• vandao2
  • lailamtoduong1
  • tinhtoa1
  • amthat2
  • amthat3
  • tamthuphattu
  • thanhanhniem1
  • tinhtoa2
  • benthayhocdao
  • vandaptusinh
  • ttl1
  • lopbatchanhdao
  • daytusi
  • thanhanhniem2
  • huongdantusinh
  • tranhducphat
  • khatthuc1
  • phattuvandao3
  • quetsan
  • toduongtuyetson
  • chanhungphatgiao
  • ThayTL
  • ttl3
  • phattuvandao1
  • thanhanhniem3
  • amthat1
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Am thất
In bài này

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần V,X,Y)

Lượt xem: 5237

(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các từ và câu kinh được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng trong tất cả các sách của Ngài)


V

Văn Hoá Phật Giáo Truyền Thống (TruyềnThống.2) Văn Hóa Truyền Thống chính là những bài học đạo đức làm Người, làm Thánh của Phật giáo, là những bài pháp dạy về đời sống đức hạnh cho mọi người, là đức hạnh nhân bản – nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Những ai muốn sống đúng đức hạnh làm người, dù có tôn giáo hay không tôn giáo thì Văn Hoá Truyền Thống vẫn là những bài học đạo đức tốt. Nó là giới luật của mọi con người cần phải giữ gìn nghiêm chỉnh.

Văn Tuệ (ThiềnCănBản) là Trí tuệ hiểu biết bằng cách tích lũy kiến giải, tưởng giải của cổ nhân trong kinh sách, hoặc nghe thuyết giảng, hay học thuộc lòng. Trí tuệ này là trí tuệ tránh né, trốn chạy các dục, các ác pháp. Nó còn gọi là trí tuệ sở tri chướng. Càng học tập, càng tích lũy nhiều thì kiến chấp, ngã chấp càng thêm sâu dày (bản ngã to lớn). Trí tuệ này rất nguy hại cho người tu hành đạo giải thoát của đạo Phật. Xưa Ông A Nan vì có trí tuệ này mà sự tu hành trở nên chậm chạp.

Vận bĩ (ĐườngVề.4) tức là nhân quả xấu ác.

Vị (TâmThư.1) cay, đắng, ngọt, bùi,…

Vi diệu pháp (PhậtDạy.2) ba cấp Giới luật (Thiện pháp), Thiền định (Tứ Thánh Ðịnh), Trí tuệ (Tam Minh), và Bát Chánh Ðạo. Chỉ có pháp Như Lý Tác ý mới tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ và Bát Chánh Ðạo có kết quả tốt đẹp thôi.

Vị minh sư của đạo Phật (ĐườngVề.1) là “Giáo Pháp và Giới Luật của đức Phật”, đức Phật nhờ nương vào giáo pháp và giới luật này mà Ngài tu chứng đạo.

Vị Thầy (CưSĩTu) thì phải giới luật nghiêm chỉnh, đã chứng đạt chân lý, đầy đủ khả năng giúp các bạn tìm hiểu về Phật giáo không còn sợ sai lầm.

Vị thầy làm cho mù mắt phật tử (TâmThư.2) Những vị thầy nào hướng dẫn mọi người cầu tha lực, cúng bái tụng niệm, ngồi thiền, trì chú, cầu siêu, cầu an, v.v… Ðó là những vị thầy làm cho mù mắt phật tử, để phật tử không bao giờ thấy được chánh pháp của Phật. Những vị thầy đó là những tà sư ngoại đạo, phải cẩn thận đừng nên nghe những lời lừa đảo của họ, và bằng những năng lực tưởng của họ khiến cho mọi người không biết phải kinh sợ và thán phục họ.

Vị tưởng (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là những mùi vị cay, đắng, mặn, ngọt....do tưởng uẩn trong ta biến hóa lưu xuất hiện hành phát ra mùi vị ấy như vậy. Mùi vị này chỉ người có tưởng hoạt động nhận được, hay người tu thiền sai pháp lọt vào định tưởng mà nhận ra được mùi vị này.

Việc rầy rà (GiớiĐức.2) có hai loại: 1. Trong lời nói rầy rà kéo dài ra, 2. Trong việc tìm lỗi rầy rà, bươi móc ra.

Việc tranh chấp (GiớiĐức.2) gồm có bốn loại: 1- Ngôn trách. 2- Mích trách. 3-Phạm trách. 4- Sự trách.

