biết không có chuyện đó nhưng vẫn hỏi tôn giả Bạt Đà là người có phạm hạnh, nên tôn giả trả lời Phật như trên. Do vậy Phật chế giới tỳ kheo nói xấu về tỳ kheo khác.
Thí dụ một số tỳ kheo thấy quý thầy ăn ngày một bữa nên họ đặt chuyện nói xấu quý thầy rằng quý thầy ra ngoài tu viện ăn uống bất kể giờ giấc, bất kể chủng loại vật thực. Như vậy là quý thầy bị người ta dèm pha, mặc dù quý thầy không có như họ nói. Tỳ kheo nói dèm pha đó phạm tội thâu lan giá. Nếu quý thầy có thật vậy thì quý thầy bị tội. Cho nên một khi quý thầy đã xuất gia tu hành, đã thọ giới của Phật rồi thì phải giữ gìn giới luật bằng không thì quý thầy phạm tội phá Phật pháp.
9.- Giới không căn cứ mà chê bai tỳ kheo. Vì sao Phật chế giới này? Lúc bấy giờ Phật ở núi Linh thứu có tỳ kheo Từ Địa từ trên núi xuống, thấy con dê đực cùng con dê cái hành dục, liền chỉ con dê đực mà sánh là tôn giả Bạt Đà, con dê cái là Từ Địa tỳ kheo ni, đến nói với các tỳ kheo khác rằng trước tôi lấy việc không căn cứ mà chê hiềm, nay chính con mắt tôi thấy. Các tỳ kheo kia gặn hỏi thì Từ Địa nói rằng tôi lấy việc tương tự so sánh mà nói. Các thầy tỳ kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật kêu Từ Địa quở trách rồi họp chúng tỳ kheo lại chế giới này. Thấy chút ít trong phần việc khác mà vu cho người là phạm tội hữu dư, hoặc thấy người phạm tội tăng tàng (sanghadisesa) cho đến tội đột cát la mà vu cho người phạm tội trọng thì bị phạm tội hữu dư, thấy việc người này vu cho người kia, hoặc thấy nghe người kia khi ở tại gia phạm tội, nay đem việc ấy ra chê hiềm thì phạm tội tăng tàng. Như việc tỳ kheo Từ Địa lấy việc hành dâm của hai con dê mà ví là việc của Bạt Địa thì tỳ kheo Từ Địa bị tội tăng tàng (sanghadisesa) tức là tội hữu dư.
10.- Giới không bỏ sự phá hoại hòa hợp tăng. Vì sao Phật chế giới này? Xưa Phật ở núi Linh Thứu, lúc bấy giờ ông Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) vì lợi dưỡng mà học được pháp thần thông giáo hóa Thái Tử A Xà Thế khiến thái tử sanh lòng ưa mến, cúng dường rất nhiều, chỉ vì sanh tâm ganh ghét Phật liền mất thần thông.
Ông Điều Đạt muốn thâu đồ chúng mới đến cầu Phật phó chúc cho ông. Phật nhân đó mà quở trách. Điều Đạt không bằng lòng. Liền khi khiến A Xà Thế hại cha, khiến người hại Phật mà chưa thỏa nguyện, liền lên núi, lấy đá liệng Phật. Bởi thế tiếng xấu đồn khắp. Sợ lợi dưỡng bị cắt đứt liền cùng 4 tỳ kheo khác đi khất thực, Phật ngăn không cho và buộc phải biệt chúng thực. Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) nghĩ rằng ta có thể phá hòa hợp tăng, thân ta sau khi chết sẽ được chúng khen rằng Cồ Đàm có đại thần thông trí tuệ mà Đề Bà Đạt Đa phá được, liền cùng 4 tỳ kheo làm bạn, lấy 5 pháp dạy các tỳ kheo:
1/ Suốt đời đi khất thực.
2/ Mặc y phấn tảo.
3/ Ngồi dưới đất trống (không ngồi trên ghế).
4/ Chẳng dùng sanh tô và muối. (Ông Đề Bà Đạt Đa đặt ra chỗ không dùng muối này nếu không dùng muối kéo dài thì con người sẽ bị bịnh).
5/ Không ăn thịt cá. Bên Nam Tông lấy khoản "Không ăn thịt cá" này mà cho rằng Phật có ăn thịt cá.
Khoản "Không ăn thịt cá" này có phải ông Đề Bà Đạt Đa đặt ra hay người sau đặt ra. Đó là một câu hỏi. Chúng ta thấy trong bài kinh Jivaka ở kinh Trung Bộ, đức Phật nói khi một vị tỳ kheo thọ thực thì tâm từ bi biến mãn khắp cùng tất cả chúng sanh trong 10 phương, những thực phẩm thấy có thịt thì không ăn, trong món ăn trong nghe mùi thịt thì không ăn, món ăn nghi có thịt thì không ăn. Cho nên khi không thấy, không nghe, không nghi trong thức ăn có thịt thì mới ăn. Đức Phật vì tâm từ bi đối với chúng sanh thì có bao giờ đức Phật ăn thịt chúng sanh? Làm sao với tâm từ bi mà đức Phật ăn thịt chúng sanh được.
Người ta cho giới thứ 5 của Đề Bà Đạt Đa muốn hơn Phật mới đặt giới "Không ăn thịt chúng sanh" này ra. Do người ta hiểu sai bài kinh giới trong kinh Trung Bộ Nikaya, bài kinh Javaka, Phật dạy ăn chay trên sự ăn chay, ăn thức ăn trên tâm từ thì người ta đâu ăn lén. Còn Đề Bà Đạt Đa cấm không cho tỳ kheo ăn thịt cá, mà người ta ăn lén thì sao? Lại còn cấm ăn sanh tô và muối, thật là vô lí. Con người mà không ăn muối hoàn toàn thì sanh bịnh làm sao chịu nổi.
Năm giới của Đề Bà Đạt Đa đặt ra làm cho các tỳ kheo tân học vô trí tin ưa. Các tỳ kheo nghe thế đến bạch Phật. Phật nói rằng phá hòa hợp tăng phạm tội rất nặng, phải ở trong địa ngục một kiếp chịu khổ không thể cứu chửa được. Phật liền họp chúng lại, quở trách ông Đề Bà Đạt Đa rồi bảo tăng làm phép bạch tứ yết ma chế giới này.
Bạch tứ yết ma là nêu sự việc lên rồi hỏi ý kiến của các tỳ kheo trưởng lão trong cuộc họp về một ý kiến chế tài sự việc đó. Nếu cả 10 vị tỳ kheo chấp nhận ý kiến đó, không có ý kiến nào phản đối, thì pháp yết ma thành tựu. Nếu có chỉ một ý kiến không tán thành thì pháp yết ma không thành tựu. Bạch tứ yết ma là khi muốn áp dụng điều giới gì cho vị tỳ kheo nào thì phải được ý kiến thuận của tất cả 10 vị tỳ kheo trưởng lão trong cuộc họp.
Phá tăng, nếu một cho đến 7 tỳ kheo chẳng hòa hợp không phải là phá tăng; nếu chẳng hỏi trên thượng tọa mà làm tăng sự, ấy là chẳng hòa hợp, chẳng phải là phá tăng; nếu chẳng cùng đồng đều ngồi ăn một chỗ, khi ăn ngồi chỗ khác, tranh cải nhau chẳng gọi là phá. Theo trong giới có 8 tỳ kheo trở lên chia làm hai bộ riêng làm tăng sự mới gọi là phá tăng. Người làm chủ phá tăng bị một kiếp đọa địa ngục.
Ở trong giới bổn này nói đức Phật có chia làm từ 1-7 vị tỳ kheo không hòa hợp thì chưa gọi là phá tăng, mà khi có 8 vị trở lên thì mới gọi là phá tăng. Như vậy khi có đủ 8 vị trở lên không hòa hợp nhau, mới gọi là phá tăng đoàn và vị chủ trương sự chia rẻ này bị đọa một kiếp trong địa ngục, chứ không có xử, không có khuyên gì được. Tội phá tăng không có giới nào trừng trị, chỉ đọa địa ngục thôi.
11.- Giới lập bè đảng dứt phá tăng. Vì sao Phật chế giới này. Vì Đề Bà Đạt Đa chủ mưu phá tăng, một số tỳ kheo thuận tùng binh vực, các tỳ kheo này là trong nhóm 6 người, nhân đó Phật họp các tỳ kheo bạch tứ yết ma chế giới này và khiến các tỳ kheo can gián họ.
Giới này dạy trong lúc chư tăng như pháp tác yết ma tha gián đối với tỳ kheo phá tăng, tỳ kheo nào lên tiếng binh vực bất kể là đồng hay bất đồng quan điểm với kẻ phá tăng, sự lên tiếng này tức là hành vi cản trở yết ma của chư tăng, đấy là xác định yếu tố trợ bạn của tỳ kheo ấy, tỳ kheo ấy phạm tăng già bà thi ca. Đối với tỳ kheo trợ bạn, chư tăng có nhiệm vụ can gián hoặc cử một người có uy tín có khả năng can gián, nếu bất thành cử hai hoặc ba người. Nếu cũng bất thành, Tăng sẽ họp tác pháp yết ma tha gián thứ lớp như lần đầu, khuyến cáo, nếu tỳ kheo trợ bạn không hối cải, bấy giờ yết tác bạch ba lần nữa (nghĩa là liên tục họp chúng làm cho sự hòa hợp tăng cho được mà không được thì những người phá hòa hợp đó đều phạm tội đọa địa ngục).
Pháp yết ma về phá tăng đoàn như sau: "Đại đức tăng xin lắng nghe tỳ kheo (tên) là trợ bạn của tỳ kheo (tên) thuận từ mà nói như vầy: Chúng tôi chấp nhận nay vị tỳ kheo (tên) trợ bạn của tỳ kheo (tên) mà tác pháp tha gián cho bỏ sự ấy. Các trưởng lão nào bằng lòng can ngăn vị tỳ kheo trợ bạn ấy tác pháp tha gián cho bỏ sự ấy thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Đây là pháp yết ma thứ nhất. ... và thứ hai.... thứ ba.... (Nếu mọi người đều im lặng hết, đó là chấp nhận, còn nếu có ai nói lên, tức là người đó không đồng ý) Lần chót, tăng đã bằng lòng vị tỳ kheo đó là trợ bạn tác pháp tha gián cho sự bỏ sự ấy thì im lặng. Tôi xin ghi nhận.
12.- Giới làm hạnh xấu nhơ nhà người, bị đuổi. Vì sao Phật chế giới này. Xưa Phật ở nước Xá Vệ, lúc bấy giờ ở trong ấp Kỳ Liên có hai tỳ kheo Mãn Sư và Mãn Túc làm hạnh phi pháp, tự trồng hoa, tự vun tưới, tự hái hoa rồi xâu thành tràng mang đem cho người, cùng với phụ nữ đồng ngồi chung một giường cho đến ca múa hát xướng, làm trò diểu cợt, khi đó có các tỳ kheo đến ấp Kỳ Liên khất thực y phục chỉnh tề, chậm rải đi tới, không trông hai bên. Các cư sĩ trông thấy cho là phi pháp, không cúng dường các thực phẩm ăn uống. Các Thầy tỳ kheo hỏi ra mới biết có hai tỳ kheo làm hạnh nhơ xấu nhà tín thí liền đem việc đó bạch Phật. Phật sai ông Sariputta và Moggallana đến làm yết ma xua đuổi hai vị tôn giả này.
Hai tôn giả nhận lời Phật dạy, đến họp tăng, mời hai vị tỳ kheo kia làm phép cử tội, định tội bạch tứ yết ma. Hai vị tỳ kheo kia nói rằng: "Chúng tăng có yêu, có giận, có sợ, có si, lại có tỳ kheo khác đồng tội, có người bị đuổi, có người không bị đuổi, mà sao riêng đuổi chúng tôi". Hai tôn giả Sariputta và Moggallana trở về đem việc ấy bạch Phật, Phật khiến cho tăng cùng hai tỳ kheo kia làm phép tha gián bạch tứ yết ma mà kết giới này.
Làm dơ nhà người là sao? Cư sĩ trước có lòng tin trọng kính tỳ kheo, nhân vì hai tỳ kheo này lấy hoa, vật tặng bạch y là phá tâm tốt bình đẳng người trước, với người được vật thời họ vui mừng yêu kính, người không được vật, dù cho gặp thánh hiền họ cũng không yêu kính như thế là mất cái phúc lợi sâu dày của người trước. Trong Phật pháp, phàm người tại gia nên cúng dường cho người xuất gia, mà trái lại người xuất gia lại cúng dường cho người bạch y. Như vậy, làm cho người cư sĩ tưởng là đúng Phật pháp, nhưng không ngờ đó là sai.
Cũng như bây giờ chúng ta là người tu sĩ không làm ra đồng tiền nào mà cứ kêu gọi đi bố thí, là sai. Chúng ta muốn được lòng người cư sĩ cho nên cư sĩ muốn gì thì tu sĩ thường làm theo.
Người tu sĩ cho làm như vậy là có lợi ích cho thế gian nên làm, mà họ không biết tu giải thoát là làm lợi ích rất lớn cho thế gian, làm cho Phật pháp còn. Qua câu chuyện trong giới 12 này, chúng ta thấy điều này là điều mà người tu sĩ rất dễ phạm giới.
13.- Giới không bỏ tánh xấu. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa Phật ở vườn trưởng giả Mỹ Âm, nước Câu Diệm Chi, lúc bấy giờ tôn giả Chiên Đà tánh xấu, không chịu nghe lời các tỳ kheo dạy bảo. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật cho họp chư tăng lại làm phép yết ma tha gián mà kết giới này.
Như lai biết được nghiệp tánh chúng sanh cần phải đủ 20 vị tăng thanh tịnh tội mới được dứt trừ, chẳng như thế thì không thoát khỏi. Như người kia bị người khác giết hại mà còn dính cuốn họng, nếu không gặp thầy thuốc giỏi có thuốc hay thì không thể sống được. Đây cũng như thế, nếu người phạm giới không y pháp và không có thanh tịnh tăng, thiếu chúng thiếu duyên mà được giới thanh tịnh thì không có lí ấy được.
Nghĩa là khi phạm giới này thì cũng như người dứt cổ mà chưa đứt cuốn họng thì phải có thầy thuốc giỏi, phải có thuốc hay. Thầy thuốc giỏi tượng trưng cho các vị tăng thanh tịnh giới luật, mới cứu được, nếu không có các vị tăng thanh tịnh giới luật thì người phạm giới đó khó cứu được. Phải có chúng tăng được thanh tịnh, phải có duyên được thanh tịnh ở trong hoàn cảnh tu tập. Như ở đây chúng ta là chúng có giới luật thanh tịnh thì những người phạm giới đó theo chúng ta thì họ sẽ sửa lổi của họ. Nếu họ ở trong chúng phạm giới luật (như ăn phi thời, ngủ phi thời, chạy theo dục lạc thế gian) thì người phạm giới đó bị đứt họng luôn, khó cứu được, cũng như không có thầy thuốc giỏi, không có thuốc hay. Còn nếu người phạm giới đó được ở trong chúng của chúng ta ở đây thì họ được sức thanh tịnh giới của chúng ta cứu họ khỏi bị chết. Những lổi lầm này mà người phạm giới ở gần người phạm giới thì họ đâu có thấy lổi đó, cho nên họ càng phạm nữa, cũng như họ bị đứt họng luôn. Chúng ta giữ giới luật thanh tịnh thì những người phạm giới đó được vào đây là họ sẽ thanh tịnh giới luật với chúng ta, là họ được thầy thuốc giỏi có thuốc hay trị cho họ khỏi chết.
Cho nên khi người phạm giới đó được gần những bậc thanh tịnh giới thì sẽ chịu ảnh hưởng và sẽ tốt, do chúng đó không có phạm luật; nếu trái lại phạm giới đó ở với người phá giới phạm giới thì dù muốn dù không phạm giới đó cũng sẽ bị phạm giới như họ.
8.- GIỚI BẤT ĐỊNH
Có hai giới bất định:
1.- Giới bất định tướng. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên do xưa Phật ở nước Xá Vệ khi ông Kaludayi chưa xuất gia, có vợ của người bạn thân tên là Trai Ưu Bà Di để ý tưởng nhau. Kaludayi xuất gia, khi đi khất thực đến nhà Trai Ưu Bà Di cùng vợ của Trai Ưu Bà Di ở chỗ khuất cùng giường mà ngồi, nói lời phi pháp, bà Tỳ Xá Già (mẹ của Trai Ưu Bà Di) nghe tiếng đến canh, thấy thế liền bạch Phật, Phật gọi ông Kaludayi đến quở trách rồi họp chúng tỳ kheo lại, Phật và các tỳ kheo cùng kiết giới này
a/ Ngăn sự chê bai.
b/ Trừ sự đấu tranh.
c/ Tăng trưởng pháp của Phật là tỳ kheo xuất gia là dứt hẳn việc nhơ uế trần tục để cho người đời tôn hướng kính tin.
d/ Dứt trừ nghiệp xấu.
Giới bổn viết như vầy không đúng pháp tu của giới: sợ sự chê bai, sợ sự đấu tranh, sợ mất lòng tôn kính của người đời đối với người tu sĩ. Mục đích chúng ta đến tu không phải vì sự tôn kính của Phật tử, mà cũng không sợ gì sự chê bai của ai đâu. Chúng ta tu hành mục đích là làm sao tu tập cho được giải thoát, chấm dứt sự sanh tử. Cho nên đâu sợ người ta chê cười, đâu sợ người ta không tôn kính mình, cũng không sợ người ta thế này hay thế khác. Chế giới như vầy là không đúng ý của đức Phật. Đức Phật chế giới là chế ra pháp để chúng ta lấy pháp đó mà li dục li bất thiện pháp, làm cho chúng ta được giải thoát.
Mục đích của giới luật là như vậy chứ không phải vì sợ người ta chê bai, sợ người ta không tôn kính, hay sợ gì cái gì khác. Chúng ta chỉ lấy giới luật làm pháp thực hiện li dục li ác pháp để chúng ta giải thoát. Cho nên ai khen cũng được mà ai chê cũng được. Người chê đúng thì chúng ta phải chấp nhận, còn nếu khen mà khen sai thì làm sao chúng ta chấp nhận được. Cho nên khen hay chê, đối với chúng ta, những người tu sĩ đạo Phật, không quan trọng. Trong thời đức Phật có hai vị ngoại đạo đi cùng đường với đức Phật, người học trò thì khen Phật đủ mọi điều, còn ông thầy thì tìm mọi cách chê Phật đủ điều, thì cái khen chê đối với Phật có nhằm nhò gì đâu, khen đúng thì đúng mà khen trật thì phỉ báng.
Cũng như có nhiều người khen Thầy nào là có người buôn bán đến nhờ Thầy vẽ cái bùa nên buôn bán đắt. Đó là khen chứ đâu phải chê, nhưng đó là khen sai. Thầy ngồi đây mà nói chuyện với mấy tu sĩ ở trên núi Hi mã lạp sơn, đó là khen chứ đâu phải chê, nhưng đó là khen sai, không đúng, khen làm cho người ta mê tín, khen làm người ta xa lệch đạo Phật, khen Thầy kiểu đó là chê Thầy chứ không phải khen. Còn khen Thầy như vầy là đúng: Thầy tu hành giữ gìn giới luật không giết hại chúng sanh, không nói láo, không trộm cắp, không uống thuốc, không uống rượu, không coi ngày tốt xấu, không cúng vong, tiển linh, ... là khen đúng. Khi nghe khen thầy mình đúng thì không vui mừng, mà nghe chê thầy mình sai cũng không tranh cải bào chửa. Đức Phật đã căn dặn đệ tử của Ngài như vậy.
Còn ở trong giới bổn các tổ sợ người đời khen chê tu sĩ thì không đúng. Phật chế ra giới luật nhằm đưa ra cái pháp để chúng ta li dục li ác pháp để tuần tự nhập các thiền các định, làm chủ sự sanh tử chấm dứt luân hồi. Còn trong giới bổn các tổ chế ra giới luật như là lấy dây lòi tói buộc các thầy, sợ người ta chê cười. Như các thầy ăn ngày hai ba bữa thì Thầy khuyên các thầy đừng làm vậy kẻo người ta cười chê mình, phải ăn một bữa để người ta kính trọng. Giảng giới như vậy là giảng giới sai. Các thầy ăn ngày một bữa thì được giải thoát hai bữa kia, không có lo nghĩ về cái ăn trong hai bữa đó, như vậy là giải thoát chứ chúng ta không sợ ai cười chê hết. Nếu quý thầy được giải thoát thật sự rồi thì quý thầy từ chối ăn uống phi thời khi được ai mời, thì đó là do quý thầy đã giải thoát chứ không phải quý thầy muốn được người ta khen.
Phật pháp nhắm vào cái thực chứ không nhắm vào cái danh tiếng hư giả. Thế mà trong giới bổn dạy toàn chuyện hư giả chứ không dạy cái thật, nếu giới bổn dạy cái thật là phải dạy cho chúng ta giải thoát.
Trước ở chỗ vắng, sau lần lần đắm nhiểm yêu mến nhau rồi việc chi cũng làm được. Cho nên vì ngăn ngừa đó mà Phật chế ra giới này. Thật sự chế ra giới là để chúng ta biết mà tránh trước, để phòng hộ sáu căn của chúng ta, không được xáp gần giới nữ, không được ở chỗ che khuất để sanh ra tâm dục, ở chỗ che khuất như trong bụi cây, trong buồng, chỗ ở không ai nghe, chỗ cách vách, cách rào cách vật ngăn che thân hình để dấu sự xấu hổ.
Nếu tỳ kheo trước Phật mà xưng tội đã phạm thì như lời khai mà trị. Nếu lời khai không giống với lời ưu bà di thì không như lời khai của ưu bà di mà trị. Nếu tỳ kheo chống cự, không chịu, thì cho bạch tứ yết ma làm phép bất kiến cử tội. Nếu vị ưu bà di vì ủng hộ tỳ kheo không chịu nói rõ thì nên như lời tỳ kheo kia nói mà trị. Nếu tỳ kheo không chịu xưng tội thì suốt đời không giải yết ma được. Như lời dặn nhắc: nếu muốn khỏi bị nghi ngờ thì phải có người thứ ba, nhưng mời ra chỗ trống mà tiếp chuyện; nếu gặp trường hợp không có người thứ ba thì cũng nên mời ra giữa nhà và nói to tiếng lên mà nói cho nghiêm nghị, đừng cười đùa. Nói ở chỗ khuất mà lại nói nhỏ tiếng là mầm sanh ra tội lổi, cũng tùy theo cử chỉ tiếp chuyện mà người ta nghi ngờ hay không nghi ngờ, vì người ta trông thấy mà nhận biết được. Nếu mình kê vào lổ tai mà nói nhỏ thì người ta không biết người đó nói chuyện gì, nói xấu ai, nói gì thì phải công minh nói lớn cho người khác nghe thì người ta không nghi ngờ. Nếu ngồi thì thầm đó là sai, không đúng giới hạnh, cho nên phải nói to cho người khác nghe, như vậy mới không có tội. Đó là giới bất định thứ nhất.
2.- Giới bất định thứ hai. Vì sao Phật chế giới này? Như giới trước nhưng có khác là ở chỗ che khuất có thể làm việc dâm được, còn giới này ông Kaludayi ở chỗ trống nói chuyện với phụ nữ. Chỗ không thể làm việc dâm được nên tội dư tích (tội tăng tàng) không do đâu mà sanh nên Phật kiết giới này vì ở chỗ trống hoặc nói lời thô xấu phi pháp, hoặc nói lời cầu xin cúng dường, hoặc thân phần xúc chạm nhau nên chỉ phạm tội hữu dư, hoặc tuỳ theo việc làm mà phạm tội nặng nhẹ không nhất định. Giới bất định này ở chỗ trống nhưng mà xúc chạm nhau, hay nói nhỏ tiếng.
Hai pháp trên đây gọi là bất định nghĩa là thể của tội này không có tướng nhất định, không có tội tướng nặng hay nhẹ, không biết tên của tội, dù có thầy tỳ kheo cùng người nữ ngồi một chỗ nhưng không biết sẽ làm việc gì, hoặc dâm, hoặc rờ mó, hoặc nói lời thô xấu. Giới này không biết tội nào, hoặc hữu dư hoặc vô dư nên tùy theo chỗ phạm mà trị tội (nghĩa là giới bất định này ở thứ tội nào thì đưa qua thứ đó mà trị tội. Thí dụ như giới bất định này nghiêng qua ba la di thì lấy giới ba la di mà kết tội họ, nếu nhẹ nghiêng qua tăng tàng (sanghadisesa) thì theo giới tăng tàng (sanghadisesa) mà trị. Cho nên gọi là bất định. Hai giới bất định này đều thuộc về giới dâm, giới không tốt, giới có tâm thầm kín, lén lút, cho nên nó thuộc về giới ba la di, nếu nó nặng thì nó thuộc về 4 giới tứ khí thì theo đó mà xử tội. Còn nếu nó nhẹ thì thuộc về tăng tàng, cho nên nó chỉ là cho sám hối, phát lồ để mà nhờ số chúng thanh tịnh cứu họ thoát ra khỏi, còn thuộc về ba la di thì không cứu được.
9.- KIẾT 30 GIỚI XẢ ĐỌA
Xả có nghĩa có của vật đã phạm nên thì xả cho tăng. Còn tội đọa thì nên đối với một vị thượng tọa cầu xin sám hối nhân vì có của vật tâm tham rất mạnh mà sanh tội cho nên Phật dạy phải xả cho tăng để dứt trừ sự tham lam. Xả đọa nghĩa là xả bỏ tài sản của mình đang có, chẳng hạn như mình có một y là đủ nếu có thêm một y nữa là thừa vì vậy phải xả y đó, như mình có hai bàn chải đánh răng tức thừa một cái vì vậy phải xả bỏ cái đó đi bằng cách giao cái đó cho chư tăng, cũng như mình có 2 cục xà bong là dư một cục nên phải xả. Cái gì thừa thì phải xả vật đó, giao cho chư tăng, nếu còn cất giữ thì phạm tội đọa cho nên khi xả rồi vẫn chưa hết phạm tội đâu, phải đến tác bạch phát lồ với một vị thượng tọa sám hối từ đây về sau tôi không cất giữ 2 vật một lượt. Như vậy gọi là tội xả đọa.
Có 30 tội xả đọa:
1.- Giới chứa y nhiều. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên do xưa Phật ở nước Xá Vệ cho các thầy tỳ kheo thọ trì 3 y, không được chứa y dư, Lục Quần tỳ kheo ở trong 3 thời sớm trưa và chiều đều chứa y thừa, Phật cố ngăn đó không cho. Bấy giờ ngài Ananda được một y phấn tảo, muốn cúng cho ngài Ca-diếp do ngài Ca-diếp tu hạnh Đầu đà thường mặc y này mà ngài Ca-diếp không ở nhà, ngài Ananda sợ phạm y thừa liền đến bạch Phật, Phật hỏi ông Ca-diếp lúc nào trở về, ông Ananda nói 10 ngày sau ngài Ca-diếp sẽ trở về. Nhân đó Phật chế giới cho chứa y thừa trong 10 ngày, nếu cất giữ trên 10 ngày thì phải đem ra trình thì không bị tội.
2.- Thọ công đức y. Thầy tỳ kheo ở trong 3 tháng hạ tu tập tinh tấn đủ 5 đức hạnh tốt:
a/ không yêu ai.
b/ không giận ai.
c/ Sợ ai.
d/ Không si mê.
e/ Biết người đã thọ giới, người chưa thọ giới,
được thọ công đức y 5 tháng, từ 16 tháng 7 đến 15 tháng 12, tăng làm pháp yết ma xả, ở trong khoảng 5 tháng ấy được chứa y thừa mà không phạm.
Bạch yết ma hỏi: Ai có thể thọ công đức y. Người có 5 đức bát tôi có thể thọ y nếu người được cúng dường nhiều y vật nên lấy một cái tốt làm công đức y, còn ra là pháp yết ma mà chia cho chư tăng. Trong khoản 10 ngày Phật cho chứa y là tín chủ cúng y cái nào nên thọ trì thì thọ trí, cái nào nên tịnh thí thì tịnh thí, không như thế đến ngày thứ 11 lúc mặt trời mọc thì phạm tội xả đọa (giao lại vật dư mà còn phải sám hối). Như vậy chúng ta phải hiểu đức Phật cho chúng ta cất y chỉ 10 ngày thôi, ngoài 10 ngày thì phải trao lại cho người khác.
3.- Giới rời y mà ngủ. Vì sao Phật kiết giới này. Do xưa kia Phật ở nước Xá Vệ, lục quần tỳ kheo nhận y trong nhân gian, đem y gởi cho tỳ kheo bạn thân, bạn thân thường thường đem phơi. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật cho kiết giới này.
Khi bấy giờ có tỳ kheo mắc bịnh khô gầy còm còi, có cái y cũ phấn tảo rất nặng, có duyên sự muốn đi trong nhân gian, không có thể mang y được, các tỳ kheo vì sự ấy bạch Phật, Phật cho tăng cùng các tỳ kheo bàn định bạch nhị yết ma kiết giới bất thất y bằng khuôn của đại giới, khi ngủ ngoài đại giới để y ngoại ngoài đại giới được. Nếu không kiết giới bất thất y thì ba y khi ngủ phải để gần bên mình, đi đâu ở đêm phải mang 3 y theo mình, không mang 3 y vào làng thế tục thì phạm tội, trừ khi bịnh.
Trong luật Tăng Kỳ nói nên kỉnh 3 y như là tướng pháp, gìn giữ 3 y như là hộ da mặt trên thân, thường mang theo mình như lông cánh chim bay chạy theo nhau, thời nay ít có người không cách đi huống chi thường mang theo mình.
Thiệt ra thì trong Bắc Tông nghĩ 3 y này là 3 cái y chứ không nghĩ 3 y này là bộ đồ của một tu sĩ. Chúng ta phải hiểu đức Phật ngày xưa chỉ có một bộ đồ mà thôi gồm có y hạ, y trung và y thượng. Khi giặt y trung và y hạ thì khoát y thượng, giặt y thượng thì mặc y trung và y hạ. Như vậy đâu còn y nào đâu để ôm kè kè theo, cũng không thể cổi bỏ đâu được. Như Thầy đi đâu thì cũng mặc y thượng, y trung và y hạ, chứ Thầy cổi bỏ đâu được. Đó là 3 y 1 bát, chứ không phải là y 5 điều, y 25 điều như y của Bắc Tông ôm kè kè một đống, rồi mặc áo tràng, áo hậu đủ thứ thì đó nhà giàu chứ không phải nhà nghèo của người tu sĩ. Tu sĩ mặc 3 y mang 1 bát nhẹ nhàng giải thoát, đi như chim bay vậy. Giới bổn chế như vậy làm cho tu sĩ đi đâu cũng phải kè kè không rời xa 3 y. Giới bổn chế ra người tu sĩ không giải thoát mà còn bận rộn tài sản quá nhiều, để 3 y rời xa thì lở mất làm sao nên phải kè kè bên mình, lở trộm lấy cả 3 y đi thì làm sao nên làm khổ tâm cho người có của. Người giải thoát mà lúc nào cũng ôm 3 y làm của thiệt là quá khổ.
Vì sao Phật chỉ cho mặc có 3 y. Xưa có vị tỳ kheo lúc còn tại gia giàu có, sắm y phục rất nhiều, sớm bộ này chiều thay bộ khác, khi đã xuất gia cũng thế. Khi tỳ kheo đó đi đường gặp Phật, Phật thấy tỳ kheo khiên gánh rương tráp nặng nề. Phật hỏi tỳ kheo mang chi nặng thế, tỳ kheo đáp y phục của tỳ kheo. Phật thấy gánh y phục nhiều bất tiện mới thử mặc 1 y ngồi giữa sân, đến khuya lạnh quá Phật mặc thêm 1 y thứ hai cũng còn lạnh, Phật mặc thêm y thứ ba nữa, ngồi tới sáng không còn lạnh. Phật nói 3 y vừa đủ nên Phật cho chế ra 3 y ngũ điều, thất điều. Công dụng của 3 y là y ngũ điều thường để làm việc; y thất điều mặc để tụng kinh, lễ bái, tham thiền, niệm Phật; y ngũ điều mặc để đi khất thực và thuyết pháp. Vì công dụng của 3 y có khác nhau như thế nên kệ chú của 3 y cũng có nghĩa khác nhau. 3 còn tiêu biểu xuất trừ tam độc, siêu thoát tam giới, vì thiểu dục tri túc mà 3 y chẳng nhiều chẳng ít, cốt để cho ấm thân hành đạo vậy mà thôi.
Ở đây Thầy thấy người ta cũng đặt ra điều này để nói rằng Phật đầu hôm mặc một y đến nửa đêm bị lạnh nên mặc thêm một y nữa, sau đó vẫn còn thấy lạnh nên Phật mặc thêm y thứ ba. Thật ra Thầy thấy không phù hợp, dù có mặc 3 y mà trời lạnh thì nó cũng vẫn lạnh. Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta phải mặc áo lạnh mới hết lạnh chứ áo vải không chống lạnh được; chỉ áo chống lạnh mới không bị lạnh. Chúng ta nghe thì hợp lý mà thực tế thì không phải vậy. Nếu mặc 3, 4 áo mà không lạnh khi trời lạnh thì người ta mua áo lạnh làm gì. Ngày xưa, người nghèo may cái áo nhét bông lau trong đó. Như câu chuyện ngài Mẩn Tử Khiên đẩy xe cho cha thì áo bông lau bị bung ra, nếu chỉ mặc 3, 4 áo hết lạnh thì cần gì phải may áo bông lau cho ông. Cho nên các xứ lạnh, khi mùa lạnh người ta mặc áo lạnh chứ đâu mặc 3, 4 áo. Xứ Ấn Độ là xứ nóng chứ không phải xứ lạnh như các xứ vùng ôn hay hàn đới, cho nên 3 y của Phật là phù hợp cho xứ nóng, vậy mà nó còn khó khăn riêng, còn khó khăn trên bước đường tu hành, còn vật dụng còn nhiều quá.
3.- Giới chứa y vải quá 1 tháng. Vì sao Phật kiết giới này? Do duyên xưa Phật ở nước Xá Vệ, tỳ kheo y cũ bị rách nát trong khoảng 10 ngày không thể may y xong, sợ phạm dư thừa, bạn đồng học bạch Phật. Phật cho tỳ kheo giữ y dư để chờ đủ số vải. Lúc bấy giờ Lục quần tỳ kheo chế nhiều thứ y vải khác màu vì một thứ màu không đủ. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật cho chế giới này.
Cần nếu rõ pháp may y. Phật dạy ngài Ananda bảo các tỳ kheo may các y rọc cho ngay thẳng, may dáng giống y như bờ mẫu ruộng. Quá khứ, vị lai đệ tử của Phật đều mặc y như thế. Lấy dao cắt rọc may thành y sa môn như thế là chẳng bị trộm cắp cướp giật. Y phi thời nếu không thọ công đức y. Sau khi tự tứ một tháng thọ công đức y. Sau khi tự tứ 5 tháng gọi là thời y. Quá thời ấy gọi là phi thời y. Nghĩa là thời hạn Phật cho 5 tháng. Nếu quá thời hạn 5 tháng thì gọi là phi thời y, phải giao y đó, không được cất giữ.
4.- Giới lấy y của tỳ kheo ni không phải bà con. Vì sao Phật kiết giới này? Do duyên xưa Phật ở thành Vương Xá, lúc bấy giờ có một tỳ kheo mặc y cũ chằm vá cũ rách, Liên Hoa Sắc Tỳ kheo ni thấy thế phát lòng từ bi thương xót rồi cởi y quý giá của mình đang mặc đổi cho vị tỳ kheo kia, rồi mặc y rách đó đến yết kiến Phật. Phật bảo Liên Hoa Sắc Tỳ kheo ni không nên làm như thế Ta đã cho ni chứa 5 y lành tốt còn y khác tùy ý mà tịnh thí cho người. Nhân vì đó mà Phật kiết giới không cho ni lấy y của mình cho các tỳ kheo. Các ni dè dặt không cho các tỳ kheo lấy y. Phật nói cho lấy y của ni bà con. Vì sao? Nếu là bà con thì họ biết so lường hoặc có hay không, hoặc tốt hay xấu, hoặc mới hay cũ, nên lấy hay không nên lấy.
Theo Thầy thiết nghĩ người ni lấy y của mình mà cho thì dù bà con cũng không nên nhận, không phải chúng ta chấp, nhưng một người tu chứng tâm đã li dục li bất thiện pháp, tâm đã thanh tịnh thì không nói gì; người tu chưa chứng, tâm sống trong giới hạnh của Phật thì cô đơn lắm cho nên khi một vật gì của nữ trao tặng cho mình thì coi như quý vật, tâm khó quên. Nên theo Thầy nghĩ không nên nhận vật gì của người nữ trao cho chúng ta, vì nhận thì làm cho đầu óc chúng ta nhớ mãi. Chúng ta biết được tâm chúng ta chưa giải thoát thì chúng ta phải từ chối, không nhận bất kỳ vật gì của người nữ. Chúng ta phải làm sao cho tâm chúng ta thật trong sạch để chúng ta li, xa lìa dục cho được. Trong thời gian Thầy còn dạy học, bên ni thường mua các vật dụng, như khăn,... đem biếu Thầy để câu Thầy. Vì vậy mà người chân thật tu thì không nên nhận bất kỳ vật gì của người khác phái. Mà khi nhận vật của người cùng phái chỉ nên nhận đồ cần thiết cho đời tu mà thôi.
5.- Giới cấm tỳ kheo ni không phải là bà con, không được giặt y tỳ kheo. Vì sao Phật kiết giới này? Do duyên xưa Phật ở nước Xá Vệ trong vườn Cấp Cô Độc, lúc bấy giờ ông Kaludayi cùng với cô Thâu Lan Nan Đà tỳ kheo ni ngồi ngang giặt y áo nhau tạo cành bất tịnh. Sau đó Phật nghe được điều này mới kiết giới không cho ni giặt y áo của tỳ kheo. Nghĩa là khi Phật nghe sự tỳ kheo và tỳ kheo ni ngồi gần nhau rồi trao đổi giặt y áo cho nhau, thì đức Phật thấy điều này là bất ổn nên đặt giới cấm tỳ kheo ni giặt y áo cho tăng và tăng cũng không được giặt y áo cho ni.
Đây là sự ngăn cấm đúng cách, bởi sự này không đúng tư cách của người tu. Trong kinh giới cho đây là sự ngăn ngừa về tương lai nên cho ni bà con giặt y cho tăng, còn các ni không có bà con với tăng thì không được.
6.- Giới cấm người tu sĩ không được với người cư sĩ không phải bà con mà xin y. Vì sao Phật kiết giới này. Do khi Phật ở nước Xá Vệ, ông Bạt nan đà vượn cầu đòi cái áo đặc biệt quý giá của trưởng giả, bị người thế tục chê hiềm, nên vì thế Phật chế giới này. Các tỳ kheo dè dặt không dám theo cư sĩ bà con cầu xin. Phật nói rằng cho theo cư sĩ bà con xin y được. Phật chế giới ngăn cấm không được đối với cư sĩ không có bà con không được xin y áo, còn đối với cư sĩ bà con ruột thì xin được.
Sự chế giới như vậy không đúng cách. Đây là người sau chế giới. Phật chế giới là cái pháp để chúng ta li dục, mà còn xin áo đẹp, áo đặc biệt đẹp, người tu sĩ còn muốn mặc áo đẹp thì làm sao gọi là li dục li bất thiện pháp. Giới luật chế như vầy, viết như vầy làm sao mà nói là của Phật chế. Bởi vốn giới luật của Phật giúp chúng ta li dục li bất thiện pháp, sống thoát ra khỏi cảnh thế tục, sống thoát ra khỏi cảnh trầm luân của thế gian, thế mà giới luật của Phật lại cho chúng ta có bà con ruột thịt giàu có ở thế gian thì xin áo đẹp được. Giả như trong chúng tu sĩ của chúng ta mà có một tu sĩ có cha mẹ giàu có, rồi vị này xin cha mẹ y áo quá đẹp thì chúng ta nghĩ như thế nào. Giới luật mà chế như vậy thì chỉ các tổ sau này chế thôi chứ sống đời sống của Phật thì "Thân hòa đồng trụ" nghĩa là cái thân của người này người kia đều hòa hợp nhau, mặc y phấn tảo hoặc mặc y thô xấu chứ đâu có thể đòi hỏi y áo đặc biệt tốt đẹp.
Ông Bạt-nan-đà tỳ kheo này đòi xin cái áo đó cho được nên bị ông trưởng giả là người lạ cho nên chê cười cho nên đến tai Phật, Phật mới cấm không cho tỳ kheo xin người lạ mà cho xin người thân. Đọc câu chuyện chế giới này thì Thầy biết là Tổ chế chứ không phải Phật chế. Giới luật là thầy của chúng ta thì giới luật phải thanh tịnh, phải giúp ta li dục li bất thiện pháp. Thế mà giới luật cho phép xin bà con ruột của mình y áo đẹp. Lẻ ra phải cấm hết, tu sĩ không được xin người lạ mà cũng không xin bà con ruột thịt y áo sang đẹp.
Khi đó có tỳ kheo an cư kiết hạ xong, đến yết kiến Phật, ban ngày nóng nên đi ban đêm lạc đường bị giặc cướp y vẫn để trần hình đến chùa. Tại sao để trần hình mà đi? Là tại Phật chế giới cấm không cho xin y. Vì tương lai tỳ kheo cũng có nạn này nên muốn làm nhân duyên để Phật khai thông (chế giới lại cho phù hợp). Phật dạy trần hình mà đi phạm tội ác tác, nên lấy cỏ mềm hay lá cây mà che thân hình, đi đến chùa, nếu trước có y thừa thì nên lấy y mà mặc hoặc lấy vật chi che thân hình mà đi.
Ở đây nói y thừa là không hợp lý vì giới luật cho chỉ có 3 y mặc trên người thì làm gì có y nào thừa.
Bấy giờ có tỳ kheo bị cướp y, y bị lửa cháy, y bị nước trôi, sợ dè dặt không dám theo cư sĩ không phải bà con mà xin y. Phật nói cho theo cư sĩ không phải bà con mà xin y.
Nghĩa là Phật chế giới lại, hồi trước không cho tỳ kheo xin y từ cư sĩ không bà con, rồi chế lại cho tỳ kheo xin y ở cư sĩ không có bà con, Thầy thấy Phật chế một giới mà chế đi chế lại như vậy mà không đúng lí nữa. Nếu Thầy chế giới thì Thầy phải biết cái giới đó xảy ra cái gì. Như chế giới không xin y khi mình có y mặc này mà lở bị nước trôi, bị lửa cháy, bị trộm cắp lấy, lúc bấy giờ chúng ta trở về chùa, ban đầu chúng ta vào rừng kiếm lá cây làm cho kín thân rồi chúng ta đi về chùa, trong chùa đó các vị tỳ kheo tìm cách giúp cho mình y áo chứ không cần phải vô nhà cư sĩ. Ở trong chùa đó khi vị đó về chùa rồi, thì vị lãnh chúng trong chùa nói với phật tử đến chùa rằng trong tu viện có một vị y bị lửa cháy, hoặc là bị trộm cướp, xin phật tử cúng dường cho vị đó một bộ y khác. Lẻ đương nhiên là phật tử cúng dường, chứ đâu phải đợi vị tu sĩ đó đi từng nhà xin người ta. Ở truồng ở trần vô xin người ta còn sợ nữa. Như vậy giới luật đưa ra là hoàn toàn rất tốt. Tu sĩ có chỗ có nơi, có thầy có bạn, chứ đâu phải mất y áo rồi vô nhà cư sĩ xin. Chỉ đi khất thực mới đi từng nhà xin, còn y áo thì ở tu viện người ta lo. Cho nên giới luật cấm người tu sĩ không được xin cư sĩ y áo, trừ người đại diện tu viện đứng ra xin cư sĩ y áo cho vị tu sĩ đó. Đó là giới luật rất đúng là làm cho người tu sĩ không có 2, 3 bộ.
7.- Giới quá thọ y. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên xưa Phật ở nước Xá Vệ có nhiều tỳ kheo gặp giặc mất y, đến Kỳ Hoàn tịnh xá, cư sĩ nghe tỳ kheo mất y, mang nhiều y tốt đến cúng tùy ý mà lấy, Tỳ kheo đáp rằng chúng tôi tự có 3 y, không muốn nữa. Lục quần tỳ kheo bảo rằng sao chẳng lấy cho chúng tôi, hoặc để cho người khác, thầy tỳ kheo liền lấy cho lục quần tỳ kheo. Khi bấy giờ các tỳ kheo thiểu dục tìm cách bạch Phật, Phật họp tăng lại và kiết giới này.
8.- Giới cầu thêm tiền may y tốt. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên xưa Phật ở nước Xá Vệ có Bạt nan đà khất tử nghe vợ chồng đàn việt mang tiền mua y cúng cho Bạt nan đà. Ông biết việc ấy bèn đến nhà đòi y mới đó phải tốt, phải chắc (nghĩa là Bạt nan đà biết vợ chồng người cư sĩ sẽ cúng dường y cho mình nhưng sợ họ mua vải xấu nên đến nhà người cư sĩ yêu cầu họ mua loại vải tốt để may y). Người cư sĩ đó đến bạch Phật sự việc ông Bạt nan đà yêu cầu, Phật nhân đó kiết giới này.
Về sau, có cư sĩ hỏi tỳ kheo cần y thế nào để thực hiện theo ý vị tỳ kheo ấy. Lại có cư sĩ muốn vì tỳ kheo mà may một y quý giá để cúng cho vị ấy, vị tỳ kheo này là tỳ kheo tri túc muốn được cái y không quý giá nhưng vì sợ phạm giới nên không dám nói theo ý muốn tri túc của mình. Phật dạy nếu cư sĩ thỉnh tùy ý tỳ kheo thì cho phép nói.
Theo Thầy nghĩ khi người cư sĩ gợi ý hỏi như vậy thì tu sĩ nên chẳng có ý kiến gì về y áo của mình, còn nếu nói theo ý mình muốn thì không còn thiểu dục tri túc đâu. Những giới luật chế mà nói tới nói lui Thầy thấy không đúng. Một vị tu sĩ phải luôn luôn thiểu dục tri túc, khi có người cư sĩ hỏi ý, chỉ nên nói tùy ý của cư sĩ, nhưng tôi cũng khuyên cư sĩ chỉ nên sắm y thô xấu thôi, vì chúng tôi không được phép trang điểm ăn mặc sang đẹp. Như vậy giới luật mới là hàng rào làm cho chúng ta li dục li ác pháp, làm cho tâm chúng ta không khởi ham muốn được, chúng ta mới sống đời sống phạm hạnh giải thoát. Chế giới mà thêm bớt như thế này là các tổ thêm bớt để chạy theo tâm dục của mình. Khi người cư sĩ cúng cho mình mà mình đến nhà họ đòi hỏi này kia thì đức Phật chế giới cấm không cho đòi hỏi là phải. Bây giờ người cư sĩ họ yêu cầu mình có ý kiến, mà đức Phật cũng cho người tu sĩ nói ý kiến cho người ta. Như vậy là người tu sĩ chạy theo dục rồi. Như vậy ông Phật chế giới này để làm gì.
Cầu mà được thì phạm xả đọa, cầu mà không được thì bị tội ác tác. Luật Ngũ Phần nói đến nơi thân quyến đòi y đẹp phạm tội ác tác. Luật Căn Bản nói nếu chỉ xin một miếng vải thôi mà người khác cho là đại y thì không phạm.
Nghĩa của tội xả đọa: xả có nghĩa là buông ra, giao lại cho Tăng đoàn hay Ni đoàn vì nó dư thừa. Khi bỏ của đó giao lại cho người khác rồi thì phải đối diện với vị thượng tọa hay vị đại đức lớn (có hạ lạp cao mình) phát lồ sám hối. Việc xin phát lồ sám hối là từ rày về sau không phạm nữa khi phạm vào tội ác tác; còn xả là bỏ vật đó ra, mình có hai y thì giao trả lại y thứ hai đó; việc chấp giữ đó gọi là tội xả đọa.
9.- Giới khuyên họp với tiền của y. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở nước Xá Vệ, có tỳ kheo Bạt nan đà nghe vợ chồng hai cư sĩ cùng nghĩ bàn để dành tiền mua sắm y cúng dường cho mình. Bạt nan đà liền đích thân đến nhà hai cư sĩ đó bảo họp tiền lại để may cái y cho rộng cho thật tốt. Phật nhơn đó mà chế giới. Nghĩa là ông Bạt nan đà được nghe hai người cư sĩ bàn cùng để dành tiền để mua sắm một bộ y cho đẹp nên ông đến bàn với hai cư sĩ đó nếu mấy ông họp tiền lại thì phải may cho tôi cái y cho rộng và cho đẹp. Nhơn điều này Phật được nghe nên Phật chế giới. Người phạm như vậy là phạm giới ác tác phải sám hối và cái y đó phải xả ra. Cho nên y đó vừa phạm tội ác tác vừa phạm tội xả đọa, phải bỏ không được mặc cái y đó.
10.- Đòi y quá 6 lần. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở nước Xá Vệ, lúc bấy giờ trong thành La Phiệt có một đại thần sai sứ đem tiền may y đến cho Bạt nan đà, ông liền cùng với người sứ vào trong thành đem tiền may y gởi cho một trưởng giả thân cất, thời gian khác vị đại thần hỏi người sứ trước tôi đã sai ông đem tiền đến cho ông Bạt nan đà sắm y, nay tỳ kheo ấy có mặc y đó không. Sứ giả thưa không thấy mặc. Đại thần bèn sai sứ đòi tiền sắm y lại. Bạt nan đà liền đến trưởng giả đòi gấp gáp may y, đến nổi trưởng giả không đến phó hội được vì vậy ông trưởng giả bị phạt 500 tiền. Các cư sĩ biết việc ấy nên chê hiềm, đức Phật nhân đó mà kiết giới này.