Viên mãn (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là tròn đầy, đầy đủ, không còn thiếu khuyết một chỗ nào cả.

Viên mãn mọi thành tựu (PhậtDạy.1) là tất cả những pháp môn tu hành của Phật giáo đều đã tu hành xong.

Vinh quang (TâmThư.2) là làm một cái gì thành công, không có nghĩa là thăng quan tiến chức, người học trò thi đậu là vinh quang.

Vỏ ngoài (TrợĐạo) thành tựu giới đức (mới giữ được giới luật nghiêm chỉnh) (Trung Bộ, kinh số 29. Ðại Kinh Thí Dụ Lõi Cây).

Vọng tưởng (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.5)(ĐườngVề.6)(12Duyên)(CầnBiết.4)(Tạoduyên) là những tư niệm lăng xăng tự động khởi trong đầu, trong tâm của chúng ta, do thất tình lục dục thúc đẩy ý thức tưởng sinh ra, phần nhiều thuộc về quá khứ (hồi niệm, hồi ức) và vị lai. Những tư niệm này căn gốc đều do lòng ham muốn và ác pháp tham, sân, si sanh ra, nên kinh sách Nguyên Thủy gọi là tầm ác. Vọng tưởng là ý thức câu hữu với tưởng thức, có nghĩa là tâm ly dục, ly ác pháp chưa hết. Khi ý thức câu hữu với tưởng thức thì thế giới hữu hình và thế giới siêu hình đều ở trong ta và đang hoạt động từng phút giây, vừa hoạt động kết hợp với nhau mà cũng có những sự hoạt động riêng lẽ như trong giấc mộng.

Vô chứng (ĐườngVề.10)(CầnBiết.2) là không thấy mình chứng đắc, còn thấy mình chứng đắc là chưa chứng đắc (Vô sở đắc) (kinh Kim Cang)

Vô dục (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là không còn ham muốn.

Vô hại (PhậtDạy.1) là pháp thiện, pháp không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, tức là “ly dục ly ác pháp”.

Vô hại tầm (ĐườngVề.3)(CầnBiết.5) là tâm không còn mưu đồ tính toán hại người, nói xấu người.

Vô ký (ĐườngVề.1)(ĐườngVề.10)(4Tâm) là thiếu sự tỉnh thức, là mất tỉnh giác, quên, mất ý thức, tâm không còn tỉnh giác. Khi quên thì vọng niệm liền khởi.

Vô lậu (ĐườngVề.1)(ĐườngVề.9) nghĩa là không còn tham, sân, si; không còn phiền não, tức giận; không còn tham danh, chức tước, quyền cao; không còn đắm lợi chùa to, Phật lớn, tiền bạc nhiều, v.v… Ðịnh Vô Lậu là không còn đau khổ, không còn đau khổ tức là không còn chướng ngại pháp trong tâm. Chướng ngại pháp trong tâm tức là ác pháp. Ðức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” là để thoát khổ, nếu người không có nhiệt tâm ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp thì khó mà giải thoát được. Người tu Ðịnh Vô Lậu cũng như sử dụng pháp Hướng Tâm mà không có nhiệt tâm dứt khoát từ bỏ, thì sự tu tập chỉ có hoài công vô ích và uổng phí một đời tu hành, chẳng bao giờ có giải thoát.

Vô lượng (4Tâm) là tràn đầy, phủ trùm.

Vô lượng Tâm (4Tâm) là tâm rộng lớn mênh mông, phủ trùm tất cả chúng sanh, không thể nào suy lường, tính toán được. Tâm này thoát ra khỏi sự ràng buộc của mọi tình cảm, thương ghét, giận hờn, tỵ hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mạn của phàm phu; phá vỡ mọi tà kiến, thân kiến, chấp kiến. Vô lượng tâm còn có nghĩa là đẳng tâm, là tâm bình đẳng (xem người và vật như nhau). Tâm này tự nhiên, không so đo, cao thấp, hơn kém, mà phổ biến, ban rải khắp mọi nơi, mọi chỗ, không giới hạn. Vô lượng phải hiểu qua năm trường hợp sau đây:

1/ Vô lượng nhân lành: đem lại nhân lành cho mọi người. Thí dụ khi người ta chửi mình thì mình không giận mà còn năn nỉ để họ mát dạ, không chửi nữa. Đó là ta thông cảm và giúp đỡ họ.