Đọc kinh giới này thấy thật là vô lí: cứ tên của một tỳ kheo nói lập đi lập lại trong nhiều giới; và đặt giới ra rồi sửa đi sửa lại, thì không hợp lí. Nếu Phật mà đặt giới luật như vậy thì Phật không có trí tuệ. Giới luật như vậy thì làm sao Phật di chúc lại cho chúng ta lấy giới luật làm thầy. Các thầy tổ của chúng ta trước đây đã làm lệch lạc, bây giờ chúng ta chỉ còn biết sửa lại từng chút để còn đường đi cho chúng ta tu tập cho đến nơi đến chốn, chứ chúng ta biết trách ai được.
Tôi không được phép nhận tiền may y này, đây là pháp của tỳ kheo không được cất chứa tiền bạc của báu, hợp thời thanh tịnh tôi sẽ nhận, mà không hợp thời thì tôi không nhận là chư tỳ kheo cần y đúng lúc hay lúc Phật cho phép tỳ kheo được chứa nhận và may thành y vậy.
Thật sự ra nói Phật cho chứa nhận vải để may thành y thì chắc chắn ông Phật không bao giờ cho tỳ kheo chứa nhận đâu. Như Thầy tổ chức các con thành một tăng đoàn do Thầy lãnh đạo để các con tu hành thì mỗi người đều có y áo. Bây giờ trong chúng các con có người y bị rách thì Thầy có bổn phận xin y cho người đó chứ người đó khỏi cần phải đi xin, vì tâm các con còn yếu sẽ đắm chìm trong dục và ác pháp. Đó là cuộc sống trong một đại gia đình có người đứng ra lo cho các con. Các con chỉ lo tu cho giải thoát, thì y nào cũng mặc che thân, chứ không đòi hỏi phải y này y kia để rồi chế giới luật như thế này. Cho nên 13 năm đầu không chế giới luật, chỉ từ năm thứ 14 về sau thì Phật mới chế giới này đến giới khác. Thầy nghĩ rằng trên đường tu hành của đạo Phật đã 13 năm đầu không chế giới thì những gương hạnh của người tu trước đều là những gương hạnh thanh tịnh, không phạm giới, những người sau theo đó mà tu. Thứ nhất là lấy gương hạnh Phật, thứ hai là lấy gương hạnh chúng tăng thì tất cả người sau làm sao mà phạm giới được.
Sự không phạm giới này là do những pháp mà các vị thánh tăng tu tập đều là những giới, do các giới đó mà các vị thánh tăng li dục, mới sống được 13 năm thanh tịnh, tất cả những người theo Phật để tu đều được thanh tịnh. Đó là giới chứ là gì. Mặc dù lúc bấy giờ không chế ra giới như trong giới bổn, nhưng trong giới kinh có sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, như vậy rõ ràng đó là giới chứ gì nữa. Người tu sĩ phải hiểu đó là các pháp để li ác pháp, là giới, mà giới đó không phải là giới bổn khô khan. Như nói không sát sanh mà chúng ta không sát sanh thì đó là thiện pháp, mà sát sanh là ác pháp. Những pháp mà chúng ta đang tu tập đều là những giới. Do không phạm giới này mà nhờ đó các vị thánh tăng li dục, các vị mới sống được 13 năm thanh tịnh. Và về sau, tất cả những người theo Phật cũng theo đó để được thanh tịnh. Đó là giới chứ gì, mặc dù lúc bấy giờ không chế ra giới bổn, nhưng trong giới kinh có sơ thiện, trung thiện, hậu thiện. Như vậy rõ ràng đó là giới, mà giới đó không phải là giới bổn bắt buộc khô khan, những người tu sĩ phải hiểu đó là pháp để li ác pháp. Như nói không sát sanh thì đó là thiện pháp mà sát sanh là ác pháp, chớ đâu phải cấm chúng ta đừng sát sanh, đừng giết hại mạng chúng sanh, gây đau khổ cho chúng sanh. Không giết hại không làm đau khổ chúng sanh là thiện pháp, không giết hại không làm đau khổ chúng sanh là li dục li ác pháp. Cho nên đâu cần gì phải có giới. Nó là giới mà đâu cần giới; nó là pháp để tu giải thoát cho nên 13 năm đầu Phật không chế giới mà có giới chứ đâu phải không.
Bây giờ giới bổn được chế ra chúng ta lại thấy nó bằng thừa, nó không có một cái gì gọi là li dục được trong các giới đó mà nó lại có nhiều cách thức vô lí và mâu thuẩn giới trước và giới sau.
11.- Giới may tọa cụ bằng bông gai tơ lụa. (Hầu hết Thầy thấy về y áo thôi) Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở nước Khán Giả, bấy giờ Lục quần tỳ kheo làm ngọa cụ mới, đến nhà nuôi tằm xin tơ, đứng bên bờ sông để đợi xem thợ ươm tơ, quay tơ khiến cư sĩ chê hiềm. Phật nghe, nhân đó mà chế giới ngọa cụ (tức là mền chăn) hoặc là mình làm, hoặc là khiến người làm thành thì phạm tội xả đọa, không thành thì phạm tội ác tác, nếu vì người khác làm bằng bông gai tơ lụa thành hay không đều phạm tội ác tác (nghĩa là phạm tội sám hối).
12.- Giới may tọa cụ bằng lông dê rặt đen. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại nước Xá Li, bên sông Chư hầu; ở trên lầu các Lê Xa Tử hầu hết là tà dâm, dùng lông dê toàn màu đen may mặc để đi đêm khiến cho người khỏi trông thấy. Lục quần tỳ kheo bắt chước dùng làm tọa cụ, ai nấy đều chê hiềm, Phật nhân đó mà chế giới này. Nếu nhận được vật đã thành hoặc cắt rọc làm cho hư hoại, hoặc mỏng nhẹ may thành hai lớp nếu làm mền làm gối thì không phạm. Tỳ kheo là bậc thiểu dục không nên dùng những vật đó.
Đức Phật cấm chúng ta không nên dùng da các con vật, như ngay cả đôi dép bằng da thú thì đức Phật cũng không cho, chúng ta là những người tu, không thể bảo vệ chân chúng ta bằng da của các loại chúng sanh được. Bất kỳ có sự đau khổ của chúng sanh trong các đồ dùng của tu sĩ thì không nên dùng.
13.- Giới may ngọa cụ không lẫn màu. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục quần tỳ kheo dùng lông dê toàn màu trắng làm ngọa cụ, cư sĩ chê hiềm các tỳ kheo ấy tợ vua và đại thần, nên nhân đó Phật kiết giới này. Nghĩa là đức Phật luôn luôn cấm chúng ta làm đồ dùng theo kiểu sang của các nhà vua quan, với lông dê màu trắng tuyền. Đó là màu ngày xưa người ta thích, chúng ta là tu sĩ không nên dùng, chúng ta tránh xử dụng các vật đó trên thân của chúng ta. Cho nên giới 13 này đức Phật cấm chúng ta xử dụng những vật gì mà giống những vật dụng của người cư sĩ.
14.- Giới dùng ngọa cụ chưa đầy 6 năm. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục quần tỳ kheo chê ngọa cụ cũ lại sắm cái mới, chứa rất nhiều, Phật nhân đó chế giới. Dưới 6 năm không được xả cái cũ, hễ sắm cái mới thì phạm tội xả đọa.
Thầy thấy đối với người tu sĩ chúng ta không cần phải 6 năm mà cũng không cần vật dụng ngọa cụ, chúng ta chỉ lấy cái y cũ của chúng ta trải để nằm là được rồi chứ không cần thêm cái gì cho mang nặng nề. Thân giải thoát đã là đời sống của tu sĩ rồi mà chúng ta cần thêm thứ này làm gì cho nó mệt. Như người ta chế ra bồ đoàn (gối tròn ngồi thiền) hay tọa cụ là miếng mút may vải bọc, rồi đi đâu thì gánh một bao, quảy một quảy. Làm chi cho mệt vậy. Đi tới đâu ta ngồi tự nhiên, không cần chêm mông chêm đít bằng vật gì khác.
15.- Giới may tọa cụ mới không khâu miếng cũ. (thật sự trong cuộc đời tu hành, theo Thầy thấy nên buông xả hết là chúng ta sung sướng chứ còn thêm một vật là chúng ta còn chất chứa. Như Thầy có kể cho các con nghe câu chuyện một ông sư xả hết duy chỉ còn một cái bát, thế mà khi có người gỏ vào bát thì ông sợ bễ cái bát đó lật đật bỏ thiền chạy ra. Bây giờ chúng ta thêm cái này cái khác thì làm sao chúng ta giải thoát được. Chúng ta tập làm sao đụng đâu chúng ta cũng ngồi thiền được, đó là cái giải thoát. Tu như vậy mới không còn sự dính mắc, mới thật tu). Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, khi tăng đi thọ thỉnh, Phật ở tại tịnh xá đi khắp các phòng thấy tọa cụ cũ bỏ bừa bải khắp nơi. Phật biết rằng vì họ chê hoặc là quá mỏng, hoặc là quá dày, hoặc quá nặng. Nhân đó Phật họp các tăng lại dạy mỗi khi làm tọa cụ phải lấy 1 gang tay cái cũ may lên cái mới. Lục quần tỳ kheo không tuân lời Phật dạy, vì vậy nên Ngài mới kiết giới này. Sở dỉ phải lấy miếng cũ khâu lên cái mới là để phá cái sắc cái mới, ấy là phá sắc nên tỳ kheo thiểu dục nên dùng đồ hoại sắc như giới trước vậy.
Thật sự ra Thầy thấy trong thời đức Phật chỉ có 3 y 1 bát, không có bồ đoàn tọa cụ. Hình thức có bồ đoàn, tọa cụ dầy mỏng là do ai, các con có biết không? - Thiền sư chứ ai và cũng chính các ông viết giới ra chứ ngày xưa đức Phật chỉ có 3 y 1 bát, ngồi thiền rồi bỏ đi, đức Phật xả quá xả. Thầy thấy có người có cái áo rất mới thế mà họ lấy nhiều miếng vải cũ vá chỗ này chỗ kia trên áo mới. Người ta nói làm vậy cho hoại sắc. Đó là cách thức giả dối. Phật chế giới này là không cho chúng ta phí bỏ cái cũ, ai phí bỏ thì phạm tôi xả đọa.
16.- Giới tự mang lông dê quá 3 do tuần. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, lúc bấy giờ tỳ kheo Bạt Nan đà đi đường được nhiều lông dê, xâu vào đầu gậy quảy đi, (ai mà bỏ trên đường nhiều vậy?), cư sĩ chê hiềm, nói Thích tử mua bán lông dê, da dê. Do đó Phật chế giới: người nào lượm da dê may thành giày dép hoặc là tọa cụ bồ đoàn thì phạm tội ác tác xả đọa.
17.- Giới khiến ni không phải bà con nhuộm lông dê. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại nước Khí Sậu thành Ca tỳ la vệ trong vườn Ni câu luật, lúc bấy giờ Lục quần tỳ kheo lấy lông dê sai bà Ma ha Ba Xà Ba đề tỳ kheo ni nhuộm màu giùm, đức Phật thấy nhớp tay của bà nên do đó Ngài chế giới. Các tỳ kheo cẩn thận, không dám nhờ ni quyến thuộc nhuộm, đức Phật dạy được phép nhờ, liền kiết giới lại, thêm câu "sai tỳ kheo ni không phải bà con giặt, nhuộm, vỗ. Ba việc mắc ba tội xả đọa, việc nào không làm thì không mắc tội, còn làm thì mắc tội xả đọa, nhờ tịnh nữ, học pháp nữ (tức là thức xoa ma ni) không phải bà con làm thì được. (Nói chung làm các việc nhuộm y áo mà nhờ thức xoa ma ni không bà con thì không phạm tội, còn nhờ tỳ kheo ni thì đều phạm tội ác tác hay tội xả đọa. Nếu vì người bệnh, vì Phật, vì pháp mà sai nhờ thì không phạm.
Thật sự các giới này họ chế ra họ nói vì Phật mà nhuộm cho Phật hoặc luôn luôn làm cho Phật thì không có tội. Nhưng ông Phật cần gì phải nhuộm, cần gì phải làm, nghĩa là mặc tới rách thì có người cúng dường có gì đâu mà phải làm. Rồi pháp, pháp đâu có mặc y mặc áo mà đòi giày dép bằng da dê da cừu đâu mà đặt ra gọi là không có phạm; ở đây chỉ lấy cái giới là tịnh nữ hoặc là sa di, sa di ni những người có thể làm các việc nhuộm, may thì được, còn tỳ kheo, tỳ kheo ni thì không được.
18.- Giới thọ tiền, vàng bạc. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại nước Kỳ xà quật, có một đại thần bảo vợ để dành phần thịt cho Bạt nan đà, sau đó con của ông lấy ăn. Sáng ngày Bạt nan đà đến nhà đại thần, người vợ muốn cầm tiền ra chợ mua thịt trả lại cho ông Bạt nan đà. (Bên Nam tông lấy chuyện này cho là các đệ tử Phật ngày xưa ăn thịt, nên ngày nay họ cũng ăn thịt. Đó là những giới có thể họ chế ra như vậy. Mẫu chuyện này làm cho người tu sĩ hết thanh tịnh được, cho nên chỉ biết ăn cho khoái khẩu mà thôi, do vậy không bao giờ li dục li ác pháp được. Những tội đó không thể dung tha được). Ông Bạt nan đà nói nếu vì tôi mà mua thì đưa số tiền đó cho tôi cũng được. Bà vợ vị đại thần liền để tiền dưới đất, ông Bạt nan đà cầm tiền đem gởi cho người bán quán mà đi. Cư sĩ thấy vậy chê cười.
Vì câu chuyện ấy, đức Phật dùng vô số phương tiện quở trách Bạt nan đà, rồi kiết giới này: dù trực tiếp hay gián tiếp nhận tiền bạc châu báu, đều phạm tội xả đọa (tất cả tỳ kheo giữ tiền bạc đều phạm tội xả đọa). Nếu được tiền vật báu mà muốn xả đúng pháp thì phải sám hối rồi đến nói với người tịnh nhân hay ưu bà tắc đáng tin ưa nói với họ đây là vật mà tôi không nên nhận, ông nên biết cho. Người đó nhận lấy rồi đổi lại cho tỳ kheo những vật tịnh cần để thọ dụng như y bát tọa cụ, nếu người ấy nhận rồi mà không trả lại thì nên nhờ tỳ kheo khác nói mà đòi giùm (cái này còn bày đặt nữa. Giới luật của Phật nói không cất giữ tiền bạc thì mình không có tiền bạc. Với bất kỳ lý do nào mà có tiền bạc thì mình giao trả cho tu viện, hoặc cho tăng đoàn, hoặc giao cho cư sĩ muốn sử dụng, muốn làm gì thì làm, mình coi như không có tiền bạc nữa. Còn làm như vậy nó chi phối, tâm cứ nghĩ về số tiền đó hoài làm tâm không thanh tịnh. Sa môn Thich tử xả li châu báu, nếu cầm tiền bạc châu báu thì quyết định đó không phải là đệ tử của Phật nữa)
19.- Giới đổi chác các thứ. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại nước Xá Vệ vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ tỳ kheo Bạt nan đà đào gừng sống đến chợ đổi thức ăn, lại nhuộm y cũ đem gạt người để lấy y mới, ngoại đạo bị lầm nên ăn năn xin đổi lại y. Bạt nan đà không chịu đổi làm mang tai tiếng, nhân đó Phật kiết giới. (Nghĩa là ông Bạt nan đà lấy y cũ đem nhuộm, rồi đến ngoại đạo gạt là y mới, đổi lấy y mới của ngoại đạo). Trường hợp phạm dưới mọi hình thức kết quả thì phạm xả đọa, không kết quả thì phạm ác tác. Xả đọa thì trả lại như giới chứa y dư, giới chứa vàng bạc, bảo vật, đổi chát mua bán nên bảo xả cùng với tịnh nhân, giới này dùng y dược đổi chát nên bảo xả bỏ.
20.- Giới chứa bát dư. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại nước Xá Vệ, Lục quần tỳ kheo vì tìm cầu bát mới nên chứa bát cũ rất nhiều. Do đó Phật chế giới không cho phép chứa bát dư. Khi ấy tôn giả Ananda được người cúng một chiếc bát quý giá muốn cúng lại cho ngài Ca Diếp mà ngài Ca Diếp thì không có ở nhà, sợ phạm tội giữ bát dư, tôn giả Ananda đến bạch Phật, Phật hỏi Ca Diếp bao lâu mới về, tôn giả Ananda thưa sau 10 ngày nữa, do đó Phật cho phép chứa được 10 ngày.
Cũng lấy ông Ca Diếp và ông Ananda để lấy cớ 10 ngày chứa y dư, chứa bát dư. Mấy ông viết giới luật này không còn biết ai hết, chỉ biết lấy ông Ananda và ông Ca Diếp và lấy 10 ngày. Chứ Thầy thấy khi Phật nhập diệt, ông Ca Diếp phải đi xa lắm chứ không thể đi 10 ngày được, Thầy thấy đây là cuội chứ không thật.
Bát có bốn loại:
- Bát sành hai màu đỏ và đen, bát lớn chứa ba đấu, bát nhỏ chứa một đấu rưởi.
- Bát bằng đá là bát của Như lai.
- Bát bằng gỗ là bát của ngoại đạo.
- Bát bằng vàng, bạc, lưu ly, bảy báu là bát của bạch y (cư sĩ), đều không phải là đồ của tỳ kheo thọ trì.
22.- Giới kém lằn răng cầu bát mới. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại nước Xá Vệ, tỳ kheo Bạt nan đà bị bể một cái bát, tìm xin được nhiều bát mới, cư sĩ chê hiềm, Phật nhân đó mà kiết giới này: nếu đủ 5 đường răng (đường nứt) mà không rỉ chảy thì không tìm bát mới được; nếu răng nứt mà rỉ chảy thì cho tìm xin bát mới, dưới 5 đường nứt mà không rỉ chảy thì không được tìm bát mới. Cách xả bát này, người phạm phải đến nơi vị thượng tọa quỳ gối chắp tay tác bạch: Bạch Đại Đức tăng xin lắng nghe, tôi tỳ kheo bát bị nức dưới 5 lằn răng và nó đã chảy nước rồi, lại tìm xin bát mới phạm tội xả đọa. Nay xin xả cho tăng" xả rồi nên sám hối, tăng yết ma trao bát cho. Nếu là loại dưới nên lưu lại lấy bát tối hạ, bạch nhị yết ma mà trao cho. Tác pháp yết ma xong, vị kia nên đem bát đó đến trên tăng thứ lớp hành xả, nếu mọi người không ai lấy nên trả lại cho vị tỳ kheo ấy, nếu họ giữ trọn đời, còn cái bát trước kia họ thọ trì nên như pháp mà thọ trì.
Nghĩa là cái bát nứt có 5 đường mà chưa rỉ chảy thì ông tỳ kheo đó không được lấy bát mới mà vẫn xài bát cũ. Còn bát mới giao cho tỳ kheo thiếu bát lấy xài, nếu mọi người đều đủ bát, không lấy thì bát được giao cho người xin bát (người bị bát răng nứt nhưng chưa rỉ chảy) thì mới bỏ cái bát đó được bằng không thì phải dùng bát nứt chứ không bỏ được. Trong khoảng thời gian bát nứt còn xài được mà có bát mới để dành thì phạm tội xả đọa hoặc là ác tác.
23.- Giới kiếm thợ dệt không phải bà con dệt. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại nước Xá Vệ, tỳ kheo Bạt nan đà muốn may y tăng già lê xin được nhiều tơ đem đến cho thợ dệt bảo dệt ra y, tự tay giúp vào việc của thợ dệt, tự coi dệt. Phật nhân đó mà kiết giới pháp xả, ăn năn, trả lại, đúng cho giới. Trường hợp không phạm nếu thợ dệt và người cho chỉ đều là thân quyến, nếu tự dệt làm dảy đựng bình bát, ngồi thiền, dây lưng, mão, khăn lau.
Thật sự theo Thầy nghĩ dù thân hay lạ đều không được hết, người này còn đắm đuối theo các vật dụng này. Những cái này là những cái thừa của người tu sĩ li dục li ác pháp.
24.- Giới khuyên dệt y tốt đẹp. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, có một cư sĩ suất tơ tốt kiếm thợ dệt may y cúng cho Bạt nan đà. Bạt nan đà liền đến nhà cư sĩ khác xin tơ thêm nơi vợ của cư sĩ đó, đem cho thợ dệt bảo dệt cho rộng dài và cắt cho đẹp và hứa trả thêm tiền công. May y xong cư sĩ thấy không phải như trước đã khiến thợ dệt, hỏi ra vấn đề, cư sĩ chê hiềm, Phật nhân đó mà kiết giới này. Sau đó có cư sĩ yêu cầu, các tỳ kheo nghi không dám đòi hỏi như ý mình, Phật dạy cho phép nhận, cho phép đòi hỏi.
Thật sự theo Thầy nghĩ khi cư sĩ muốn cúng dường y áo cho mình thì người ta may sao mặc vậy, kích cở của miễn là có y áo mình mặc là được rồi. Nhưng không lí người ta không nhắm xem mình để may cho vừa với mình sao. Mình không đòi hỏi ý kiến gì hết. Mình đi xin nên không ý kiến gì hết. Thế mà trong giới bổn hầu như cho phép các tỳ kheo có ý kiến. Rồi khi cư sĩ giả đò hỏi ý kiến của mình về y áo sẽ cúng dường cho mình. Người ta nói gì thì nói, mình chỉ nói tùy hỉ cư sĩ. Có vậy cư sĩ mới còn quý trọng mình chứ mình nói ra ý kiến riêng của mình, liền bị cư sĩ chê hiềm ngay. Không phải vì họ kính trọng mà mình giữ giới, mà vì mình li dục li bất thiện pháp để giới được trọn vẹn, giữ được phạm hạnh, giải thoát sanh tử.
25.- Giới cho y rồi sau lấy lại. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt nan đà cho đệ tử một pháp y, sau nhân bảo cùng đi, đệ tử không chịu đi bèn sanh sân hận cưỡng lấy lại y. Đức Phật nhân đó mà kiết giới. Người nào phạm tội này bị phạm tội ác tác.
26.- Giới cất giữ thuốc quá 7 ngày. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, các tỳ kheo bị gió mùa thu sanh bịnh, hình thể khô táo lại mọc ghẻ dữ, Phật cho phép uống 5 loại thuốc: tô, dầu, sinh tô, mật, hạt mật. Các tỳ kheo do không được ăn phi thời, phần nhiều không ăn kịp, bịnh lại càng tăng, Thế tôn cho phép các tỳ kheo bịnh được ăn kịp thời và phi thời. Các tỳ kheo do được ăn phi thời cho nên bỏ những thức ăn béo ngon của thừa lại. Phật lại dạy cho phép các người bịnh được ăn thức ăn còn dư. Dư là từ người khác nhận rồi hoặc ăn hoặc không ăn, đến ngày kế thì gọi là dư. Khi ấy các tỳ kheo ăn tiểu thực buổi sáng, rồi vào thôn khất thực ăn đủ rồi về lại trong tăng già lam, lấy thức ăn buổi sáng cho các tỳ kheo, các tỳ kheo ăn rồi không dám ăn nữa cho nên vứt bỏ. Phật dạy nếu tỳ kheo thọ bữa ăn tiểu thực buổi sáng rồi, ai ăn xong cho phép làm pháp dư thực để ăn lại.
Cách làm phép dư thực này như sau: "Thưa đại đức, tôi đã ăn xong, ngài xem đây biết đây".
Chế giới này thật là hết sức phi pháp. Đức Phật chế giới là giúp cho người có bịnh. Thế mà sau khi hết bịnh, các tỳ kheo vẫn còn ăn phi thời, nghĩa là họ ăn 3 bữa sáng, trưa, chiều như thế gian. Đó là phá giới, làm cho tu sĩ ngày càng chạy theo dục lạc ăn uống mà không còn tu tập được nữa. Chế giới này làm cho sự ăn uống không còn tội nặng mà chỉ là tội sám hối mà thôi.
27.- Giới quá kiết hạ cần áo tắm mưa. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô độc, Tỳ Xá Vương Mẫu sai người giúp việc đến thỉnh Phật và tăng thọ thực, gặp lúc trời mưa lớn Phật cho phép các tỳ kheo tắm mưa, người giúp việc đến trong tăng già lam thấy các tỳ kheo lõa lồ tưởng là ngoại đạo liền về báo cáo với sư mẫu. Sư mẫu bảo trở lại thỉnh Phật và tăng đến nhà thí chủ. Thọ cúng xong, sư mẫu liền phát nguyện xin Phật cho phép cúng thức ăn cho các tỳ kheo mới đến, cúng thức ăn cho các tỳ kheo đi xa, cúng thuốc cho các tỳ kheo bịnh, cúng thức ăn cho người nuôi bịnh, cúng cháo cho các tỳ kheo, cung cấp áo tắm mưa. Đức Phật đều chấp nhận. Lúc bấy giờ Lục quần tỳ kheo cả ba thời xuân hạ đông thường tìm cầu áo tắm mưa đem dùng vào việc khác nên lõa hình tắm, các tỳ kheo khác bạch Phật, Phật nhân đó mà kiết giới. Người phạm giới bị tội xả đọa, ác tác.
28.- Giới quá thời chứa y cắt thứ. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại nước Tỳ Lan Nhã, an cư xong cho phép các tỳ kheo nhận y mùa hạ. Lúc bấy giờ Lục quần tỳ kheo tất cả thời xuân hạ đông thường xin y, an cư chưa xong cũng xin y, cũng nhận y.Khi ấy Bạt nan đà an cư ở trụ xứ này, rồi cũng đến trụ xứ khác an cư, cũng nhận y. Phật chế giới Người nào xin y áo như vậy bị phạm tội xả đọa, tội ác tác.
29.- Giới để rời y quá 6 đêm. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, các tỳ kheo an cư xong, còn một tháng hậu an cư, ngày 16 tháng 7 đến rằm tháng 8. A Lan Nhã là nơi có nhiều bọn cướp giật y, các tỳ kheo sợ đều đến trước nơi tịnh xá Kỳ Hoàn, Phật dạy các tỳ kheo ở chỗ A Lan Nhã có nghi ngờ và sợ sệt trong ba y mỗi y lưu trong nhà dân. Lúc bấy giờ Lục Quần tỳ kheo bèn gởi y trong nhân gian để đi du hành, Phật kêu họ quở trách rồi họp tăng kiết giới nếu rời y quá 6 đêm thì bị tội xả đọa, ác tác.
30.- Giới đem của tăng già về mình. Vì sao Phật kiết giới này. Nguyên khi xưa Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc có một cư sĩ muốn cúng Phật và tăng rất nhiều đồ trai phạn và y dược. Tỳ kheo Bạt nan đà đến nhà cư sĩ ấy nói ông nên cúng thức ăn cho tăng, còn y cho tôi. Cư sĩ thuận theo ý. Sáng hôm sau chúng tăng đến thọ thực, cư sĩ thấy các tỳ kheo oai nghi tề chỉnh đầy đủ liền nói lớn rằng tại sao chúng tăng nghiêm chỉnh thế này mà tôi không được cúng y. Các tỳ kheo hỏi biết rõ vấn đề, đức Phật nhân đó kiết giới, người nào phạm tội này bị phạm tội xả đọa và ác tác.
Như vậy 30 tội xả đọa chúng ta đã học xong.
10.- KIẾT GIỚI 90 TỘI ĐỌA
Nếu phạm vào một tội nào trong 90 tội này đều bị đọa vào địa ngục, bàng sanh, ác đạo, nhận lấy cái khổ thiêu đốt, nếu không ân cần sám hối bèn có thể trở ngại cho thiện pháp.
Chúng ta thấy bây giờ nó mới 90 tội đọa này, nếu chúng ta không có học thì chúng ta không biết. Mục đích chúng ta học không có nghĩa là chúng ta chấp nhận những giới luật ở đây đúng là của Phật đâu. Bởi vì khi giảng những giới luật này, chúng ta thấy hầu như người sau ghi thêm, chứ không đúng giới luật của Phật. Nó làm cho người chấp nhận giới phạm những dục lạc của thế gian, chạy theo dục lạc của thế gian. Chế ra cho rộng rải để tỳ kheo đắm đuối chạy theo dục lạc, các cám dỗ của các pháp thế gian như y áo, đồ ăn, đồ uống... Tất cả các cái này đều do người sau chế ra. Thầy không có thời gian để có thể soạn lại những giới này, để biết giới nào của Phật, và gạt ra các giới do người sau chế ra. Giới luật của Phật vốn giúp chúng ta đạt được kết quả giải thoát chứ không phải là pháp luật, không phải là điều lệ bắt buộc, trói buộc chúng ta khô khan, để rồi sau đó lại cho rộng rải hưởng từng giọt dục lạc của thế gian.
Chúng ta thấy quá rõ những giới luật mà trong giới bổn gọi là của Phật thì hầu như chế đi chế lại, bắt đầu thì không cho chúng ta thọ hưởng dục lạc thế gian, sau đó chế lại để nhỏ từng giọt dục lạc thế gian để cho chúng ta thọ hưởng dục lạc đó. Như vậy có phải thấy giới đó không làm cho chúng ta hưởng được dục lạc để rồi chế rộng ra một chút, nhỏ từng giọt dục lạc để thọ hưởng. Chế giới luật nhấp nhem kiểu đó làm cho mấy ông tu sĩ càng thèm khát thêm nữa. Cho nên khi đọc giới luật thấy các ông giới sư làm việc sai trái, làm cho con đường của Phật bị lệch lạc đi, nghĩa là dục lạc của thế gian đem đến cho ta cái khổ thế mà còn nhấp nhem. Cứ như voi không cho ăn no, chỉ cho ăn đói, rồi lát cho một nắm cỏ, lát lại cho một nắm cỏ. Chế giới mà rộng rải kiểu đó có phải là làm chết các ông sư hết không. Chúng ta phải hiểu tâm lí của con người, dứt thì dứt cho tuyệt mà không dứt thì thôi, chứ đừng có làm kiểu đó, làm vậy chỉ làm thêm khổ cho người khác. Hầu hết những người phạm giới là vì giới mà nhấp nhem kiểu đó rồi lén làm tầm bậy. Cho nên có người tu hành tuổi đạo tới 50, 60 hạ lạp thế mà còn cỏng một bà vợ, thì thử hỏi có phải là do giới luật nhấp nhem không. Đó là cái sai của giới luật đã làm cho người tu không giữ tròn phạm hạnh. Đáng tiếc là Thầy không rảnh để soạn lại giới bổn, để làm cho đúng con đường của người tu sĩ khép mình vào khuôn khổ để đi đến sự giải thoát hoàn toàn li dục li ác pháp. Đọc giới luật Thầy thấy thiệt là bày đặt đủ cách đủ kiểu, có một ông tỳ kheo mà cứ phạm giới luật hoài; lẻ ra chỉ phạm một lần là đã hoãn hồn vía, có đâu mà chỉ một mình ông đó cứ phạm giới hoài hoài. Thầy thấy đó chỉ là đặt bày ra chứ làm gì có. Chỉ một lần phạm giới là đã bị tẩn xuất khỏi tu viện rồi, có đâu mà phạm hoài được. Đó là cái sai của giới bổn. Bây giờ học giới bổn.
1.- Giới cố nói dối. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở nước Thích Chí Hậu Ca Di La Vệ, trong vườn Thi Câu Loại, có tỳ kheo dòng họ Thích tên là Tượng Lực có tài đàm luận; mỗi khi cùng với ngoại đạo Phạm chí đàm luận, Tượng Lực nếu bị yếu lí bèn nói nghịch lại với lời nói trước của mình. Trong chúng tăng khi hỏi đến cũng nói ngược lại như vậy, trong chúng biết mà vẫn nói không thật. Phạm chí chê hiềm. Phật nhân đó mà chế giới.
Thật sự ra Thầy thấy chuyện này cũng là bịa đặt mà thôi, người đã tu hành phạm hạnh, Phật đã cấm không cho tranh luận với người khác, thế mà ở trong tu viện lại để ngoại đạo vô đó rồi tỳ kheo ngồi tranh luận với họ đến đuối lí. Phật pháp có chỗ nào đuối lí đâu. Từ khi Thầy xét kinh điển của Phật, không có một ngoại đạo nào đến cật vấn được với Phật hết. Khi nào câu hỏi không đúng thì Phật từ chối không nói, câu hỏi đó ngoài vấn đề. Nói trong vấn đề là có đem lại sự giải thoát cho con người thì đức Phật trả lời, còn ngoài vấn đề đó thì đức Phật không trả lời, có đâu mà lí luận, mà lại nói vị tỳ kheo này lí luận với ngoại đạo đến đuối lí. Thật ra vị tỳ kheo đệ tử của Phật đâu có lí luận với thiên hạ đâu.
2.- Giới nói lời chê bai. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, Lục quần tỳ kheo quán tánh dùng chủng loại mắng tỳ kheo, tỳ kheo xấu hỗ quên trước quên sau không nói được. Các Tỳ kheo khác bạch Phật, Phật nhân đó mà chế giới cấm không cho chê bai người khác.
Như quý thầy thấy có lục quần tỳ kheo mà Thầy thấy hầu hết các giới luật của Phật cứ lôi lục quần tỳ kheo phạm cái này phạm cái kia. Theo Thầy nghĩ ngày xưa đức Phật thấy mấy ông này phạm một hai lần là đuổi ra khỏi tăng đoàn, chứ có đâu để trong giáo đoàn như vậy. Chế bao nhiêu giới rồi cũng lôi mấy ông này ra, như vậy các pháp yết ma đặt ra làm gì. Thập đại đệ tử của đức Phật không còn ai sao. Đó là những cái bịa ra không đúng cách, ít ra cũng phải có người này người kia phạm chứ sao chỉ có một đám lục quần tỳ kheo thôi. Người ta nói đó là bồ tát thị hiện thiện hạnh để chế giới. Trong 13 năm đầu, đệ tử không phạm giới thì bây giờ bày đặt ra đám này để chế giới mà làm gì. Cho dù khi đức Phật nhập diệt đi nữa, khỏi cần chế giới, cứ ngay kinh điển của Phật, lời Phật dạy, các pháp của Phật mà tu thì đó là giới luật chứ còn gì nữa, đâu cần gì phải chế ra giới bổn này đâu. Tất cả những cái này là cái sai của người sau không hiểu được giáo pháp của Phật mới chế ra cái này cái kia.
Khi Thầy thuyết giảng về ông Upali, người ta nói khi ông Upali đọc bộ kinh giới đầu tiên thì người ta chỉ nghe mà không ghi chép, cho nên bây giờ không còn có bộ giới đó nữa. Vì vậy mà sau này khi chia làm 20 bộ phái thì có 20 bộ luật riêng của từng bộ phái này, sau đó người ta thấy có những bộ luật giống nhau nên bỏ bớt chỉ còn giữ lại 5, 6 bộ luật thôi. Đó là sự bịa đặt của họ chứ không lí nào ông Ca Diếp là một thượng thủ mà Thầy đã nhắc lại trong đức giới cho các con thấy rõ ràng không minh như vậy sao. Phật đã chết rồi thì còn ai mà dám đặt thêm giới hay bớt giới nữa, cho nên chúng ta phải ghi lại những gì mà Phật đã dạy, lí đâu mà có thể sai cái đó được. Chỉ có đem bộ kinh giới đầu tiên đó đốt đi rồi mới tự chế ra giới để chạy theo dục lạc, cho nên mới nói hồi đó ông Ca Diếp kết tập không có ghi chép cho nên bộ kinh giới không có. Có phải đó là nói láo không? Ở đây Phật chế giới không được chê bai người, Thầy thấy rất đúng.
3.- Giới nói lưỡi đôi chiều. Trong giới kinh thì Phật cũng đã dạy cái này rồi, nên ở đây lấy ra cái này thì đúng chứ không sai đâu. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, bấy giờ lục quần tỳ kheo truyền lời nói của đôi bên khiến cho trong chúng chưa có đấu tranh thì sinh ra đấu tranh, đã có đấu tranh thì không chấm dứt được sự đấu tranh. Nhơn đó Phật mới kiết giới không được nói lưỡi đôi chiều này (theo bên nay nói bên kia, theo bên kia nói bên nay để cho người ta giận hờn, đấu tranh nhau). Phật chế như vậy là đúng, nhưng ở đây lấy câu chuyện là lục quần tỳ kheo mà xấu như vậy thì đuổi hết thì còn đâu mà nói chuyện.
4.- Giới cùng phụ nữ đồng nhà mà ngủ. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, tôn giả Anuruddha trên đường đi tại nước Câu Tát La, nơi không có trú xứ của tỳ kheo, ngủ nhờ nhà của dâm nữ, đầu đêm cuối đêm dâm nữ đều tha thiết yêu cầu được làm vợ. Tôn giả không trả lời cũng chẳng ngó đến cô ta. Cô ta bèn thoát y nắm lấy tôn giả, tôn giả bổng hiện người lên hư không, dâm nữ xấu hổ hướng lên hư không 3 lần lạy xin sám hối, tôn giả nói diệu pháp, cô đắc nhãn tịnh và cầu thọ giới ưu bà di. Tôn giả nhận được cơm do cô cúng dường rồi về già lam kể lại chuyện ấy. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn chuyện đó mà kiết giới này.
Ở đây thuật lại câu chuyện thật ra không đúng, một vị thánh tăng mà đi vô nhà dâm nữ. Phải nói dâm nữ là người ở trong lầu xanh hay lầu hồng gì đó, nơi bán dâm không phải chỉ có một bà này đâu. Bởi vì là dâm nữ thì cái nhà của bà phải là chỗ bán dâm, thế mà ông tu sĩ lại dám vô trong nhà nay xin ngủ đêm thì Thầy thấy thà ngủ rừng ngủ bụi chứ ai lại vô nhà đó xin ngủ. Họ đặt những chuyện không có. Một vị tu hành thanh tịnh rồi thì biết chỗ nào nên ngủ chỗ nào không nên, nhất là đây là ông Anuruddha chứ không phải là vị thường. Anuruddha là vị có thiên nhãn thuần tịnh siêu nhiên chứ không phải là một vị tầm thường. Ông là đệ nhất thiên nhãn mà đức Phật đã từng ca ngợi thế mà ông không đủ trí tuệ để đến nhà dâm nữ xin ngủ qua đêm, để rồi cô ta thương mà ông Anruddha phải thể hiện thần thông trên hư không như vậy thì điều đó hoàn toàn là không thể có được. Như Thầy chỉ là một tu sĩ phàm phu thôi mà nói chỗ đó là chỗ bán dâm ô uế thì chắc chắn là Thầy không đến đó đâu nhuw vậy làm gì ông Anuruddha vào đó. Người ta còn đổ thừa tại có duyên ông Anuruddha độ cho bà đó. Đó là cái sai nữa. Nếu là có nhân duyên độ cho bà ta thì bà ta phải tự đến chứ không phải đợi ông Anuruddha đến với bà ta. Các thầy thử nghĩ sao nếu cư sĩ thấy có ông thầy chùa vào nơi bán dâm đó, cư sĩ đâu phải là thánh nhân, chính hành động mình vô đó làm bao nhiêu người phỉ báng Phật pháp. Đó là cái lầm lạc của người đặt ra kinh giới đã dìm phạm hạnh của Phật giáo xuống đất đen. Giới luật mà viết như vậy có phải là phản lại giới luật không, giới cho tỳ kheo mà viết như vậy có phải là sai không.
5.- Giới với người chưa thọ đại giới cùng ngủ. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở thành Khán Giả, lục quần tỳ kheo cùng với trưởng giả ngủ chung tại nhà giảng, có một vị trong lục quần loạn ý ngủ mê trở mình lộ hình, trưởng giả chê hiềm. Đức Phật nhân đó mà kiết giới.
Tại sao chúng ta ngủ riêng một mình, đức Phật không cho ngủ chung, vì thứ nhất, ngủ chung sẽ sanh ra đồng tính luyến ái; thứ hai là ngủ chung sanh ra những tình cảm bậy bạ không tốt, thứ ba là ngủ riêng lở có hở hang thân mình không ai thấy.
Sau đó vì Rahula chưa thọ đại giới nên các thầy tỳ kheo đuổi ra ngoài ngủ ở nhà tắm cầu xí, đức Phật biết, nói các thầy tỳ kheo không có lòng từ nên mới đuổi con nít như thế, đã là con Phật mà không bảo vệ được như ý của Phật. Từ nay về sau cho phép tỳ kheo cùng với người chưa thọ đại giới ngủ đêm, đến đêm thứ ba khi mặt trời mọc thì phải đi tránh, không được ở lại đêm thứ tư, hoặc tự mình hoặc bảo người thọ đại giới đi không được ở lại.
Thầy thấy chế giới này không đúng. Nhiều khi một vị tỳ kheo mà ngủ chung với một chú sa di nhỏ tự nhiên tình cha con thực hiện qua tình cảm. Nó khó lắm chứ không phải dễ đâu, từ đó thương chú sa di đó không xa lìa, cứ quấn quít như vậy làm sao li dục li ác pháp được. Cho nên nhiều khi tuy vấn đề nhỏ nhưng trở thành lớn là con đường tu không giải thoát được. Thật sự Rahula vẩn có một thất riêng cho chú ở, mặc dù còn sa di, tỳ kheo vảng lai không được quyền đuổi chú ra. Còn mình ỷ là tỳ kheo rồi đến đuổi người ta, cho nên Phật chế giới cấm. Tỳ kheo hay sa di cũng đều là con người, mà sa di là mầm non tương lai của Phật giáo, của giáo đoàn tăng già sau này không lí nào một vị tỳ kheo lại đuổi chú sa di này. Mình lớn rồi, không có nhà thì ngủ rừng ngủ bụi cớ sao lại đuổi chú nhỏ sa di ra khỏi thất cho mình ngủ, có phải là phàm phu không. Giới luật đặt ra như vậy cho chúng ta thấy các vị tỳ kheo này toàn là phàm phu, chưa phải là những bậc tu giải thoát. Đặt giới luật mà đưa ra những câu chuyện quá tầm thường, quá phàm phu tục tử.
6.- Giới cùng với người chưa thọ cụ túc tụng kinh. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở thành Khán Giả, lục quần tỳ kheo cùng với trưởng giả cùng đọc lời của Phật tại giảng đường, như Bà la môn đọc sách không khác, làm loạn tâm các vị ngồi thiền ở gần một bên. Đức Phật nhơn đó mà kiết giới.
Ở đây, qua bài này chúng ta thấy cái sai là ở thời đức Phật không có kinh điển, nghĩa là Phật dạy tu thôi, không chép không ghi gì hết, do đó làm sao có những bản kinh để lục quần tỳ kheo ngồi tụng kinh với các trưởng gỉa làm động người tu thiền. Thầy đọc trong kinh Phật thì các vị thánh tăng, thánh ni thường đi kinh hành, rồi ngồi thiền đặt niệm trước mặt phá những tham ưu ở trong thân tâm của mình chứ đâu có tụng niệm. Thế mà ở đây lại đem tụng niệm, tức là người viết giới luật này phải ở trong đời của chúng ta, nghĩa là trong thời chúng ta mới có kinh sách, mới có tụng niệm. Họ lầm tưởng trong thời đức Phật cũng có tụng niệm. Theo Thầy biết trong thời đức Phật không có tụng niệm, cho nên 4 chỗ Phật gọi là niệm, tức là Tứ Niệm Xứ, lấy thân niệm Phật đâu phải là Ứng cúng, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sỉ, Điều ngự trương phu, Thiên nhân chi sư, Phật, Thế tôn. Đâu có đọc được như vậy, lấy cái thân mà đọc thì đâu có đọc như vậy được, lấy cái miệng mà đọc, lấy cái ý mà đọc thì có thể được. Nhưng Phật đâu có nói cái ý niệm Phật mà Phật nói thân, thọ, tâm, pháp niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng. Như vậy là chúng ta mới thấy tu Tứ bất hoại tịnh, chúng ta mới thấy rõ Phật dạy chúng ta không có miệng niệm, không phải là ý niệm, mà là Thân niệm, mà là Thọ niệm, mà là Tâm niệm, mà là Pháp niệm, nghĩa là 4 chỗ để chúng ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, như vậy mới đúng đường lối đạo Phật. Đằng này lại tụng kinh bằng miệng, mà kinh không có thì lấy gì tụng, như vậy có phải là đặt giới tầm bậy không? Trong thời của chúng ta có kinh thì đặt giới như vậy là đúng, chứ thời đức Phật đâu có kinh mãi đến khi ông Ca Diếp kết tập kinh mới có kinh, như vậy không lẻ lấy kinh Vệ Đà đọc tụng sao.
7.- Giới đến người chưa thọ cụ túc nói tội thô. Vì sao Phật kiết giới này. Xưa khi Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật có tỳ kheo Hàng Ma Na Đỏa ngồi nơi ghế ở hàng dưới, lục quần nói với bạch y (cư sĩ) là các vị ấy phạm tội thô ác. Tỳ kheo kia và các vị khác nghe đều xấu hổ. Đức Phật quở lục quần tỳ kheo rồi kiết giới này. Khi ấy có tỳ kheo không biết mắc tội thô ác, sau mới biết, tác pháp ba dật đề. Phật dạy không biết thì không phạm. Tôn giả Sariputta được tăng sai đến vua và nhân dân nói tội của Đề Bà Đạt Đa, nghe Phật kiết giới này, tâm sanh sợ sệt. Phật dạy tăng sai thì không phạm, do đó Ngài kiết giới lại, thêm câu: Trừ tăng yết ma cho nói. Tội thô ác là Ba la di và Tăng tàng. Nghĩa là người được Phật sai hay được tăng sai mà đến chỉ lổi thì không có tội, còn người không được Phật sai hay tăng sai thì không được chỉ lổi.
Đây cũng là một điều kiện của giới luật đặt ra để bịt miệng của người ta. Thầy thấy vấn đề này là vấn đề của người sau đặt ra. Bởi lục quần tỳ kheo nói tỳ kheo Ma Na phạm tội này phạm tội kia là nói xấu người khác, là tại sao vậy? Vì có sự ganh tỵ qua phạm hạnh của người ta mới nói như vậy mà khi Phật xét thì vị đó không có tội, còn nếu vị đó có tội thì nghe người ta nói để cho người phạm tội sửa chứ không phải đem nói cho bạch y biết để bạch y cười vị đó. Chẳng hạn trong chúng của chúng ta có người phạm lổi sống độc cư không được mà quí thầy đem ra nói cho các cư sĩ biết vị đó ở trong tu viện không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh, để cư sĩ cười chê. Thì cái đó là nói xấu người ta, không tốt. Còn nếu quý thầy đến nói với vị phạm lổi biết rằng thầy phương trượng buồn lắm, không dạy cho thầy tu đâu, cho nên thầy phải cố gắng giữ đừng phạm giới. Đó là lời nói tốt để người đó sửa lổi.
Bọn lục quần tỳ kheo này lúc nào cũng xuất hiện trong bài kinh giới hết. Rõ ràng là bịa đặt ra chứ sao không chịu đuổi bọn này đi.
8.- Giới đến người chưa thọ đại giới nói pháp tự chứng. Vì sao Phật kiết giới này. Xưa khi Phật ở bên sông Chư Hầu tập họp các tỳ kheo trong vườn Bạc Câu để quở trách rồi kiết giới này. Trường hợp nào mà điều 4 của Ba la di là phạm tội khí thì ở đây là phạm tội đọa; trường hợp nào mà điều 4 của ba la di phạm tội thâu lan giá (thullaccaya) hoặc tội đột kiết la thì ở đây phạm tội đột cát la, Vì đây là hành vi thuộc ngữ nghiệp nên cần hội đủ 5 yếu tố như điều 1 ba la di và điều 4 ba la di mới thành tội. 5 điều là
1/ người nói là tỳ kheo chưa mất bản thể,
2/ người khởi tâm vọng cố nói xấu người,
3/ nói rõ ràng và thân khẩu hiện tướng nói dối rõ ràng,
4/ người nghe lãnh hội,
5/ có người đối tượng chớ không phải có một mình.
nghĩa là mình nói xấu người đó có người chứng, có người nghe đàng hoàng thì có tội. Tội ba la di. Còn nếu không có người chứng, không có ai nghe mình nói xấu người đó thì mình không mắc tội.
9.- Giới cùng phụ nữ nói pháp quá lời. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, Ông Kaludayi đến nhà trưởng giả khất thực cùng với đàn bà nói pháp giọng nhỏ giọng to, bà mẹ chồng thấy vậy chê hiềm, đến cho Phật hay, Phật nhơn đó kiết giới cấm tỳ kheo không được thuyết pháp cho người nữ. Sau có người nữ mời thuyết pháp, các tỳ kheo cẩn thận sợ phạm giới cho nên không dám thuyết pháp, vì vậy mà Phật chế giới cho tỳ kheo thuyết pháp 5, 6 lời. Nhưng có tỳ kheo cẩn thận không thuyết pháp với nữ nhân nếu không có nam nhân cùng tham dự. Phật kiết thêm trừ khi nam tử cho phép. Sau đó có người nữ cầu xin pháp thọ 5 giới, 8 giới, Bát Chánh Đạo, nói 10 thiện pháp cầu giải thích nghĩa. Vì không có tư nam tử, các thầy tỳ kheo cũng cẩn thận nên không dám nói. Phật dạy không có nam tử, điều không vì người nữ mà trao giới cho đến giải nghĩa,... nhơn đó Phật kiết giới.
10.- Giới đào đất. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở thành Khán Giả, lục quần tỳ kheo tu bổ nhà giảng của Phật, tự tay đào đất chung quanh, trưởng giả chê hiềm nói Thích tử mà còn đoạn mạng căn của chúng sanh. Phật nhơn đó kiết giới. Các vị ấy lại sai người đào chỗ này chỗ kia, cư sĩ cũng chê hiềm, nên đức Phật chế giới lại.
Thật sự Phật không cho tỳ kheo hay sa di đào đất.
11.- Giới phá hoại chỗ của quỷ thần. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại thành Khán Giả, có tỳ kheo tu bổ phòng xá, cố ý tự mình chặt cây, đức Phật vì đó mà kiết giới này. Nếu có đại sự, chẳng phải cố ý phá hoại, thì không phạm.
Thật sự cây cũng không nên chặt, nói chung, Phật không cho tỳ kheo làm gì hết, chỉ khất thực ăn no rồi tu tập kinh hành, chánh niệm tỉnh thức, định vô lậu, định sáng suốt, liên tục dùng định niệm hơi thở, định an lạc trú...