2/ Vô lượng quả đẹp: luôn luôn đem đến sự tốt đẹp, không phiền toái, khiến cho chúng sanh nào cũng được an lành.

3/ Vô lượng chúng sanh: mang lại lợi ích cho rất nhiều chúng sanh. Thí dụ trong y áo của chúng ta có đầy kiến. Học tập tâm từ thì ta không nên đập giủ mạnh khiến cho chúng có thể bị thương tích và chết mất. Vì mưa gió cho nên chúng mới chạy vào nhà tìm nơi trú ẩn. Nếu ta không muốn cho chúng vào thì phải ngăn chận từ đầu. Bây giờ nó vô đầy trong nhà mà ta quét đổ hết ra ngoài mưa, hoặc đem đốt đi thì tội vô cùng.

4/ Vô lượng thế giới: cả thế giới trùng trùng, điệp điệp (không gian).

5/ Vô lượng đời kiếp: đời đời kiếp kiếp được an lành (thời gian).

Do trau dồi tâm bình đẳng này mà làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh thoát khổ. Tâm này có công năng mang lại cho chúng sanh vô lượng phước báo, nghĩa là không bao giờ làm phiền lòng ai. Biết rằng ở đời ai cũng có cái khổ, cái khó khăn, nên ta cần phải thường xuyên áp dụng tâm bi. Thí dụ khi có một người tức giận ta, ta hiểu là người ấy đang khổ (bởi vì tâm bình thường đâu có đau khổ). Khi thực hiện tâm bi là thực hiện ở chỗ đau khổ, tai nạn của người. Càng trau dồi tâm thì nó càng rộng lớn và sự hiểu biết của ta càng phát triển. Từ đó ta mới thực hiện tâm vô ngã.