12.- Giới nói lời pháp làm não người. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại nước Câu Diệm Chi, Diễn Đà phạm tội, các thầy tỳ kheo hỏi "Thầy có tự biết phạm tội hay không". Diễn Đà nói quanh nói "Các Thầy nói vấn đề gì, luận bàn vấn đề gì, vì tôi mà nói hay vì ai mà nói, ai phạm tội, tôi do đâu mà sanh, tội do đâu mà sanh, tôi không thấy có tội (trong Thiền tông nói "Tánh tội vốn không do tâm tạo, tâm đã diệt rồi tội liền không") Các thầy tỳ kheo mới bạch Phật. Phật bảo tăng vì các hư ngữ, bạch yết ma: "Đại đức xin lắng nghe. Diễn Đà tỳ kheo này phạm tội, các thầy tỳ kheo hỏi tôi không thấy tội, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận sẽ gọi tỳ kheo Diễn Đà là người phát cách hư ngữ. Đây là lời tác bạch rồi kiết giới nếu tỳ kheo nói quanh phạm tội ba dật đề, tăng đã chế cấm không được nói quanh, sao Diễn Đề lại sách não chúng tăng kêu đến không đến, không kêu lại đến, nên đứng dậy lại không đứng dậy, không nên đứng dậy lại đứng dậy, nên nói thì không nói, không nên nói lại nói. Đức Phật bảo chúng tăng tác pháp thích não yết ma đại đức tăng lắng nghe tỳ kheo Diễn Đà này thích não chúng tăng kêu đến không đến, nếu thời gian thích hợp đối với tăng, tăng chấp thuận chấp chế tỳ kheo Diễn Đà pháp thích não".Đây là lời tác bạch 12 việc kết thành văn giới này.
Đó là người hay lí luận trườn uốn như vậy thì chúng ta nên mời họ ra khỏi tu viện, chứ không để họ làm như vậy được, coi như là tội thuộc ba la di trục xuất họ khỏi tăng đoàn.
13.- Giới hiềm mắng người. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật, bấy giờ Đạp Ba Na La Cử vì chúng tăng chia ngọa cụ mời tăng theo thứ tự thọ thỉnh. Từ Địa liền ở chỗ mắt thấy tai không nghe chê hiềm Đạp Bà Cử có ái, có sân, có sợ, có si. Các tỳ kheo bạch Phật chế giới sao ở chỗ tai nghe mắt thấy có ái. Phật duyệt lại hai việc kết thành giới này, nghĩa là ghét người khác rồi tìm cách mắng chửi người đó bằng cách này hay cách khác thì đức Phật kết tội người mắng chửi này trọng tội để họ phải sám hối hoặc là tội đọa địa ngục và đọa địa ngục nghĩa là họ không còn ở trong tăng đoàn tức trục xuất khỏi tăng đoàn.
14.- Giới trải tọa cụ của tăng không tự cấp. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ có hai trưởng giả mời, thập thất quần tỳ kheo lấy tọa cụ của tăng trải nơi kinh thành, đến khi đi không dọn cất, tọa cụ bị đất bụi cùng chim cắn hư ô uế không sạch. Các tỳ kheo bạch Phật, nhơn đó Phật chế giới này. Nghĩa là lấy tọa cụ trải trong khi ngồi thiền, có lẻ trong vườn của vua, đến chừng đi thì không dọn cất, không trả lại chỗ đã mượn. Cũng vì vậy mà Phật chế giới trải tọa cụ không tự cất mà bỏ đi, để y nguyên tại chỗ không chịu dọn dẹp.
15.- Giới trong phòng tăng, trải ngọa cụ không cất. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, có khách tỳ kheo nói với vị trụ trú rằng tôi xin trải ngọa cụ ở tăng tại bên phòng của tăng để ngủ. Sau đó không nói với chủ bèn bỏ đi. Ngọa cụ bị kiến cắn hư. Phật nhơn đó mà kiết giới này.
Hành động đó là hành động thiếu tinh tấn. Ở đây chế giới cho họ siêng năng thôi.
16.- Giới cưởng đoạt chỗ ngủ nghỉ. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, Lục quần cùng với thập thất quần tỳ kheo trên đường đi tại nước Câu Tát La, đến thôn không có trú xứ của tỳ kheo, thập thất quần nói với lục quần tỳ kheo: Các ngài là bề trên của chúng tôi nên tìm chỗ để nghỉ trước. Lục quần tỳ kheo trả lời các ông tự đi tìm chỗ cho mình chứ chúng tôi không tìm chỗ nghỉ làm gì. Khi ấy thập thất tìm chỗ để nghỉ rồi lục quần đến sau cưởng bức trải ngọa cụ chính giữa mà nằm. Phật do đó mà kiết giới.
Sao lại trong tăng đoàn của Phật mà có những chuyện quá phi lí này. Một người tu theo đạo Phật phải có 4 tâm vô lượng từ bi hỉ xả. Mới vô là đã được luyện tập hạnh chánh niệm tỉnh thức rồi, làm sao lại có những cái sai trái như vầy, thật chẳng hiểu nổi. Mấy ông chế giới bổn này không hiểu Phật pháp cho nên họ nói chỉ chờ khi trở thành bồ tát mới tu tập tứ vô lượng tâm. Cái đó không đúng. Ngay từ lúc đầu chúng ta đã luyện tập tâm từ để phá tâm sân. Nếu không có tâm từ thì làm sao đối trị tâm sân của chúng ta. Hơn nữa người tu đã bỏ hết gia đình tài sản mà lại đi giành chỗ nằm trong nhà mồ nghĩa trang là sao. Giới kinh của Phật dạy ta tu hành, đâu còn tâm bỉ thử, đâu còn tâm tham kiểu này.
17.- Giới đuổi tỳ kheo khỏi phòng. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, thập thất quần vào trong chùa trải ngọa cụ ngủ rồi, lục quần đến sau lôi kéo ra ngoài phòng, Phật nhơn đó mà kiết giới này.
Người tu sĩ mà làm hơn ngoài đời, lục quần tỳ kheo là bọn cướp dựt, không đúng tu sĩ của đạo Phật.
18.- Giới ngồi trên tầng gác ngồi trên giường sút chân. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, có tỳ kheo ở trên lầu gác, ngồi giường chân bị sổ ngồi không vững. chân rớt xuống trúng tỳ kheo ngồi tầng dưới bị chảy máu. Phật quở trách rồi kiết giới.
Làm sao thời Phật có kiểu giường hai tầng theo mô tả trong giới này?.
19.- Giới dùng nước có trùng tưới lên bùn cỏ. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại nước Câu Diệm Di, tỳ kheo Diễn Đà cất nhà lớn, dùng nước có trùng trộn hồ và bảo người trộn. Phật nhơn đó mà kiết giới này. Khi có thầy tỳ kheo không biết có trùng, sau mới biết nên tác pháp sám hối. Phật dạy không biết không phạm và Phật kiết giới này lại: Nếu biết có trùng mà dùng tưới lên bùn cỏ phạm ba dật đề.
Thật sự ra thì dù vô tình vẫn bị nhân quả cho nên phải có ý tứ trong việc làm bất kỳ nào để tránh sát hại chúng sanh. Phải có chánh niệm tỉnh giác trong việc làm, không thế nói vô ý được.
20.- Giới lợp nhà quá 3 lớp. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại nước Câu Diệm Di, tỳ kheo Diễn Đà cất tịnh xá lớn, tranh dư lợp hai ba lớp, nhà sập xuống, cư sĩ chê hiềm. Phật nhơn đó kiết giới. Tu sĩ gì mà ngu quá.
21.- Giới tự ý dạy bảo ni. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, bà Đại Ái Đạo tỳ kheo ni thỉnh cầu Phật cho phép các tỳ kheo vì ni mà giáo giới thuyết pháp. Đức Phật bảo ông Ananda theo thứ tự mời các vị thượng tọa đến giáo giới cho các ni. Khi ấy theo thứ tự nên mời tôn giả Bàn Đà đến dạy, song tôn giả chỉ thuộc một bài kệ nên đến nơi ba phen chỉ nói một bài kệ, mỗi lần nói xong liền vào đệ tứ thiền, các La hán ni đều rất hoan hỉ, còn lục quần ni thì giởn cợt chê bai, tôn giả liền thăng lên hư không hiện ra các thần thông biến hóa nói pháp mà đi. Khi ấy lục quần tỳ kheo tự tiện đến giáo hóa nói bao nhiêu chuyện khác, không nói chánh pháp, chỉ nói các chuyện thế tục, lục quần ni rất hoan hỉ. Bà Đại Ái Đạo đến bạch Phật, Ngài bảo từ nay về sau tăng phải bạch nhị yết ma sai người đến giáo thọ ni. Lúc ấy lục quần tỳ kheo bèn ra ngoài giới cùng nhau sai đến, các tỳ kheo bạch Phật. Phật dạy tỳ kheo nào thành tựu 10 pháp sau mới được giáo thọ tỳ kheo ni, nhơn đó Phật kiết giới này.
Ngài Bàn Đà không đến thuyết giảng nữa cho nên lục quần tỳ kheo có dịp để đến thuyết giảng cho ni chúng. Không hiểu ông Ananda ở đâu và ông Bàn Đà không nói lại với ông Ananda biết việc của mình sao, rồi lục quần tỳ kheo làm vậy mà ông Ananda không biết sao. Thật là vô lí, và không đúng giới luật là giúp cho chúng ta li dục li ác pháp, để đi thẳng vào con đường giải thoát của đạo Phật.
Đây là 10 pháp:
1/ Giới luật đầy đủ.
2/ Học rộng hiểu nhiều.
3/ Thông suốt hai bộ kinh (hai bộ giới tăng và ni).
4/ Quyết đoán, không nghi ngờ.
5/ Thuyết pháp khéo léo
6/ Xuất thân từ chủng tộc cao.
7/ Dung mạo đoan trang, thấy liền hoan hỉ.
8/ Có khả năng thuyết pháp khiến ni hoan hỉ.
9/ Không vì Phật xuất gia mặc sắc phục mà phá các trọng tránh.
10/ Đã đủ 20 hạ trở lên.
22.- Giới dạy bảo ni đến chiều tối. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, khi ấy tôn giả Nanda được tăng sai giáo thọ ni chúng. Tôn giả âm thanh tốt, nói pháp người nghe ưa thích nên đến mặt trời lặn, cửa thành đã đóng, ni chúng phải ngủ đêm ngoài thành, sáng vào trước mọi người, các trưởng giả thấy, chê hiềm, phỉ báng ni chúng cùng tỳ kheo ngủ đêm. Nhơn đó Phật kiết giới này.
Câu chuyện đặt ra cho thấy ngày xưa tổ chức bên nữ thì các tịnh xá hay tu viện ni đều ở trong thành, còn tăng thì ở ngoài thành, ở trong khu rừng nào đó. Câu chuyện cũng cho thấy giảng sư không biết giờ đóng cửa, mở cửa thành. Lẻ ra giảng sư phải biết các việc này để chấm dứt buổi thuyết pháp cho các ni về trước khi cửa thành đóng. Như vậy làm sao xẩy ra việc này được.
Trừ dạy tụng kinh không phạm ác tác.
Thật là bày đặt hết chỗ nói, nghe pháp hay hơn là chỗ tụng kinh chứ. Đặt giới như vầy đã không có nghĩa rồi.
23.- Giới chê bàn tỳ kheo khác dạy bảo ni. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, khi các tỳ kheo ni nghe thầy giáo thọ đến nên ra nửa do tuần đón rước, phòng xá thoái mái, thức ăn chỗ ngồi tốt, chỗ tắm rửa khang trang. Lục quần tỳ kheo không được tăng sai, sanh lòng tật đố, nói các thầy tỳ kheo không chơn thật, chỉ vì ăn uống nên mới giáo thọ ni chúng. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó mà kiết giới này.
Một vị tăng đến thuyết giảng cho ni thì sự tiếp đón của họ phải công nhận là tươm tất về phòng xá giảng dạy, thức ăn, chỗ ngồi tốt.
Thế mà ở đây nói chuẩn bị cả phòng tắm rửa khang trang. Nhưng vị tăng không thể vô phòng tắm rửa của ni. Một vị tăng giới luật thanh tịnh thì không bao giờ vào phòng tắm của người nữ, họ biết chỗ nào tịnh hay bất tịnh. Ông viết giới sao không thấy chỗ này, viết như vậy là không thấy chỗ li dục li ác pháp.
24.- Giới cho y tỳ kheo ni không phải là bà con. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc. Trong thành có một tỳ kheo khất thực oai nghi đầy đủ. Khi ấy có một cô ni thường xin được nhiều thức ăn, thấy vị tỳ kheo đó và cho vị đó thức ăn nhưng vị tỳ kheo không nhận.
Trong thời đức Phật có câu chuyện của bà Liên Hoa Sắc tỳ kheo ni thế này: bà đi khất thực trong khu vực bị hạn hán đói khổ được một ít thực phẩm rồi có vị tỳ kheo chờ bà trên đường trở về chận bà lại và bảo bà trút hết thực phẩm đã xin được vào bát của mình. Theo đúng luật Bát Kỉnh bà phải làm như vậy; làm cho bà nhiều ngày không ăn được gì nên ngất xỉu. Có vị trưởng giả đem bà về cho ăn và hỏi tự sự, biết được vậy, vị trưởng giả trình Phật. Phật mới chế giới này.
25.- Giới may y cho ni không phải bà con. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, bấy giờ có cô ni may đại y đem đến dâng chùa, Kaludayi nhận y và thêu thêm hình nam nữ hành dâm. Khi cô ni đến nhận y thì Kaludayi dặn không được tự tiện mở y ra xem cho đến giờ đi khất thực mới được mặc theo chúng ni đi khất thực. Cư sĩ thấy hình thêu vỗ tay cười. Các ni bạch tỳ kheo, tỳ kheo bạch Phật, Phật chế giới nếu tỳ kheo may y cho tỳ kheo ni thì phạm ba-dật-đề.
26.- Giới cùng với ni ngồi chỗ khuất. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, Kaludayi cửa ngoài của Thâu-nan-đà, cùng ngồi một chỗ với tỳ kheo ni Nanda, cư sĩ chê hiềm, các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó kiết giới này. Không phạm nếu có người biết, không vui không phạm, bị thế lực lôi kéo.
Ở đây Phật chế người tu sĩ cùng ngồi với người ni ở chỗ khuất thì bị phạm. Đúng vậy, chỉ trừ khi có người thứ 3, thứ 4.
27.- Giới hẹn với ni cùng đi một đường. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại nước Xá Vệ, lục quần tỳ kheo với cùng lục quần ni du hành trong nhân gian, cư sĩ chê hiềm. Nhơn đó Phật chế giới. Sau khi ấy tỳ kheo không hẹn mà trên đường đi gặp ni, cẩn thận nên không dám đi. Phật dạy không hẹn thì không phạm. Ngài kiết giới này thêm "cùng hẹn". Khi ấy tăng ni hai chúng cùng muốn đến nước Tỳ-Xá-Li, do không cùng đi, các ni phải đi sau nên bị giặc cướp. Đức Phật lại kiết giới thêm "trừ trường hợp đặc biệt"
Thật sự khi muốn đi trên đường vắng như vậy, không phải là ni không có lực lượng của nó. Do đó trong giới này Phật cấm "cùng đi" là đúng.
28.- Giới ni khen ngợi được thức ăn ngon. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ trong thành có một cư sĩ mời ngài Sariputta và Moggallana dùng cơm. Thâu-lan-đà ni đến trước nhà kia nói rằng hai tôn giả là người hà tiện lắm, khen Đề-Bà-Đạt-Đa là một loại rồng lớn. Khi đang nói thì hai tôn giả đến, cô ta liền đổi lại nói là bậc rồng trong loài rồng đã đến. Hai tôn giả thọ trai rồi về bạch Phật. Phật quở trách Đề-Bà-Đạt-Đa cho ni đi khuyến hóa để được ăn, nhơn đó kiết giới. Sau đó có tỳ kheo trước không biết là do ni khuyến hóa, ăn rồi cầu sám hối. Phật dạy không biết thì không phạm. Lúc ấy trong thành La-Phiệt có một trưởng giả là bạn thân của tôn giả Lê-Chi-Đạt nghĩ rằng nếu Lê-Chi-Đạt đến, ta sẽ vì tôn giả từ đầu đến cuối cúng dường cho chúng tăng. Một cô ni biết việc đó nên thấy tôn giả đến thành liền báo cho trưởng giả hay để sắm phẩm vật cúng dường. Tôn giả Lê-Chi-Đạt cho đó là phạm giới vì do lời khen của ni mà được ăn nên không dám ăn. Phật dạy nếu đàn việt có ý định trước thì không phạm. Phật phải kiết giới này một lần nữa mới hoàn thành.
30.- Giới quá ngọ cúng một bữa. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại lúc ấy ở nước Câu-Tát-La, có một cư sĩ ở nơi không có trú xứ của tăng thường cung cấp cho tỳ kheo một bữa ăn. Lục quần đến nơi đó tham đắm thức ăn ngon ở lại đến đêm thứ hai, do không chịu đi, cư sĩ chê hiềm. Đức Phật vì vậy mà kiết giới. Khi ấy Ngài Sariputta đến đó rồi mắc bệnh, sợ phạm giới này, Ngài liền phải dời đi, do vậy mà bệnh nguy kịch, do nhân duyên đó mà Phật kiết giới lại "khi tu sĩ không bệnh".
31.- Giới cùng phụ nữ đồng đi một đường. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại nước Xá Vệ, bấy giờ tôn giả Anuruddha trên đường đi có một phụ nữ cùng mẹ chồng cải lộn về lại xứ ngoại bèn đi theo cùng đường với tôn giả. Người chồng của bà ta rượt theo nói tôn giả dụ dỗ vợ mình cùng đi trốn rồi đánh tôn giả gần chết. Tôn giả liền đứng qua một bên đường nơi chỗ vắng ngồi kiết già nhập hỏa quan tam muội, người đàn ông kia sinh thiện tâm, đợi tôn gỉa xuất định sám hối. Tôn giả vì ông mà nói thiện pháp cho nghe rồi đi về chùa nói lại cho các tỳ kheo nghe. Tỳ kheo bạch Phật. Phật nhơn đó mà kiết giới này.
Câu chuyện này đặt ra để đặt giới này chứ một vị tu sĩ như ông Anuruddha có thiên nhãn siêu nhiên thiền định thế mà không hiểu được nhân quả. Cùng đi trên một con đường có người phụ nữ đi cùng bà mẹ chồng rồi do hiềm hận gì đó, bỏ mẹ chồng rồi đi cùng đường với ông Anuruddha. Ông Anuruddha là một người có trí tuệ, một người hiểu biết nhân quả vậy ông phải biết sắp có tai nạn xẩy tới, ông phải tránh chứ có đâu để sự việc xẩy ra rồi nhập hỏa quan tam muội. Rõ ràng đây là thị hiện thần thông chứ có gì. Ngay từ đầu là phải ý tứ tỉnh giác để biết nhân quả xẩy ra mà tránh né. Mẫu chuyện này đặt ra cốt hạ bệ đệ tử Alahán của đức Phật, lấy thần thông để nộ người ta chứ không phải dùng nhân quả giả thích.
32.- Giới lần lượt ăn. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại thành La-Phiệt, có Xa-Nậu bà la môn chở 500 xe thực phẩm trải qua mùa đông đến mùa hạ bên cạnh Thế tôn, chờ đợi cúng dường mà không có ngày nào mà không có người cúng. Xa-Nậu đến nói với Ananda thay mặt, bạch Phật muốn dùng thức ăn này trải nơi đất để đức Phật và tăng đi qua gọi là nhận sự thọ dụng cúng dường. Phật bèn cho phép nấu cháo, làm bánh cúng chư tăng sau khi ăn sẽ thọ thời thực (ăn trưa). Khi ấy nước Cần-Già có một đại thần có một chút lòng tin sắm những thức ăn ngon mời chư tăng song Tăng đã dùng cháo đặc nên không thể ăn nhiều được. Đại thần che hiềm. Phật chế không cho phép ăn cháo đặc.
Cái đó là cái sai, khi có ông quan đại thần sắm đồ ăn ngon quá nên cấm không cho ăn cháo đặc của người cư sĩ với 500 cổ xe. Ông Phật mà chế không cho ăn cháo đặc là quá sai. Cúng dường là do lòng tốt của người ta. Thế mà cho nấu cháo rồi đổ trên đất để chư tăng đi lên gọi là nhận sự cúng dường. Như vậy có phải là phí của, phí mồ hôi nước mắt của người ta không. Phải ngăn không cho các cư sĩ khác nấu mà cho vị bà la môn với 500 cổ xe nấu trước vì người ta ở xa và đã chờ quá lâu.
33.- Giới riêng cho chúng mà ăn. Vì sao Phật chế giới này. Xưa khi Phật ở tại núi Kỳ-Xà-Quật, Đề-Bà-Đạt-Đa bị tiếng xấu, tìm các phương tiện sống để chấm dứt bèn cùng 5 tỳ kheo nhà nhà khất thực, Phật nhơn đó mà kiết giới này. Nếu tỳ kheo biệt chúng phạm ba dật đề. Khi ấy có tỳ kheo bệnh không dám biệt chúng thực, Phật dạy cho phép tỳ kheo bệnh được ăn riêng. Khi ấy tự tứ xong, trong thành Xa-Đề khi may y, ưu-bà-tắc sợ tỳ kheo vất vả không ăn được nên mời ăn, các tỳ kheo nói chỉ thỉnh 3 vị ăn, chúng tôi không được biệt chúng thực. Phật dạy cho phép khi may y được phép thọ biệt chúng thực.
Ở đây Thầy thấy sự chế giới quá lợi dưỡng, do người sau này lợi dụng giới luật của Phật. Người biệt chúng là họ phạm giới nào đó, tuy vậy hằng ngày họ vẫn đi khất thực sống chứ, tại sao không cho họ đi khất thực thì ai đem cơm cho họ ăn. Rồi khi họ bệnh thì cho họ ăn riêng ra. Họ bệnh thì họ cũng ăn một bữa, khi nào họ thấy bữa trưa họ ăn không được, họ cần phải ăn thêm để uống thuốc chẳng hạn thì họ khai cái giới ra, cần gì phải chế thêm giới cho luộm thuộm đủ cách như vầy.
Trước khi học tiếp giới bổn, thầy nhắc lại. Giới bổn này thật sự ra không phải dạy để các con học làm gì, nhưng nói ra để mọi người nghe và đồng thời để chỉ cái đúng cái sai của nó. Sau này có dịp thành lập lại giới bổn cho đúng cách của người chấp nhận giới làm thầy của mình để cho li dục li ác pháp như lời đức Phật đã nói "Lấy giới để tu tập nhập định Sơ thiền". Còn giới nào làm chúng ta sống chạy theo dục lạc thì nên bỏ đi, không chấp nhận giới đó vì nó không phải là giới của Phật. Mục đích của Phật đưa ra giới là nhằm tạo cho chúng ta có hàng rào giữ gìn đừng cho tâm của mình đắm nhiểm trong dục lạc. Những ham muốn của mình, là những ác pháp đang ở trong nhân quả như Thầy đã nói hồi nãy, nó đang đeo đẳng, đang chờ cơ hội lôi kéo chúng ta vào trong nhân quả, mà nhân quả thường thường là nhân quả ác, chứ không phải nhân quả thiện. Cho nên những giới luật này giúp chúng ta vượt ra khỏi nanh vuốt của nhân quả, thoát ra khỏi tâm ham muốn của chúng ta. Giới luật mà không giúp cho chúng ta vượt ra khỏi lòng ham muốn, vượt các ác pháp thì chúng ta không chấp nhận giới luật đó vì nó không phải là giới luật của Phật. Giới luật của Phật có mục đích giúp cho con người li dục li ác pháp thì đó mới đúng là giới luật của Phật.
34.- Giới thọ thỉnh quá 3 bát. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, lúc bấy giờ có vợ cư sĩ về bên mẹ, chồng kêu trở về, liền sắm thức ăn và y áo nghiêm túc. Lúc ấy có các tỳ kheo đến nhà đó khất thực, người vợ cư sĩ đã đem số thức ăn đã sắm đó cúng dường cho các tỳ kheo ăn hết. Người đàn bà ấy phải sắm lại thức ăn khác cho nên chưa về lại nhà chồng. Trong thời gian ấy, ông chồng cưới vợ khác. Lại có các tỳ kheo khất thực xin hết lương thực của người khách buôn có tín tâm, người ấy phải vào thành sắm lại lương thực đem về, các người bạn đi rồi người khách buôn ấy đi theo không kịp, bị giặc cướp đoạt. Phật quở trách cả hai trường hợp rồi kiết giới này.
Nghĩa là trường hợp thứ nhất: một người sắm thực phẩm để mang về nhà chồng đải bà con dòng họ của chồng, thế rồi gặp các thầy tỳ kheo đến đó khất thực thì người này trút hết thực phẩm cho quý thầy, cho nên bà phải ở lại sắm thực phẩm khác, vì đó người chồng cưới bà vợ khác. Do Phật nghe các thầy tỳ kheo làm người ta bị mất cơ hội như vậy, cho nên Phật chế giới các tỳ kheo chỉ được thọ thỉnh một bát trong một nhà, các tỳ kheo khác phải đi nhà khác khất thực chứ không được thọ thỉnh trong nhà đó nữa.
Thí dụ trong nhà đó làm 5 phần ăn của 5 người nhà thế mà có 5 ông tỳ kheo đến khất thực làm họ phải sớt hết 5 phần ăn đó cho 5 ông tỳ kheo thì người nhà lấy gì ăn. Bất quá cho đi 1 phần thì còn lại 4 phần có thể sớt bớt cho phần thiếu đã cho đi.
Đức Phật thấy các tỳ kheo thường thấy nhà nào có lòng tín tâm thì bao nhiêu ông xúm lại khất thực, cho nên Phật chỉ cho xin ở mỗi nhà một bát thôi. Đức Phật cấm như vậy là đúng. Ý nghĩ của giới này là tránh sự khất thực làm quá hao tốn cho người sớt bát. Khi thấy nhà thí chủ nghèo đã cúng dường rồi thì các tỳ kheo khác đều đậy bát lại, nhưng khi người thí chủ đó xin cúng dường thêm thì tỳ kheo kế mới mở bát nhận, chứ không phải các tỳ kheo luôn luôn mở bát ôm đi trong khi khất thực.
Các tỳ kheo ôm bát nhưng đậy nắp bát. Người cúng dường xá mình xin cúng dường thì người đi đầu mới mở bát đứng chờ nhận cúng dường.
Người đi khất thực đúng hạnh thì khi đi ôm bát đậy nắp, chỉ mở nắp bát khi có người xin cúng dường, còn khi đi mà bát đeo trong y thì người ta biết mình không khất thực. Nếu khi vị tỳ kheo nhận thấy thực phẩm đủ cho mình rồi thì tự ý quay trở về chùa chứ không đi theo trong đoàn nữa. Cho nên cuối cùng chỉ còn một tỳ kheo đi khất thực thôi cho đến khi vị này đủ ăn trong ngày đó thì quay về chùa. Theo giới luật này thì không phải tất cả tỳ kheo cùng nhau đi trong đoàn cho đến khi tỳ kheo cuối cùng đủ ăn trong ngày, cả đoàn mới cùng về chùa.
35.- Giới chẳng làm pháp dư thực mà ăn. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc cùng các tỳ kheo nói pháp ăn một bữa, tỳ kheo liền tuỳ đó mà ăn bông trái gốc lá cơm bột cho đến nghiền sinh tô chỉ ăn một lần, dần dần cơ thể khô héo, đức Phật cho phép một lần ngồi ăn cơm khiến cho no đủ. Tỳ kheo bị bịnh không thể ăn một lần được mà phải cho phép ăn mãi, lại cho phép người nuôi bịnh ăn xong rồi được ăn được ăn thức ăn của người bịnh ăn còn lại. Trong kinh "Thừa tự" ở kinh Trung Bộ thì thừa tự pháp chứ không phải thừa tự thực phẩm.
Khi ấy tỳ kheo buổi sáng thọ thực xong rồi vào thôn khất thực lần khác trở về lấy đồ ăn khất thực lần trước cho tỳ kheo khác ăn, nghĩa là đi khất thực rồi về cất đồ khất thực đi, rồi đi khất thực ở chỗ khác nữa, sau đó về đem đồ ăn khất thực trước cho tỳ kheo khác ăn. Các tỳ kheo đã ăn rồi nên không dám ăn, Phật cho phép nhận để ăn với pháp dư thực.
Nói như vậy Phật không li dục, chế giới gì lạ lùng như vậy. Hoặc có tỳ kheo vào thôn nhận được nhiều thức ăn, ăn dư, mang thức ăn dư đó về làm pháp dư thực mà ăn lại nữa. Khất thực đúng là ăn dư phải đem bỏ chỗ đất trống, không được bỏ lên cỏ, không được để dành ngày khác. Đó là giới luật của Phật, thế mà ở đây nói Phật chế pháp dư thực để ăn lại đồ ăn dư, thì hóa ra chế giới để cho ăn hơn một bữa. Như vậy sao gọi là li dục. Giới này thật ra nên bỏ.
Pháp dư thực là sao? Vị tỳ kheo kia lấy một ít thức ăn ăn rồi nói - "Thưa đại đức, tôi đã ăn xong rồi, đây là thức ăn còn thừa, thầy nên lấy mà ăn đi". Đó là pháp dư thực. Nếu không làm pháp dư thực mà ăn là ăn phi thời. Giới luật mà như vậy thì chúng ta có chấp nhận được không. Chúng ta là người tu hành thì ăn là một thứ dục lạc, giới luật mà như vậy thì đâu đúng pháp, cho nên giới luật này đáng được dẹp bỏ.
36.- Giới khiến cho tỳ kheo phạm dư thực. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc có tỳ kheo ham ăn bị các tỳ kheo khác quở trách, lòng ôm sân hận. Thời gian sau, ông này ân cần mời các tỳ kheo khác ăn thêm, muốn cho các vị đó phạm giới để trở lại gạn hỏi tội lổi của người. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó mà kiết giới này. Nếu tỳ kheo nghe lời mời liền thọ thực ăn, dù chỉ một miếng, thì cả hai đều phạm tội đọa, nếu được mời mà người kia không ăn thì người cho phạm ác tác. Không phạm là trước không biết người kia đã ăn xong hay là không có tâm muốn cho người kia phạm. Ở đây giới chế như vầy: không làm pháp dư thực là sau khi đã ăn xong, không ăn thêm gì khác.
37.- Giới trái thời mà thọ thực. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc tôn giả A-Di thường ngồi thiền tư duy nhàm chán việc đi khất thực bèn chứa thức ăn lại để ăn. Nhơn đó Phật dạy: ý của ông tuy muốn thiểu dục tri túc nhưng chúng sanh sau này làm theo, không lợi cho chánh pháp. Quở trách xong Phật kiết giới này.
Nghĩa là ông này bỏ hạnh khất thực, để dành nấu nướng thực phẩm tự ăn. Thật sự ra, sự nấu nướng cho mình ăn thì không làm chủ cái ăn đâu, đòi hỏi phải làm cái khác ăn khi ăn ớn. Đó là chạy theo dục ăn hơn ai hết. Cái dục ăn là vấn đề lớn, thắng được dục ăn là thắng lớn. Chế giới như vầy là chế giới bậy bạ thôi, chỉ chạy vòng theo dục ăn thay vì đi xin người ta chỉ cho cơm, ông nuốt không vô, bây giờ ở nhà ông thế nào cũng làm đồ ăn đồ uống cho ngon cái miệng ông. Thành ra ông này chạy theo dục rồi. Chế giới này thì Thầy thấy không cho ông này ở nhà nấu ăn là đúng. Cấm không cho ở thất mà nấu ăn.
38.- Giới ăn thức ăn cách đêm. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc có trưởng lão Ca-La khất thực ăn không hết, để dành phơi và qua ngày sau dùng, vì vậy mà trưởng lão không thường xuyên đi khất thực, sống một mình ở trong rừng, chuyên tu thiền định. Vì vậy hành động cất chứa bị coi là phi pháp, cho nên Phật nhơn đó kiết giới này
Cái hạnh để dành thức ăn, còn đòi hỏi ở chỗ ăn chưa li nên ông chẳng đạt thiền định gì hết, cho nên Phật chế giới này. Phải chi ông đạt thiền định thì được.
39.- Giới không thỉnh mà thọ thức ăn. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, một tỳ kheo thường khất thực mặc áo phấn tảo, lấy thức ăn khất thực cúng tế cha mẹ, anh chị em qua đời để ăn. Bị cư sĩ chê hiềm, nhơn đó Phật kiết giới. Khi ấy các tỳ kheo sinh nghi, không dám tự lấy tăm xỉa răng và nước uống. Phật dạy không phạm rồi Phật kiết giới lại thêm câu "trừ nước và tăm xỉa răng".
Sở dỉ Phật chế giới này là vì các tỳ kheo đi khất thực rồi về cúng tế cha mẹ anh chị em qua đời của họ, thì cư sĩ thấy điều đó mới chê. Theo Thầy thiết nghĩ không có linh hồn, thế sao các tỳ kheo không hiểu để rồi cúng bái như vậy. Đây rõ ràng người viết giới này đã bị ảnh hưởng chuyện có linh hồn cho nên các tỳ kheo mới lấy đồ ăn khất thực để cúng bái người đã chết.
Việc này trật nghĩa của đạo Phật, mà họ tưởng là đúng nghĩa. Khi mình đi xin thức ăn của cư sĩ là để mình ăn nuôi sống mạng mình để tu hành. Việc cúng bái chỉ xẩy ra trong ngày tưởng nhớ ngày chết của cha mẹ. Phật chế giới này cho biết người cúng bái như vậy phạm giới. Và giới này chế ra như vậy là hiểu kinh của Phật có đúng không?
Như các con thấy hằng ngày trước khi ăn Thầy thường cúng bái chư Phật cúng ông bà là để phá cái phong tục cúng kiến trong các ngày giổ ngày chạp. Nếu chúng ta nhớ đến ngày đó mà không cúng bái không gì hết thì chúng ta có sự buồn khổ trong tâm. Bây giờ hằng ngày trước khi ăn chúng ta là tu sĩ đã từng cúng như vậy thì khi đến ngày giổ ngày chạp chúng ta đâu cần làm gì nữa.
Mục đích của mình cúng ở đây không phải là mình cúng linh hồn người chết. Mình phải hiểu nhân quả. Khi thân mình chết đi thì như ngọn đuốc tắt, mồi ngọn đuốc khác cháy tiếp tục. Sự sống không gián đoạn, nó tiếp nối liên tục trong sự sanh diệt của nó. Ngay cả bản thân chúng ta đang sống có sự sanh diệt liên tục trong đó, thân này diệt thì có thân khác liền, không có kẻ hở. Do đó không phải ở đây chúng ta cúng cha mẹ ông bà, mà chúng ta nhằm phá phong tục.
Phong tục ảnh hưởng rất nặng lên chúng ta. Ngày tư ngày tết mà chúng ta không cúng thì có sự buồn khổ trong tâm chúng ta, vì tinh thần dân tộc là tinh thần có tổ tiên, có nguồn gốc sanh mình ra, do vậy, trước khi ăn cơm, chúng ta cúng bái người đã qua phần, làm cho tâm hồn chúng ta thấy không thiếu thốn tinh thần dân tộc, bây giờ nếu mình không biểu tỏ như vậy thì làm như mình thiếu bổn phận đối với ông bà tổ tiên. Đứng trong góc độ người tu sĩ đạo Phật nếu mình làm như mọi người là làm việc mê tín, không đúng, cho nên chúng ta không làm điều đó được. Vì vậy để phá vỡ phong tục mê tín đó thì trước khi ăn cơm, hằng ngày chúng ta nhớ đến các người đó như họ cùng thọ hưởng bữa cơm với chúng ta. Cho nên đến ngày tư ngày tết, dù chúng ta không làm gì hết mà chúng ta vẫn thấy đã làm bổn phận của chúng ta rồi qua việc hằng ngày tưởng nhớ đến họ, đã mời họ cùng ăn cơm với chúng ta, cho nên khi chúng ta không tổ chức ngày tư ngày tết thì không bị ray rứt trong lòng. Khi chúng ta tổ chức ngày giổ ngày chạp sẽ làm gián đoạn sự thiền định của chúng ta, sự tu tập của chúng ta bị gián đoạn qua phong tập quán đó. Chúng ta muốn đạp trên dư luận mà đi thì phải có chỗ nói, phải có cớ để nói, không có cớ thì chúng ta nói không được.
Chẳng hạn như trong nhà có người chết mà không mời thầy chùa tụng kinh thì người ta sẽ chê bai, nếu chúng ta mời nhiều ông thầy chùa tụng kinh thì được mọi người khen. Cho nên các con rất khó nói, dù biết rằng tụng kinh không giúp gì cho cha mẹ được và làm vậy thì trái với đạo Phật, mà các con không làm thì bị người ta lên án. Do vậy mà các con phải làm cho đúng. Làm đúng như thế nào? Các con làm đơn sơ, các con mời một ông thầy chùa tụng kinh cho có lệ thôi chứ đừng mời nhiều ông để được người ta khen. Khen thì không đúng nhưng đừng để người ta lên án mình, đó là ta tùy thuận phong tục. Sau khi Phật giáo chấn hưng lại được thì chúng ta phá bỏ mê tín này đi. Phật giáo chấn hưng lại sẽ nói rõ thì không ai lên án mình được.
Với chúng ta là tu sĩ đạo Phật, hằng ngày chúng ta đã cúng ông bà tổ tiên thì đến ngày giổ ngày kỵ chúng ta không làm gì cả, còn các người khác không làm như chúng ta thì đến các ngày đó họ cứ làm bổn phận đi. Đó là chúng ta có chỗ nói mà người ta không thể nói mình được. Đó là mình đạp trên dư luận mà đi đúng cách mà không ai bắt bẻ mình được.
Ở đây Thầy muốn nói khi chúng ta muốn làm cái gì phải có sự suy nghĩ để người ta không bắt bẻ, không lên án mình không theo phong tục tập quán. Phong tục tập quán có cái đúng mà cũng có cái sai. Từ xưa đến nay, chúng ta sống trong sự sợ hãi mà sự sợ hãi thường sinh ra mê tín, thiếu trí tuệ, thiếu minh sát đúng thật. Cho nên chúng ta có những lầm lạc qua cái tưởng của chúng ta. Khi chúng ta biết sai thì phải sửa lại cho đúng, nhưng chúng ta phải có những cách luận mà người khác không thể bắt bẻ được.
Như vậy qua giới này chúng ta thấy rõ ràng do ảnh hưởng của Đại thừa mà chế giới ra chứ không phải Phật giáo nguyên thủy, và những người chế giới này không phải trong thời đức Phật. Tại sao đức Phật không chế giới như vậy, vì đức Phật đã dạy các tỳ kheo hiểu Phật pháp rồi, đâu lại đi xin ăn về cúng cha mẹ mình.
40.- Giới không bịnh mà đòi thức ăn ngon. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt-Nan-Đà đến một thương chủ xin thức ăn mý diệu, bị thương chủ chê hiềm, Phật nhơn đó kiết giới này. Lúc ấy có tỳ kheo bịnh, sợ không dám xin cũng không dám vì người bịnh mà xin, nhận được rồi cũng không dám ăn. Phật dạy không phạm và Ngài kiết giới này "nếu không bịnh mà xin thức ăn ngon cho chính mình, mỗi miếng ăn phạm một tội đọa, bốn chúng kia phạm tội đột kiết la. Thầy thấy giới này chế như vậy được.
Người bị bịnh có khi ăn cơm không được, có khi cần phải ăn cháo. Vậy cho nên người được gần cư sĩ xin cho người bịnh ăn được những thực phẩm thích hợp để cho người bịnh mau mạnh. Giới chế như vậy Thầy chấp nhận.
41.- Giới tự tay mình cho ngoại đạo thức ăn. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật từ nước Câu-Tát-La du hành đến nước Xá-Vệ, trên đường đi được nhiều thức ăn. Trong số người đi xin có người nữ ngoại đạo lõa hình, nhan sắc đoan chính, ông Ananda đưa bánh cho người nữ đó, bánh dính hai cái lại, ông tưởng là một. Người nữ đó hỏi người gần một người một cái hay hai cái. Người gần nói một người một cái. Người nữ đó nói tôi được hai cái. Người kia nói vị sư chia bánh chắc cùng cô tư thông.Các thầy tỳ kheo nghe, đều không vui. Trong hội đó có một phạm chí, do đó khinh thường sa môn. Trên đường đi gặp bà la môn gọi Cồ Đàm sa môn là bọn trọc đầu và thuật lại việc kia. Phật do duyên ấy nên kiết giới cho mà họ nhận phạm ba dật đề, cho mà họ không nhận, phạm tội đột cát la, muốn cho mà không cho trở lại hối hận, phạm tội ác tác; nếu cho cha mẹ, người có công quả, không phạm tội.
Ở đây thật sự của mà đàn na thí chủ cúng dường cho mình thì mình chỉ được quyền mình ăn chứ không được cho cha mẹ. Trong giới kinh thì nói như vậy, nghĩa là mình có đi tu thì mới ăn được của đó, còn cha mẹ mình không đi tu mà mình đi xin đem về cho cha mẹ mình ăn là tội rất lớn chư không phải là nhẹ. Thế mà trong giới này nói cho cha mẹ, cho người công quả trong chùa thì không tội. Cái này sai quá sai. Thầy thấy không đúng. Người công quả là người cư sĩ, là tịnh nhân, họ còn làm ăn được, chứ họ đâu phải là tu sĩ. Còn cha mẹ chẳng tu hành gì vậy mà mình đi xin về nuôi cha mẹ thì đó không phải là đáp hiếu.
Ông Ananda sơ sót khi chia bánh cho người nữ kia vì nhầm hai bánh dính làm một nên cho. Đây là sự bịa ra, chứ ông Ananda không bao giờ làm chuyện đó hết. Thứ nhất là người tu sĩ đứng ra chia bánh thì không có. Thầy nghĩ rằng người cư sĩ đem đến thì tự họ chia sao thì chia, mình xin được bao nhiêu ăn bấy nhiêu.
43.- Giới ở trong thực gia gượng yên ngồi. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, khi Kaludayi đến khất thực nơi nhà Trai-ưu-bà-di, với tâm luyến ái, ăn xong không chịu đi, trở ngại người chồng lúc dục tâm dồn nén, nhơn đó Phật trách ông Kaludayi và kiết giới.
Theo giới này khi được mời đến nhà ăn, ăn xong là đi liền chứ không được ngồi cà kê nói chuyện này chuyện kia làm cho người ta trở ngại việc riêng tư của họ, cho nên chế giới này rất đúng.
44.- Giới ở trong thực gia ngồi chỗ khuất nói chuyện. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Kaludayi bị Phật cấm trong nhà ăn có vật báu không được ngồi, phải ngồi ở chỗ duổi cánh tay đụng cánh cửa nên ông ngồi sau cánh cửa cùng với Trai-ưu-bà-di, nhơn đó Phật kiết giới này. Nghĩa là ông ngồi sau cánh cửa, cửa khép không ai thấy ông nói chuyện với con gái của người ta là Trai-ưu-bà-di (là người con gái thường đến tu viện cúng dường tên Trai-ưu-bà-di).
45.- Giới một mình ngồi với người nữ. Vì sao Phật kiết giới này? duyên do đồng như giới trước chỉ khác ở điểm ngồi ở chỗ trống (nghĩa là trước kia ông Kaludayi ngồi sau cánh cửa thì nay ông ngồi chỗ trống với Trai-ưu-bà-di.
Nói chung trong kinh giới, Phật cấm nói chuyện với người nữ, cho nên Phật nói đừng gặp, gặp thì đừng nhìn, nhìn thì đừng nói chuyện. Trong kinh giới chỉ một điều gồm hết mọi chuyện, thế mà ở đây chế ra đủ cách, từng chút vụn vặt không đúng hình thức để chúng ta li dục li bất thiện pháp.
46.- Giới cố làm cho tỳ kheo không được thức ăn. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Bạt-nan-đà cùng các tỳ kheo cải lộn, phải sám hối, Bạt-nan-đà kết hận trong tâm. Sau thời gian Bạt-nan-đà dối gạt tỳ kheo này cùng đi khất thực, tỳ kheo này nghe lời đi theo, đến chỗ không có khất thực. Do vậy Phật kiết giới này ra.
Thầy nghĩ một tỳ kheo tu hành thì ai mà làm chuyện đó mà trong giới bổn đặt điều như vậy.
47.- Giới quá ngọ thọ thuốc. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Ni-câu-luật, khi ấy cư sĩ MahaNama, giòng họ Thích, thường thỉnh chúng tăng cung cấp thuốc. Lục quần tỳ kheo nói cư sĩ đó cung kính thượng tọa nên cúng thuốc tốt, đối với chúng tôi không cung kính nên cho thuốc xấu, đến nhà đó xin lại gặp khó khăn không cung ứng kịp thời, nói nhà kia có ái, v.v... lại nói không thật. Do vậy cư sĩ kia không cung cấp thuốc cho chư tăng nữa. Phật nhơn đó mà kiết giới này. Sau do các duyên khác lại khai cho thường thỉnh.
Phật chế giới không được nói xấu, ai cho gì thì nhận nấy.
48.- Giới đi xem quân trận. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, lúc bấy giờ vua Ba-tư-Nặc (Pasenadi) tự mình cầm lục quân chinh phạt bọn phản loạn. Lục quần tỳ kheo đến xem, nhà vua chê hiềm, nhơn cớ ấy nhà vua thăm hỏi đức Thế Tôn và gởi thêm một gói đường phèn dâng cúng. Nhơn đó Phật quở trách Lục quần tỳ kheo và kiết giới này. Sau đó vua Pasenadi có hai người em tên là Lê-chi-đạt và Phú-lan-na lãnh mạng đi chinh phạt, trong quân trận khao khát muốn chiêm ngưỡng tỳ kheo bảo người mời đến. Các tỳ kheo cẩn thận, sợ không dám đến, Phật kiết giới lại thêm câu: Trừ có nhân duyên hợp thời đến không phạm. Nếu tỳ kheo xem quân trận, đến mà thấy thì phạm ba dật đề, đến không thấy thì phạm tội đột cát la. Nếu trên đường đang đi, quân đội đến sau, nếu không tránh thì phạm tội đột cát la, nếu có dịp cần đến, hoặc người thỉnh đến, hoặc bị thế tục dẫn đến, hay bị trói đem đến, hay nạn giặc thì không phạm.
Đức Phật không cho người tu sĩ xem quân đội dàn trận hay diễn binh. Giới này chế cho thời chúng ta thì đúng chứ thời đức Phật các vị đều li dục lí ác pháp, họ thấy chuyện đánh đấu nhau là chuyện ác, quân đội là chuyện giết người cho nên họ không bao giờ đến đó. Còn thời bây giờ các tu sĩ hăng say lắm, họ còn muốn ra trận nữa, do đó họ đi xem diễn binh hay này kia. Đây là giới sau này các tổ chế thêm ra vì các tu sĩ sau này phạm giới này.
49.- Giới đến trong quân quá ba đêm. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, bấy giờ lục quần tỳ kheo có nhân duyên đến trong quân trận ngủ, cư sĩ chê hiềm, Phật vì đó mà chế giới này.
Tại mình muốn xem, muốn coi chứ có duyên gì đâu. Đây là vì thích coi quân đội.
50.- Giới xem thế lực quân trận. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, khi Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, Lục quần tỳ kheo nhân được Thế Tôn chế giới cho phép có nhân duyên được hai ba đêm ngủ trong quân trại, bèn xem coi quân trận, sức người, sức voi, sức ngựa chiến đấu, một tỳ kheo bị tên bắn bị thương chở về. Phật nhơn đó mà chế giới
Đây là sự bịa đặt chứ có tỳ kheo nào tu hành chưa chứng mà ham đi chơi như vậy.
51.- Giới uống rượu. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa, ở tại nước Câu-diệm-di, tôn giả Ba-dà-đà ngủ đêm trong phòng của phạm chí bện tóc, có con độc long phun lửa, tôn giả hiện các thần thông biến hóa, thần phục nó, vua nước Câu-diệm-di thấy vậy long sanh kính phục, tôn giả lại nói pháp khiến vua được hoan hỉ vua bèn ân cần thưa hỏi ba lần ngài cần gì, tôn giả không nói, lục quần tỳ kheo nói 6 vật tỳ kheo nhận được khó nhận nhà vua giúp cho. Nhà vua hỏi vật gì khó được, lục quần tỳ kheo trả lời là hắc tữu. Ngày sau được thiết cúng bao nhiêu món ăn ngon ngọt cọng với hắc tửu. Khi ấy tôn giả ăn uống no đủ, trên đương về tôn giả bị ói mữa té xuống đất. Ananda bạch Phật, Phật dạy như hiện nay không thể hàng phục được con rắn nhỏ huống nữa là đại độc long. Từ nay ai gọi Ta là Thầy thì không được dùng đầu cọng cỏ nhúng vào rượu rồi thấm vào môi. Rồi Ngài kiết giới này.
Nghĩa là Ngài cấm uống rượu, lại thuật ra câu chuyện một ông tỳ kheo có thần thông hàng phục được một con độc long, được vua thiết đải một bữa ăn với rượu ngon nhất (gọi là hắc tữu), ông uống say, đi nửa đường mữa té. Sao có thần thông lại uống rượu như vậy. Thiệt là bịa đặt, chứ một người có thần thông trong đạo Phật thì phải có tâm thức tịnh của thiền định, tâm ở trong li dục li ác pháp tối đa, trong hỉ lạc của Tứ thiền, thì đâu phải tầm thường mà còn thích uống rượu say như vậy. Đó là dục lạc của thế gian, bởi vậy nói tới tâm trạng đó Thầy nói người này chưa ở mức độ Tứ thiền của 7 ngày đêm liên tục hỉ lạc cho đến 49 ngày đêm, làm sao có món rượu kéo dài hỉ lạc 7 ngày đêm. Thế mà ông uống rượu say mà nói có thần thông là thần thông gì, chỉ nói láo thôi. Một người tu đúng rồi thì không gạt được người ta, chỉ có người chưa biết thì nói sao họ tin vậy, có thần thông rồi uống rượu như mấy ông thầy bùa mà có bùa chú linh rồi uống rượu thì bùa chú mất hết).
52.- Giới tắm dưới sông đùa giởn. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa đức Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, khi ấy thập thất quần tỳ kheo ở nơi sông A-tỳ-la-đà đùa giởn trong nước, vua Pasenadi cùng với phu nhân trên lầu từ xa trông thấy cho là người tuổi nhỏ xuất gia chẳng bao lâu. Phu nhân cho người đến thăm hỏi Thế Tôn, gởi một gói đường phèn để dâng cúng, bạch đầy đủ. Phật quở trách thập thất quần tỳ kheo, rồi kiết giới này.
53.- Giới thọt lét nhau. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, một vị trong lục quần thọt lét một vị trong thập thất quần cười hết hơi đến chết, nhơn đó Phật liết giới này.
Không thể nào một tu sĩ còn đùa giởn kiểu này được. Khi một người quyết tâm tu thì lúc nào cũng khắc khoải trong tâm làm thế nào để giải thoát, không thế ham vui đùa theo kiểu này. Người tu mà không có biết đường tu thì mới thích dục lạc, chứ người biết đường tu thì không bao giờ, người ta chỉ quyết giải thoát thôi, làm sao li cho được dục lạc thế gian. Tuy Thầy đã giảng đơn giản có ba giai đoạn, nhưng các con phải hiểu nó rất thâm ý, đừng thân cận dục tức là lòng ham muốn thì chúng ta phải đừng thân cận, phải xa các dục mà muốn không thân cận thì phải xa lìa các dục chỉ còn tha thiết giải thoát chấm dứt luân hồi. Ở đây giới như vầy không bao giờ có giá trị với người tha thiết giải thoát, với cái vui của trẻ con, của người khờ khạo ngu si như vầy.
54.- Giới không chịu lời can gián. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở nước Câu-diệm-di, Triển-đà muốn phạm giới, các tỳ kheo can mà không nghe, đức Phật vì đó mà kiết giới (nghĩa là muốn phạm giới như muốn sát sanh con vật nào đó mà các tỳ kheo khác can ngăn không nghe, nên đức Phật mới chế giới này).
55.- Giới dọa sợ người. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở tại nước Ba-la-lê, bấy giờ tôn giả Na-ca-ba-la thường hầu hai bên khi Phật đi kinh hành. Khi Phật đi kinh hành đầu đêm đã qua, tôn giả Na-ca-ba-la bạch Thế Tôn thỉnh Ngài vào phòng, Thế tôn nín thinh; đến giữa đêm, sau đêm cũng như vậy. Tôn giả bèn mặc áo bằng lông đến nơi Phật làm tiếng phi nhân khủng bố Phật. Hôm sau Thế Tôn nhóm tăng quở trách, vì có đó mà kiết giới này.
Nghĩa là có một vị tỳ kheo muốn làm phi nhân để làm cho Phật sợ. Kiểu này là kiểu đùa với Phật. Đối với đức Phật rất nghiêm nghị, đức Phật đi bao giờ cũng ngó xuống, không bao giờ ngó qua ngó lại, thế mà đệ tử tỳ kheo của đức Phật muốn đùa giởn với đức Phật như vậy. Thầy thấy không có lí, với tỳ kheo khác làm cho họ sợ thì có lí, chứ giởn với đức Phật thì quá độ vô lí. Luật sư nói sao thì nói chứ Thầy không chấp nhận.
56.- Giới quá tắm rửa. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở tại vườn Ca-lan-đà, vua Bình-Sa (Bimbisara) cho phép các tỳ kheo vào trong ao của nhà vua tắm. Lục quần tỳ kheo sau đêm, tướng mặt trời chưa xuất hiện xuống ao tắm, đến sáng ngày vua và các thể nữ đến muốn tắm mà không tắm được, đại thần chê hiềm, Phật vì vậy mà chế giới này. Sau đó nguyên nhân nóng bức nên Phật hay cho trường hợp đặt biệt.
Trong một ao của nhà vua có một hồ nước để tắm, nhà vua nghĩ các thầy là người tu cho nên mới cho vào tắm nhưng các lục quần tỳ kheo lựa giờ gần sáng, nhà vua và các thể ra tắm thì các lục sư này ra tắm trước. Nhà vua và các thể nữ ra tắm thì nước đục ngầu nên không tắm được.
Giới luật này chế biếm nhẻ, kiểu như cống Quỳnh. Giới mà không nghiêm nghị gì hết. Có những câu chuyện hữu lí có những câu chuyện vô lí. Các con suy ngẩm xem giới bổn có đúng là giới luật của Phật hay không? Chúng ta phải xem các giới đặt ra có đúng không để chúng ta chuẩn bị tư thế xây dựng lại Phật giáo chứ không phải là chúng ta cứ theo làm theo sự lầm lạc của họ ở miệng, ở hành động để lại. Bởi chính họ không phải là người giải thoát. Bây giờ Thầy đã tu được, đã làm chủ được sanh tử, làm chủ được nhân quả, Thầy chẳng sợ ai nữa hết Thầy đi đúng con đường của đạo Phật, xây dựng lại đạo Phật. Nếu Thầy chưa làm chủ được mình thì chắc chắn là Thầy không dám sửa, họ làm sai thì bây giờ Thầy cũng theo đó mà làm. Còn bây giờ Thầy có đường lối của đạo Phật đúng, thực hiện được, có pháp hành được, Thầy đã làm được thì Thầy phải sửa lại. Phải chi Thầy làm không được thì Thầy không dám, còn đằng này Thầy làm được thì phải sửa để cho người sau được hưởng phước báu của đạo Phật, không khéo sẽ mất hết.
Cho nên những cái Thầy đọc ra đây để chúng ta lần lượt sửa lại hết, không để trong Phật giáo có những loại giới vô lí như vầy, không đúng pháp của Phật, không giúp cho chúng ta li dục li ác pháp được, lại luôn luôn có sự đùa giởn trong dục lạc của thế gian.
60.- Giới đốt lửa.- Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở tại thành Khán-giả, lục quần tỳ kheo nói với thượng tọa ta không thể làm cho theo ý mình được, bèn ra ngoài phòng nơi chỗ trống, tập trung cỏ củi bên gốc cây đại thọ nhen lửa để sưởi. Khi ấy trong bọng cây có một con rắn bị hơi nóng của lửa xông vào, từ trong bọng cây chạy ra, các tỳ kheo hoảng kinh, lấy những cây củi đang cháy quăng lung tung làm cháy giảng đường. Đức Phật nhơn đó kiết giới: nếu tỳ kheo tự sưởi ấm nhóm lửa nơi đất trống hoặc dạy người nhóm lửa thì phạm tội ba-dật-đề.
Phật không cho đốt lửa ở gốc cây mà phải đốt lửa ở ngoài trống. Thầy muốn nói: trong sự tu hành của đạo Phật là phải sống độc cư. Trời có lạnh cũng không tập họp đốt lửa, khi họp nhau ngồi lại như vậy thì nói chuyện làm động tâm, trời có lạnh thì đốt lửa tại chỗ mình chứ có đâu tập trung lại đốt lửa sưởi. Giới này thật là lạ, tăng đoàn rối loạn, không đúng có tổ chức.
58.- Giới dấu đồ vật của tỳ kheo. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, khi ấy có cư sĩ thỉnh tăng, Thập thất quần tỳ kheo đem y bát tọa cụ để một nơi rồi đi kinh hành chờ đến bữa cơm. Lục quần tỳ kheo rình khi họ đi kinh hành quay lưng lại, lấy y bát của họ dấu, đến giờ tìm không được, lục quần tỳ kheo trêu ghẹo. Nhơn đó Phật kiết giới này.
Các con thấy các tỳ kheo của Phật mà y như con nít vậy, chờ khi người ta không để ý, đem y bát dấu, không đi khất thực được, bữa đó chỉ có nước đói thôi. Cũng như con nít thấy bọn kia cởi quần áo để trên bờ, nhãy xuống sông tắm rồi ba bốn thằng đem đồ của bọn đó dấu trong bụi cây đi, đến chừng bọn đó tắm xong lên thấy quần áo mất hết. Đó là chơi theo kiểu con nít. Người lớn không bao giờ chơi kiểu đó.
59.- Giới cho y rồi lấy lại mặc, không nói với chủ. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, lục quần tỳ kheo chơn thật tịnh thí y cho tỳ kheo rồi, sau không hỏi chủ mà lấy lại mặc. Nhơn đó Phật kiết giới này (nghĩa là mình cho người ta y rồi thì không được lấy lại. Phật kiết giới này cấm người đòi lại, đòi lại thì bị phạm tội)
Tịnh thí có hai cách: 1/ Chơn thật tịnh thí: Thưa đại đức, một lòng nghĩ tôi có y này chưa tắc tịnh, nay tịnh xả cho đại đức. 2/ Triển chuyển tịnh thí: Đối với vị kia phát tác xong vẫn cất để dùng, tác pháp như trên.
60.- Giới mặc áo mới không phải phai màu. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, lục quần tỳ kheo mặc y màu trắng, bị cư sĩ chê hiềm, nhơn đó Phật kiết giới: Nếu đem y chưa nhuộm gởi nhà bạch y cũng phạm tội ác tác.
Nghĩa là khi mình nhận y là phải y hoại sắc, chỉ có cư sĩ mặc y trắng thôi. Thời đức Phật tu sĩ mặc y trắng thì coi như diện lắm, Phật chê. Tu sĩ và cư sĩ chỉ khác nhau màu sắc của y, chứ ăn mặc các loại y áo giống nhau. Thật ra tâm các vị lục quần này còn thích đời bởi vì tỳ kheo là phải xả bỏ các y áo thế tục, mặc y hoại sắc của đức Phật chế ra. Thế mà lục quần tỳ kheo lại mặc y màu trắng khi đi khất thực mà đầu thì cạo trọc, không giống ai hết, nên bị cư sĩ chê hiềm. Do đó Phật cấm tu sĩ mặc màu trắng, có nghĩa là tu sĩ thì không mặc đồ đời mà phải mặc đồ tu.
61.- Giới giết hại chúng sanh. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, Kaludayi không ưa thấy chim chóc, dùng ná bắn chim chết gom thành đống, cư sĩ chê hiềm nên Phật kiết giới này: nếu tỳ kheo đoạn mạng chúng sanh phạm ba-dật-đề. Khi ấy có tỳ kheo ngồi, đứng, đi tới, đi lui làm chết nhiều côn trùng nhỏ, có vị cẩn thận sợ, làm pháp sám hối. Phật dạy không biết không phạm, kiết giới lại thêm chữ "cố ý".
Ở đây cho vô ý đạp chết chúng sanh thì không tội, trừ khi lấy cung, lấy ná bắn chim thì có tội mà chỉ phạm tội nhẹ Ba-dật-đề. Thật sự một vị tu sĩ phải thực hiện từ bi hỉ xả, mà cố ý giết hại chúng sanh thì phạm tội trục xuất khỏi tăng đoàn chứ không phải tội sám hối hay tội ba-dật-đề.
62.- Giới uống dùng nước có côn trùng. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, lục quần tỳ kheo lấy nước có tạp trùng uống. Phật nhơn đó kiết giới này: Nếu tỳ kheo uống dùng nước có tạp trùng phạm ba-dật-đề.
Trong Sa-di Lượt Giải nói có một vị tỳ kheo muốn đến gặp Phật mà uống nước có trùng. Phật nói thà nhịn khát chết chứ uống nước có trùng để sống mà gặp Phật thì có ra gì. Thật sự ra uống nước có trùng thì bị đuổi khỏi tăng đoàn.
63.- Giới cố xúc não người. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, thập thất quần hỏi lục quần tỳ kheo nhập Sơ thiền là sao cho đến nhập Tứ thiền là sao, thế nào là nhập không vô tướng vô nguyện, thế nào là đắc tứ quả. Lục quần nói như các ông vừa nói là tự xưng được pháp thượng nhân, các ông đã phạm ba-la-di. Thập thất quần tỳ kheo bèn thưa với bậc thượng tọa chúng tôi hỏi như vậy là phạm tội gì, thượng tọa nói không phạm. Tỳ kheo bạch Phật, Phật kiết giới: Tỳ kheo nghi ngờ cho người khác thì phạm ba-dật-đề. Khi ấy chúng tập họp lại một chỗ cùng luận nghị pháp luật, có một tỳ kheo rút lui, vị ấy nghĩ như vậy các tỳ kheo đã cùng mình gây hư não. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật dạy chẳng phải cố ý thì không phạm.
Ở đây Thầy thấy chỗ hỏi này là người ta không biết mới hỏi chứ đâu phải người ta xưng là chứng quả đó đâu mà ho là phạm tội. Trong giới bổn này chế ra kỳ cục vậy.
64.- Giới che dấu tội thô tỳ kheo khác. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, một tỳ kheo do quen biết nên che dấu tội của Bạt-nan-đà, sau đó bất mãn nhau nên đến các tỳ kheo khác nói. Các thầy tỳ kheo bạch Phật, Phật kiết giới: Nếu tỳ kheo che dấu thô tội của các tỳ kheo khác thì phạm ba-dật-đề.
65.- Kém tuổi không cho thọ đại giới. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở thành La-phiệt, thập thất quần đồng tử trước quen với nhau, lớn nhất là 17 tuổi, nhỏ nhất là 12 tuổi, rủ nhau đến chùa cầu xuất gia. Các thầy tỳ kheo độ cho xuất gia, trao đại giới cho họ. Họ không kham ăn một bữa, nửa đêm đói khóc la. Phật nói với tôn giả Ananda không nên trao đại giới cho người chưa đủ tuổi 20, bởi họ không kham chịu lạnh nóng đói khát và không chịu nhẫn được những lời nói ác, không thể giữ giới, không kham ăn một bữa. Nếu chưa đủ tuổi 20 mà cho thọ đại giới, người ấy không đắc giới, tỳ kheo bị quở trách vì si mê mà còn phạm ba-dật-đề.
Thật sự ra thì đức Phật luôn luôn lúc nào cũng nói là phải 20 tuổi, nhưng không có nghĩa là ăn một bữa mà la khóc, như La-hầu-la, như sa di Quân-đầu chỉ mới 7, 8 tuổi mà người ta vẫn sống ăn ngày một bữa đâu la khóc, thì các chú nhỏ này muốn tu thì cũng đã biết hành trì của người xuất gia rồi, có đâu nửa đêm la khóc. Mấy ông tổ đặt giới này đặt giới nhiều cái vô lí lắm, chuyện khóc la đó không có đâu.
66.- Giới khêu gợi việc tranh cải. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, lục quần đấu tranh, nghe pháp diệt rồi sau phát khởi lên lại nói như thế này: Ngài không quán sát đúng, không thành quán sát, không khéo giải thích, không thành giải thích, không khéo chấm dứt, không thành chấm dứt. Khiến cho tăng chưa có tránh sự lại sanh, có tránh sự thì không chấm dứt được. Tỳ kheo biết, bạch Phật, Phật quở trách rồi kiết giới này.
Nghĩa là trong khi họp các tỳ kheo làm pháp yết ma để cho các vị phát lồ sám hối. Việc xử đã xong rồi thì lục quần tỳ kheo lại chê trách xử như vậy không đúng,... Lục quần tỳ kheo hồi đó sao không nói bây giờ lại chê trách Phật này kia nọ, hồi đó sao không cải để bây giờ lại cải. Phật chế giới này là sau khi đã xét rồi thì cứ y như pháp mà chấp nhận lổi của mình chứ không được tránh né, đổ lổi cho người này người khác.
Theo Thầy nghĩ không cần chế giới này, người phạm tội đã bị pháp yết ma đàn hạch xong, dù họ có tự bào chửa gì thì kệ họ. Khi còn ở trong khuôn khổ của mình thì mình xét cho họ ở để li dục li ác pháp. Còn khi họ đã ra ngoài khuôn khổ thì họ có chê khen cũng không thành vấn đề gì. Như đức Phật nói trong kinh Phạm Võng khi một người chê đúng, khen đúng thì chấp nhận, còn khen sai, chê sai thì không chấp nhận chứ mình không lí luận tranh cải với ai cả.
67.- Giới cùng bạn gặp cùng đi một đường. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, lục quần tỳ kheo từ Xá-vệ đi đến Tì-xá-li cùng khách buôn làm bạn đi, bị trạm quan thuế bắt cùng với khách buôn, áp giải về chỗ vua Pasenadi. Vua không nở giết sa môn chỉ quở trách rồi thả ra. Phật vì vậy mà kiết giới này: Các thầy tỳ kheo cùng với giặc làm bạn đồng đi cho đến một hôm phạm ba-dật-đề, nếu biết mà cùng đi chưa được 10 dặm thì phạm tội đột-cát-la, nếu giao hẹn mà không đi cũng phạm tội đột-cát-la. (Giới này đức Phật cấm không cho tỳ kheo đi chung với bọn trộm cướp hay bọn buôn lậu).
68.- Giới không bỏ ác kiến. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, tỳ kheo A-lê-ca sanh ác kiến tự nói tôi biết Thế Tôn nói pháp việc phạm dâm dục không phải là chướng đạo pháp. Các thầy tỳ kheo can không bỏ. Bạch Phật, Phật quở trách rồi cho phép chúng tăng vì tỳ kheo A-lê-ca bạch tứ yết ma tác pháp tha giá cho bỏ việc ấy rồi Ngài kiết giới này.
Thầy có đọc trong kinh khác với chuyện kể này, tỳ kheo này nói Phật dạy là các pháp do tâm ham muốn của mình đem đến cái khổ cho con người, ông nói toàn những pháp Phật nói không đúng, tất cả cái dục không đem đến cái khổ mà nó đem đến cái lạc. Không phải ông tỳ kheo này nói về dâm dục mà ở đây đem ra dâm dục. Đó không phải là cái lí của bài kinh đó. Đức Phật nói tất cả pháp do tâm ham muốn của chúng ta mới sanh ra đau khổ, vậy chúng ta phải dứt trừ các pháp đó thì chúng ta hết đau khổ. Đó là cái lí Phật dạy cho vị tỳ kheo này từ bỏ ác kiến. Giới này nhắm vào từ bỏ ác kiến.
69.- Giới làm bè đảng với người ác kiến không bỏ. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, bấy giờ có tăng tha giá ác kiến của A-lê-ca kiên trì không bỏ, Phật khiến tăng nêu lên tội không bỏ ác kiến bạch tứ yết ma trao tội. Lúc bấy giờ lục quần tỳ kheo lại cung cấp các nhu yếu đồng pháp sư ngủ nghỉ nói năng, các tỳ kheo bạch Phật, Phật nên giới này mà kiết.
Nghĩa là họ không chịu bỏ ác kiến, không chịu nhận đó là ác kiến; cũng như người ta nói tôi có Phật tánh trong thân này cho nên uống rượu, sát sanh, dâm dục đều không tội vỉ Phật không bao giờ phạm sự thanh tịnh, vì vậy mặc tình chúng ta cứ ăn nhậu đủ thứ đều không tội; do vì vậy mà phóng sanh thì rơi xuống địa ngục, mà sát sanh thì được lên thiên đàng. Đó là những ác kiến. Các con có nghe người ta nói phóng sanh mà đọa địa ngục, còn sát sanh thì được lên thiên đàng. Một số đông người chấp nhận ác kiến đó nên Phật gọi đó là bè đảng ác kiến. Do ác kiến đó mà Phật chế ra nếu một bè đảng mà có một ác kiến như vậy đều phạm vào cái giới đọa địa ngục.
70.- Giới nuôi sống sa di bị đuổi. Vì sao Phật kiết giới này? Xưa khi đức Phật ở vườn ông Cấp-cô-độc, Bạt-nan-đà có hai đệ tử sa di sanh ác kiến như trên. Phật khiến tăng đuổi sa di ấy. Trước chúng tăng nơi mắt thấy tai nghe mà tác pháp tha-giá bạch tứ yết ma mà sa di cố không bỏ. Phật bèn khiến tăng đuổi sa di đúng chỗ như pháp tác yết ma diệt tẫn. Khi ấy lục quần biết tăng diệt tẫn sa di mà dụ đem về nuôi cùng ngủ. Các Tỳ kheo bạch Phật. Phật nhơn đó mà kiết giới này.
71.- Giới nghịch lời can gián lại nạp vấn tỳ kheo. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại nước Câu-diệm-di, trong vườn Cù-thi-la, Diễn-đà tỳ kheo phạm học chí này, "tôi nay không học điều giới này" tức là lời nói kháng cự lại sự can gián. Phật nhơn đó kiết giới. Nói rõ phạm ba-dật-đề, nói không rõ là phạm ác tác, nghĩa là khi phạm giới đó mà tìm cách lí luận tôi chưa học giới này cho nên tôi phạm tôi chưa có lổi. Như vậy là lấy lí do chưa học để chối tội của mình. Khi đã truyền giới rồi thì mình phải học, người ta nhắc cho mình biết thì mình xin sám hối cái đó để rồi mình sửa, chứ chưa phải người ta đuổi mình mà nói tôi chưa học nên tôi chưa có tội. Đó là điều tranh cải, kêu là không chịu nghe lời dạy, ngay đó ta biết người học trò này không để ở trong tu viện được, cho sự sám hối là vì chưa học nhưng mình biết lổi này rồi, vi vậy các thầy chỉ dạy cho mình thì từ đây về sau không phạm. Thì đứa đó dễ dạy.
72.- Giới khinh mắng người kiết giới. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, chúng tỳ kheo tập họp một chỗ tụng Chánh pháp Tỳ-Ni (tức là tụng giới), lục quần tỳ kheo sợ chúng tụng luật không lợi, tụng rồi họ sẽ cử tội của mình bèn nói với các tỳ kheo rằng Trưởng lão tụng các giới vụn vặt này làm gì, nếu muốn tụng thì chỉ nên tụng 4 việc hoặc 13 việc, ngoài ra không nên tụng hết vì tụng khiến cho người ta hoài nghi, ưu não. Các tỳ kheo biết họ muốn tiêu diệt chánh pháp nên liền bạch với Phật, Phật quở trách nhơn đó mà kiết giới này. (Nghĩa là đức Phật bảo các tỳ kheo phải thường xuyên tụng giới bổn, người nào không tụng thì bị phạm giới).
73.- Giới dối rằng mới biết pháp. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, trong lục quần có một vị tự biết rằng mình phạm tội nên khi kiết giới sợ thanh tịnh tỳ kheo cử tội bèn đến trước thanh tịnh tỳ kheo nói tôi nay mới biết pháp này ghép từ giới kinh nửa tháng tụng một lần. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó kiết giới này. (Nghĩa là vị tỳ kheo đó tìm cách chối từ cho là mình không có tội vì mình chưa biết giới này, giới này do các vị mới chép ra từ trong giới kinh chứ trong bổn kinh giới này không có, tôi chưa học).
74.- Giới chống trái yết ma. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại Kỳ-xá-quật, Đạo-Bà-la-tử được chúng sai làm điển tăng phân phối ngọa cụ và ẩm thực cho tăng, cho khách tăng, cho nên khi kiết trai hội bố thí, Đạo-Bà-la-tử không rảnh đến dự, do vậy y phục hư rách. Thời gian khác có thí chủ cúng cho tăng một y quý giá, tăng bạch nhị yết ma trao y ấy cho Ba-la-tử. Lục quần cũng có mặt ở đấy, sau khi đã trao y rồi, lục quần tỳ kheo dư luận nói rằng tăng đã từ chỗ thân hậu mà đem y của chúng tăng cho họ. Các thầy tỳ kheo bạch Phật, Phật quở trách lục quần rồi nhơn đó mà kiết giới này. (Nghĩa là chư tăng đã làm pháp yết ma trao y cho người khác rồi, lục quần tỳ kheo muốn cái y đó nên nói các tỳ kheo vì thân tình chỗ khác mà không cho họ, tức lục quần tìm cách chống trái pháp yết ma của chư tăng).
75.- Giới không gởi dục. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, chúng tỳ kheo tập họp tại chỗ, bàn luận pháp tỳ ni, lục quần tỳ kheo biết họ sắp tác yết ma liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tăng bảo họ ở lại, họ không ở. Tăng bạch Phật, Phật kiết giới: nếu tỳ kheo nào chúng tăng đoán sự chưa xong, đứng đậy bỏ đi phạm ba-dật-đề. Bấy giờ có tỳ kheo bận lo việc tăng, việc pháp hay chăm sóc tỳ kheo bịnh, đều không đi nên phạm tội. Phật cho phép gởi dục nên Ngài kiết lại giới này.
76.- Giới gởi dục sau ăn năn Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, có người trong lục quần tỳ kheo khi phạm tội, sợ chúng tăng cử tội riêng, sáu người lúc nào cũng đi với nhau không rời khiến cho các tỳ kheo không thể tác yết ma được. Sau đó các tỳ kheo thấy lục quần may y liền cho người kêu đến. Lục quần trả lời chúng tôi bận may y không thể đến được. Tăng nói nếu không thể đến thì một hai vị có thể mang dục đến, họ liền sai một tỳ kheo nhận dục đến. Lúc bấy giờ các tỳ kheo liền cùng một vị tỳ kheo này tác pháp yết ma. Tỳ kheo ấy trở về nói với lục quần, lục quần tỳ kheo bèn hối hận nói tác pháp yế ma đó chẳng phải là yết ma, yết ma không thành, tôi gởi dục việc kia chứ không phải gởi dục việc này. Tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó mà kiết giới này.
77.- Giới nghe trộm tranh cải liền nói người khác. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, lục quần tỳ kheo với các tỳ kheo đấu tranh với nhau, rồi lục quần tỳ kheo đem chuyện ấy đến nói người kia khiến cho tăng đã có sự tranh thì không chấm dứt được. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó mà kiết giới này. (Giới nghe trộm là lén nghe rồi ra nói cho người khác biết người đó phạm tội như vậy như vậy, để rồi có sự tranh cải trong chúng tăng không có sự hòa hợp, do đó mà Phật kiết giới này để cho hòa giải để không có chuyện nghe trộm rồi ra học người này người kia làm động chúng, làm bất an trong tăng đoàn).
78.- Giới trọng đánh tỳ kheo. Vì sao Phật kiết giới này? Khi Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, lục quần phạm điều này nhơn đó mà Phật kiết giới này: đánh bằng đá, cây, tay đều mắc tội đọa, bằng phất trần (cây chổi nhẹ) phạm tội đột-cát-la (nói chung là tất cả các tu sĩ không được đánh lộn nhau, mà đánh lộn thì mắc tội như giới định).
79.- Giới giận tát tai tỳ kheo Vì sao Phật kiết giới này? Khi xưa, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, lục quần dùng tay dọa thập thất quần tỳ kheo, nhơn đó Phật kiết giới này. Giới này tội nặng nhẹ đồng như giới trước, những người đưa tay ngăn lại hay đụng nhằm người muốn đánh thì không tội (nghĩa là giới dùng tay đánh hay dọa người khác đều bị tội đọa hết.)
80.- Giới không căn cứ hũy báng phạm tội hữu dư. Vì sao Phật kiết giới này? Khi xưa, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, lục quần vu khống thất thập quần tỳ kheo, nhơn đó Phật kiết giới này. Không căn cứ vu khống nói rõ phạm tội đọa, nói không rõ phạn tội ác tác. Nếu căn cứ nói đúng sự thật, muốn khiến cho họ hối cải thì không phạm. (Giới này đặt ra để người ta không vu khống nhau thì không phạm tội, còn người nào vu khống thì phạm tội đọa).
81.- Giới quá bước vào cửa cung vua. Vì sao Phật kiết giới này? Khi xưa, Phật ở tại nước Xá-vệ, bà Mạt-lợi phu nhơn nghe Phật thuyết pháp ngang nơi tòa đặng con mắt pháp sạch, trở về trong cung khuyên vua tin ưa, vua tin ưa rồi bèn cho phép các tỳ kheo vào trong cung tự do. Kaludayi khất thực rồi vào trong cung, lúc nhà vua cùng phu nhân ban ngày đang nằm ngủ thì phu nhân thấy Kaludayi đến liền đứng dậy mặc y vì y vươn cái ghế nên rớt xuống đất, lộ hình xấu hổ nên bà ngồi xổm liền. Kaludayi về chùa nói với các tỳ kheo khác. Tỳ kheo bạch Phật, nhơn đó đức Phật kiết giới. (Nhà vua rộng rải cho các tỳ kheo vào trong cung chơi, nhưng ông Kaludayi lúc nào cũng đi bất kể giờ giấc. Tất cả cái này sai luật của người tu. Người tu sĩ có thì giờ đâu mà đi chơi như vậy. Ở đây có những cái thiệt ra quá đáng.)
82.- Giới nắm cầm của báu. Vì sao Phật kiết giới này? Khi xưa, Phật ở tại nước Xá-vệ, có cư sĩ đệ tử ngoại đạo từ nước Câu-tát-la trên đường đi dừng nghỉ, quên cái đãy đựng 1,000 lượng vàng, các tỳ kheo đi sau lượm được, đợi chủ đến giao lại. Khi giao lại người chủ nói thiếu, đến kiện với vua Pasenadi, vua thẩm xét biết người ấy dối trá liền tịch thu gia tài và vàng nhập vào cửa nhà quan. Đức Phật nhơn đó kiết giới rằng nếu tỳ kheo cầm nắm vật báu, tự mình cầm hay dạy người khác cầm thì phạm tội đọa.
Bấy giờ cư sĩ Xất-tư-khẩu đi lễ hội ghé vào Kỳ-hoàn lễ Phật, bỏ đồ trang sức ngoài cửa, khi trở về bỏ quên, không ai dám lấy cất, Phật dạy cho phép được cất. Khi ấy có các tỳ kheo đi đường, ngủ nhờ ở phòng của người thợ vàng, ông chủ bận việc đi không kịp cất vàng, các tỳ kheo cần bảo vệ nên cả đêm không dám ngủ. Phật dạy trừ ký túc xứ để khỏi mất nên lấy cất. Nếu muốn cất giùm nên phân biệt rõ hình tướng của chúng để khi chủ đến hỏi, nếu họ trả lời đúng mới đưa bằng không đúng như hình tướng đã biết thì nên bảo là không thấy vật như vậy. Nếu của chùa, tháp để trang hoàng, lấy cất không tội.
Ở đây thật sự ra theo Thầy thiết nghĩ người tu sĩ thấy vàng bạc nên tránh, của người ta mất thì kệ người ta, cất giữ làm gì, rồi đây nó sẽ sinh họa cho mình, cho nên mình là người tu sĩ không nắm giữ tiền bạc thì không cất giữ cho ai hết. Nhân quả của người ta, vật còn thì họ hưởng, vật mất thì họ chịu, còn mình cất giữ tạm rất khó cho mình, người ta nói sao mình là tu sĩ phải chịu vậy.
Còn nếu mình sợ mất của của người ta thì nên đem trình cho cảnh sát làm gì thì làm, còn mình không cất giữ. Nhiều khi mình nắm của của người ta đi chưa tới cảnh sát thì chúng lại nắm đầu mình nói mình ăn cắp, cho nên tốt hơn hết là thấy vàng bạc hay tiền bạc của ai rơi ngoài đường thì mau mau tránh xa, đừng lại gần nó, sẽ nguy hiểm cho chúng ta. Muốn thanh tịnh giới thì không được gần gủi tiền bạc, nó là rắn độc, biết đâu nhân quả của chúng ta đời trước như thế nào, ngày nay lụi đụi ta phải trả nhân trả quả. Nhân quả chuyển chứ không phải không chuyển được, miễn là chúng ta đừng mó tới nó là chuyển nhân quả, mó tới thì đừng mong chuyển được, nó sẽ đưa chúng ta tới tai họa. Cho nên theo giới nắm cầm của báu không được chế đi chế lại gì hết, người tu hoàn toàn không được rờ mó tới của báu, rờ mó tới thì tai họa đến. Phải biết như vậy thì bất kỳ vàng bạc của báu của ai rớt ngoài đường, ai làm gì thì làm, nếu người đó có nhân quả không mất của thì sẽ có người khác cất giữ giùm họ, nếu nhân quả đời trước họ đã gieo mất của thì người khác lấy thì họ phải trả cái nhân quả đó, có gì mà chúng ta lại can cớ xen vào để bị nhân quả. Chúng ta không phải là người cất giữ vì chúng ta đã xả hết, chúng ta đâu cất giữ cho ai, chúng ta không có làm mọi cho ai hết. Cho nên người tu sĩ phải sống trong đôi mắt của nhân quả. Do đôi mắt nhân quả không làm chúng ta có cái khổ nào hết, nếu chúng ta không thấy nhân quả thì chúng ta mới lầm lạc trong chỗ này.
Giới chế này ra là tạo cho những nhân quả chứ đâu phải là gì, khi cất vàng phải coi vàng như thế nào để khi người ta hỏi thì mình phải trả lời được, bằng không thì trao cho người khác họ lấy của của người ta làm sao. Cho nên nó mất công mình đủ thứ hết. Cái tâm mình là tâm thanh tịnh mà ở đó cứ để ý ba cái vàng, vàng này có thẹo, vàng kia có tỳ. Thử hỏi con người tu chúng ta mà tâm trí cứ luôn luôn lo của cải của người, vậy thì tu cái gì. Cho nên chế giới này là chế tầm bậy, không đúng. Thầy nói một người giải thoát là phải giải thoát chứ không còn biết thứ gì của thế gian nữa.
83.- Giới trái thời vào làng. Vì sao Phật chế giới này. Khi xưa Phật ở nước Xá-vệ, Bạt-nan-đà vào tụ lạc chẳng phải lúc, chơi cờ cùng các cư sỉ, cư sì bị thua, do tật đố nên nói tu sĩ buổi mai vào thôn để khất thực, chứ phi thời vào thôn để làm gì. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật chế giới này: Nếu tỳ kheo vào tụ lạc phi thời sẽ bị tội đọa.
Ông này đi cờ bạc, tu sĩ nào mà đi đánh bạc mà viết vô đây. Làm gì có chuyện này được, chỉ ở ngoài đời người ta mới cờ bạc chứ tu sĩ còn ham gì mà đi đánh bạc, tiền ở đâu mà đi đánh bạc, có tiền mới đánh bạc chứ, ông này ít ra có khối tiền mới vô đánh bạc. Thật ra cái giới gì mà đặt ra mình thấy không có lí do nào hết.
Khi ấy có tỳ kheo có việc của tăng, của pháp, hoặc có việc phải chăm lo bịnh nhân không dám vào làng. Phật dạy có việc cần thì cho phép dặn người khác rồi vào tụ lạc. Các thầy tỳ kheo không biết dặn ai. Phật dạy nên trở lại dặn tỳ kheo, nếu ở riêng một phòng thì dặn tỳ kheo ở phòng gần. Phật kiết giới lại thêm chia bát.
Thật sự ra đây là giới không vào làng sớm khất thực thôi, đem câu chuyện tu sĩ này đi vào đó cờ bạc rồi ăn người ta. Nói cái vô lí, tỳ kheo không cất giữ tiền bạc, thì làm sao có tiền bạc để đi đánh bạc để người ta nói này kia, bất quá nếu đi sớm quá thì ghé chỗ mấy ông ngoại đạo rồi lí luận với mấy ông chơi, hoặc nêu lên vài công án cho mấy ông bí chơi vậy thôi. Cái đó là có lí. Còn đằng này đánh bạc với cư sĩ thì không có lí. Đâu có cái chuyện đó. Đặt ra cái giới không có lí trong cái giới, nhưng mà cấm vào làng sớm, bởi vì mới 5 giờ mà ôm bát đi xin thì làm sao ai nấu cơm mà đi xin, chỉ đi dạo chơi thôi. Ở trong tịnh xá lo tu hành chứ có đâu đi dạo gì kì vậy. Cái cấm như vậy là đúng. Nhưng đặt câu chuyện ra để nói cái giới này đó là sai.
84.- Giới làm vườn quá lựa. Vì sao Phật chế giới này. Khi xưa Phật ở nước Xá-vệ, bấy giờ Kaludayi dự biết Phật sẽ đi qua nơi con đường đó nên bày giường cao tốt để nằm ngồi. Phật thấy bảo các tỳ kheo đây là người ngu si, bày giường cao tốt lớn chỉ vì tự kỷ. Phật quở trách rồi kiết giới này.
Đây cũng là bày đặt. Ông này là một vị tu sĩ mà đem giường cao ra giữa đường nằm, ghẹo Phật chơi mà. Cái kiểu này thì ông đâu có phải là người tu, muốn chọc ông Phật. Như vậy đặt cái này vô đây làm gì. Người đệ tử đến với Phật đâu có làm gì mà trêu ghẹo Phật như vậy, trêu ghẹo thầy mình như vậy sao. Phật đã chế giới không nằm giường cao rộng lớn. Lẻ ra nằm giường cao rộng lớn này là tâm của thế gian cho nên Phật mới chế thập giới sa di, còn ở đây giới tỳ kheo mà chế kiểu này thiệt là vô lí. Người tỳ kheo đã li dục li ác pháp nhiều hơn chú sa di chứ, thế mà giới sa di thì nói đơn giản, rõ ràng, nó đúng, ở đây đem chỗ này nói ông này biết Phật đi ngang đó, xách cái giường thật đẹp bằng thứ loại cây gỗ đắt giá, bóng láng rồi lên đó nằm. Có phải đó là ghẹo Phật không? Từ lâu không có giới này chứ gì? Sa di vô là có giới rồi, mà bây giờ lại muốn ghẹo Phật. Phật chế giới này nữa. Mấy ông chế giới này không hiểu gì hết, trước kia ở giới sa di đã nói rồi, rồi còn đem chọc ghẹo ông Phật để chế lại lần nữa chơi. Thiệt là làm trò đùa chứ không phải là kinh giới là mức để chúng ta tu tập.
85.- Giới dồn bông làm nệm giường. Vì sao Phật chế giới này. Khi xưa Phật ở nước Xá-vệ, lục quần tỳ kheo làm giường nệm độn bằng đâu la miên (lông dê). Cư sĩ chê bai tu sĩ không có lòng từ, đoạn mạng chúng sanh, giống như vua chúa, đại thần. Phật nhơn đó mà kiết giới này (nệm độn bằng đâu la miên, bạch dương, hoa liểu, hoa bồ lê, hoa chiêm bạc, bông gòn, thảo miên, mộc miên, thiết bối, hoa a-ku-la, hoa cu-xá-la, hoa giang xà, hoa ba-ba, hoa li na,... tất cả các thứ bông này có lẻ là nó mềm như bông gòn cho nên mấy ông lục quần này lấy các loại bông đó làm nệm nằm cho êm. Thật sự ra mình đi tu rồi, còn gì nữa mà ở đó nằm cho êm. Ở ngoài đời đi thì nằm ngồi làm sao thì mặc sức làm, đi tu rồi mà còn đặt điều. Không bao giờ người tu sĩ chúng ta chấp nhận điều này. Một người quyết tu rồi thì không bao giờ họ nằm trên nệm êm, họ nằm đơn giản để họ lo tu tập, đâu có rảnh rang, đâu có thời gian lo chuyện ăn, chuyện mặc, nằm ngồi.
Luật Tăng Kỳ nói tỳ kheo đi đường hay vào nhà cư sĩ mà các loại bông trên đây do gió thổi bay vướng vào y áo không phủi đi, để vậy ngồi cũng phạm tội đọa đột cát la. Chế giới gì mà lạ lùng vậy. Bông bị gió bay vướng vào y áo chứ đâu muốn vậy.
86.- Giới làm ống đựng kim bằng xương, nanh, sừng. Vì sao Phật chế giới này. Khi xưa Phật ở núi Kỳ-xà-quật, có người thợ tin ưa tỳ kheo, làm ống đựng kim bằng nanh xương sừng cho tỳ kheo, nên gia sự bị nghèo thiếu. Người đời chê bai làm phước mà mắc họa. Đức Phật nhơn đó mà kiết giới.
Ông thợ này khéo tay, làm ống đựng kim bằng xương, bằng răng nanh, bằng sừng đem cho các vị tu sĩ. Tưởng như vậy được phước giàu có, nhưng cuối cùng gia cảnh nghèo khó nên bị người đời chê hiềm. Chúng ta cũng thấy rõ ràng sai, làm không đúng nên không đem lại hậu quả tốt. Đạo Phật làm cái gì đúng là có kết quả, làm sai thì chịu lấy vì xương nanh là có đoạn mạng chúng sanh, tự làm hay dạy người khác làm thì phạm tội đọa, không thành thì phạm tội ác tác, nếu vì người mà làm thành hay không thành đều phạm tội đột cát la. 4 chúng đều mắc tội đột cát la.
87.- Giới may ngọa cụ quá lượng. Vì sao Phật chế giới này. Khi xưa Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, ngày đức Như lai không đi thọ thỉnh, Ngài đi khắp các phòng xá, thấy ngọa cụ chư tăng bị nhớp, không sạch, Ngài cho phép chư tăng làm các vật ngăn phần y, ngọa cụ bằng ni-xi-đàn. Lục quần tỳ kheo bèn làm vừa dài vừa rộng nên nhơn đó Phật kiết giới này. Bấy giờ Cu-la-đà-di thân lớn không đủ để ngồi, Phật thấy vậy nên cho phép mỗi bên thêm nửa gang tay.
Có lẻ làm tọa cụ nhỏ quá cho nên ông này bự con ngồi không được, vì vậy Phật cho làm rộng ra. Thật ra thì người dù lớn đến mức nào cũng chỉ chế giới một lần, chứ có đâu lại chế hai ba lần. Tiết kiệm thì cũng phải cho đúng cách. Thí dụ trong chúng của chúng ta, ai là người mập nhất thì mình lấy cái kích cở đó mà tính. Mỗi người đều làm cở như vậy, đâu cần phải chế tới chế lui. Nếu một ông quá mập, lớn con mà cho miếng vải bằng bàn tay thì làm sao ông ngồi được. Thầy thấy giới mà chế đi chế lại là do người sau đặt ra chứ không phải Phật đặt, ở trong giới kinh Thầy thấy đức Phật chỉ nói một lần chứ không nói đi nói lại mà rất đầy đủ ý nghĩa, chứ không như giới bổn phải chế đi chế lại làm như Phật quá ngu si.
88.- Giới may áo che ghẻ quá lượng. Vì sao Phật chế giới này. Khi xưa Phật ở núi Kỳ-xà-quật, các tỳ kheo bị sanh nhiều thứ ghẻ, máu mủ nhớp y, nhớp tọa cụ. Phật cho phép làm áo che ghẻ bằng vải thô nhiều bông, khi gở ra bị dính lông đau nhức, Phật cho phép dùng vải nhuyển mặc áo che ghẻ, nếu đến nhà bạch y mời ngồi nên nói tôi bị bệnh hoạn. Nếu chủ nhà nói cứ ngồi thì nên vén quần lên che ghẻ, che rồi mới ngồi. Lúc bấy giờ lục quần tỳ kheo làm áo che ghẻ quá dài, quá rộng, Phật nhơn đó mà chế giới.
Làm như lục quần tỳ kheo vải sồ quá dư nên nghe Phật cho phép làm y che ghẻ thì các ông này làm dài làm rộng. Thời xưa đâu có vải nhiều, bây giờ thì vải sồ dệt bằng máy nên nhiều và rẻ, nhưng người tu sĩ chúng ta phải tiết kiệm bởi mình đâu làm ra tiền, chỉ đi xin ăn cho nên đâu làm chuyện quá phung phí. Một tấc vải chúng ta cũng phải tiết kiệm huống hồ may dài chơi như vậy, chẳng qua chỉ phí của đàn na thí chủ. Thầy nói người đi tu, khi học được giới đức Phật rồi thì người ta thiểu dục tri túc, đâu có phí như vậy, thế các chữ thiểu dục tri túc áp dụng vào chỗ nào đâu mà chế giới này như vậy. Như vậy thiểu dục tri túc có nghĩa gì mà đặt ra.
89.- Giới may áo tắm mưa quá lượng. Vì sao Phật chế giới này. Khi xưa Phật ở núi Kỳ-xà-quật, Tỳ-xá-sư-mẫu đem áo tắm mưa đến tăng già lam để cúng dường chư tăng, tăng không chia. Phật dạy áo này nên chia từ thượng tọa xuống, nếu không có đủ thì chờ kỳ sau chia tiếp. Lúc đó nhận được y quý giá, tiếp tục chia, Phật dạy không nên làm như vậy, nên đưa đổi cho thượng tọa, nếu thượng tọa đã nhận được rồi thì nên chuyển đến hạ tọa, nếu không đủ chia thì nên lấy y vật để chia cho tăng để chia cho đủ. Lục quần may nhiều áo tắm mưa vừa dài vừa rộng. Đức Phật nhơn đó mà kiết giới này.
Bà Tỳ-xá-sư-mẫu là cư sĩ chăm sóc trong tăng già lam núi Kỳ-xà-quật, thường đem các thứ cúng dường tăng chúng. Như vậy khi nhận sự cúng dường có đủ thì chia cho tăng, không đủ thì giao lại cho cư sĩ đem về, chứ làm gì mà cất trong chùa bằng vách lá tầm vông như vầy, mưa dột ướt thì làm sao. Quý thầy nghĩ xem muốn cúng dường cho đủ 1,250 vị tỳ kheo thì một vị cư sĩ phải cúng dường làm nhiều lần chứ đâu phải một lần mà đủ. Cho nên vị trụ trì nói với cư sĩ khi nào đủ số thì nhận. Thường thường người cư sĩ muốn cúng dường y áo thì phải đến trình với vị trụ trì xem chúng tăng bao nhiêu người rách y áo, họ xin cúng như thế nào. Thời ông Phật, Phật đâu bảo giữ của, Phật và chư tăng đi du hóa chỗ này chỗ kia suốt năm, đâu có ở yên chỗ nào mà cất giữ của. Nếu phát y áo cho đủ số 1,250 vị tỳ kheo này thì số vải đó phải nhiều, làm sao quảy gánh cho hết vải. Vậy cho nên phải chia số chúng ra nhiều nhóm, người nào y áo rách mới nhận, thì nhiều lắm cũng chỉ mấy người thôi chứ đâu toàn cả nhóm 1,250 tỳ kheo. Cho nên người cư sĩ may y áo đủ cho số tỳ kheo rách thôi. Người chế giới không biết đời sống của du tăng khất sĩ nên mới chế giới trật hết như vầy. Vì thế mà những cái họ đặt ra ở đây không đúng cách đời sống của du tăng khất sĩ, họ sống làm sao thì họ nói như vậy, cho nên rất là sai, vì vậy mà toàn bộ giới bổn đều phải có sự chỉnh đốn lại hết chứ không thể để như vầy. Tiếc rằng chưa có độ chừng 10 vị tu chứng được thiền định như Thầy để xem mặt thật của đức Phật ra sao mà vẽ lại, chỉnh đốn lại hình ảnh của đức Phật chúng ta thờ hiện nay, và quán xét lại kinh sách của Phật hiện nay đang dùng, chừng đó chúng ta kết tập lại kinh sách cũng như giới luật của Phật cho đúng. Lời nói của Thầy hôm nay sẽ còn mãi muôn đời. Và đồng thời sẽ không có người thứ hai dám nói lên điều này. Thầy ước ao có chỉ chừng 10 người tu chứng sẽ làm được những điều này.
90.- Giới y màu vàng như y của Phật. Vì sao Phật chế giới này. Khi xưa Phật ở nước Thích-khí-sậu, nơi vườn Ni-câu-lại, bấy giờ Nan-đà (em cùng cha khác mẹ với đức Phật) chỉ thấp hơn Phật có 4 ngón tay. Tỳ kheo ở xa thấy tưởng là Phật, đứng dậy đón sẳn hai bên, đều xấu hổ, do đó Phật khiến Nan-đà mặc y màu đen để dễ phân biệt. Bấy giờ lục quần may y bằng hay quá lượng y của Như lai. Các tỳ kheo bạch Phật, Phật nhơn đó kiết giới này.
Ở trong câu chuyện này nói Nan-đà chỉ thấp hơn Phật có 4 ngón tay thôi, nhưng chắc ông giống Phật lắm cho nên từ xa các vị tỳ kheo thấy tướng của Nan-đà tưởng là đức Phật nên họ đứng dậy đón, nhưng khi ông đi tới thì là ông Nan-đà chứ không phải đức Phật. Phật nghe được điều này mới bảo ông Nan-đà đừng mặc y màu vàng mà hãy là màu đen để phân biệt với màu y của Phật. Nhưng Thầy thấy ở bên Nhật Bản, y có nơi màu trắng có nơi màu đen. Còn ở Việt nam trong thời phong kiến vua chúa lấy màu sơn son thếp vàng cho nên có y điều (màu đỏ). Y hoại sắc của tu sĩ biến thành màu đỏ của phong kiến Trung Quốc, sau này Thầy thấy quý thầy có mặc y màu đỏ. Lần lượt người ta bỏ y đỏ, chỉ còn mặc y màu vàng, nhưng y màu đỏ vẫn còn, và còn viền kim tuyến chói lóng lánh sang lắm, đó là y của vua ban. Đó là cái không đúng theo cách ăn mặc của đạo Phật, vì ăn mặc của đạo Phật không làm sang trong y áo của mình, mà đơn giản bằng loại vải thô xấu, bằng loại vải bó thây ma như y phấn tảo. Đó là hạnh của người tu. Người tu mà mặc cái y sáng láng chói rực rở, như y của ông Tam Tạng thỉnh kinh, họ nói rằng y nhấp nhánh nhấp nhánh là vật báu. Người tu sĩ thấy vật báu là đã tránh xa. Ông Tam Tạng có vật báu cho nên ông bị nạn là phải, bởi có vật báu là có tai họa. Người tu sĩ chúng ta lượm vải thây ma mặc thì chắn không ai dám rớ chúng ta đâu, y vải thây ma mà đắp thì chắc chắn ma đến.
Ở đây câu chuyện đặt ra như vậy, Thầy nghĩ rằng đức Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp thì ông Nan-đà cũng có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp cho nên hai người này phải giống nhau, phải giống hệt nhau cho nên người ta mới lầm mà đứng dậy. Nói như vậy để chúng ta thấy cũng có một người có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp như vậy, chuyện như vậy là không thể có điều đó.