Vô minh (PhậtDạy.1)(Phậtdạy.3)(ĐườngVề.1)(ĐườngVề.6)(ĐườngVề.9)(12Duyên)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3)(CầnBiết.4)(10Lành) tức là mê mờ, không sáng suốt, chấp đắm vật chất, nuôi lớn ngã mạn, tạo nhiều điều ác độc, làm mọi việc mà không biết mình làm thiện hay ác và con người đau khổ. Vô minh là trạng thái hôn trầm, thuỳ miên, vô ký khiến cho thân lười biếng, muốn đi nằm, đi ngủ, nói chung là trạng thái tham ăn tham ngủ, không tinh tấn siêng năng tu tập. Khi tâm còn phiền não sân hận là còn Vô Minh, còn Dự Tính làm việc này việc khác là còn Chấp Thủ nên còn Vô Minh, không những trong đời này mà còn nhiều đời trước nữa. Hoạt động không sáng suốt là tạo ra nhiều khổ đau. Vô minh là không thấu rõ các pháp thế gian, lầm chấp chúng là thật có nên hành động chạy theo tâm ham muốn, sanh ra các ác pháp, tạo biết bao nhiêu nghiệp khổ đau, do thế kinh dạy: “Vô minh sanh hành”. Phần đông trong xã hội loài người, đều là những người vô minh. Đức Phật xác định Vô minh nghĩa là sự hiểu biết thông minh theo tâm ái dục, tưởng ái dục, nên sự hiểu biết ấy bị hạn cuộc trong không gian và thời gian. Vô minh ở đây là sự hiểu biết thông minh theo tâm ái dục, tưởng ái dục, nên sự hiểu biết ấy bị hạn cuộc trong không gian và thời gian. “Bị vô minh ngăn che” tức là bị sự hiểu biết ái dục, tưởng dục ngăn che làm cho mọi người không thấy, không hiểu rõ mọi sự việc như thật. Do không thấy, không hiểu biết mọi sự vật như thật nên sinh ra tham ái dính mắc, chấp chặt không dám buông bỏ. Vô minh không phải là không biết mà biết sai sự thật, biết không chánh kiến, tức là vô tình làm ác nên phải chịu lấy muôn ngàn sự khổ đau trong kiếp hiện tại. Người không biết nhân quả không sợ nhân quả mà cứ làm ác thì cũng chịu đủ mọi sự khổ đau trong hiện kiếp. Vô minh là sự hiểu biết theo tâm ham muốn của mình (ái dục), là sự hiểu biết đối với các pháp không đúng như thật; hiểu biết một cách lệch lạc thiếu khoa học; hiểu biết theo chủ quan, thiếu thực tế và cụ thể; hiểu biết trong các pháp đối đãi, hiểu biết trong hạn hẹp và hiểu biết bằng tưởng tượng, v.v… cái hiểu biết bằng trí hữu hạn của con người từ thế giới hữu hình đến thế giới siêu hình, hiểu biết mọi vật là thật có, cái thế giới siêu hình cũng cho là có thật. Vì cho là thật, nên luôn luôn bị dính mắc chấp đắm, do sự dính mắc chấp đắm các pháp mà con người tạo biết bao nhiêu điều đau khổ cho nhau, biến cuộc sống con người trên hành tinh này thành địa ngục. Trí tuệ vô minh là sự hiểu biết không thấu suốt các pháp thế gian. Trí tuệ vô minh do học hỏi nên chấp ngã và dính mắc các pháp khó buông bỏ. Có Vô Minh là vì có “lòng ham muốn”, do ham muốn mà Vô Minh có, nên đức Phật dạy “ly dục ly ác pháp” thì Vô Minh sạch, Vô Minh sạch thì gọi là Minh. Vô minh có nghĩa là hiểu biết rất rõ ràng, thông minh, có trí tuệ, không ngu dốt, v.v... nhưng nó thường đối mặt với minh, nên nó có một nghĩa khác hơn minh. Phần đông trong xã hội loài người, đều là những người vô minh. Những người vô minh không riêng giới bình dân ít học, tay lấm chân bùn, cùng đinh khốn khổ, sống không đủ cơm ăn áo mặc, mà cho đến những giới trí thức có đầy đủ học thức, như những nhà Bác học, những ông Giáo sư, các Bác sĩ, Thạc sĩ, Tiến sĩ và những nhà khoa học danh tiếng, v.v... tuy họ có trình độ học thức về đời cao như vậy, nhưng đối với Phật giáo họ vẫn là những người vô minh. Ngày xưa cho đến ngày nay, Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, Thầy Tổ (các thầy Ðại Thừa) và tất cả mọi người chung quanh ta đều dạy cho chúng ta sự hiểu biết thường tục, gọi là kiến thức; nhưng kiến thức ấy luôn luôn mang đầy ắp những ái dục tri, ái dục tưởng tri. Muốn chấm dứt tái sanh luân hồi thì phải diệt trừ vô minh. Do vô minh mà có tham ái; do tham ái mà thích cái này cái kia; do ưa thích cái này cái kia mà phải chịu tái sanh luân hồi, khổ đau muôn kiếp. Như vậy, vô minh là vấn đề quan trọng hàng đầu trong sự tu tập thiền định của Phật giáo, là đề tài tối hậu cần phải tiêu diệt, cần phải từ bỏ, cần phải xa lìa, v.v... Con đường tu tập theo Phật giáo ý thức là vũ khí hàng đầu trong việc đánh giặc sanh tử. Dùng ý thức tu tập đúng cách chúng ta mới ly dục ly ác pháp; nhờ ly dục ly ác pháp mà tâm mới nhập định; nhờ định mà ta có Tam Minh; nhờ Tam Minh mà vô minh mới diệt trừ tận gốc hay nói cách khác nhờ Tam Minh mà tham ái được diệt trừ tận gốc, tức chấm dứt tái sanh luân hồi. Người vô minh không riêng giới bình dân ít học, tay lấm chân bùn, cùng đinh khốn khổ, sống không đủ cơm ăn áo mặc, mà cho đến những giới trí thức có đầy đủ học thức, như những nhà Bác học, những ông Giáo sư, các Bác sĩ, Thạc sĩ, Tiến sĩ và những nhà khoa học danh tiếng, v.v… họ có trình độ học thức về đời cao như vậy, nhưng đối với Phật giáo họ vẫn là những người vô minh. Muốn vén sạch màn vô minh thì chúng ta phải có minh, tức là trí tuệ Tam Minh. Muốn có trí tuệ Tam Minh thì chúng ta phải tu tập bằng những con đường Bát Chánh Ðạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Chánh niệm tức là Tứ Niệm Xứ thuộc Ðịnh Vô Lậu. Vậy muốn tu tập Ðịnh Vô Lậu thì phải dùng ý thức, dùng pháp tác ý và pháp như lý tác ý. Vô minh là Thượng Phần Kiết Sử. Muốn đoạn diệt Thượng Phần Kiết Sử này để tìm cầu sự giải thoát thì duy nhất chỉ tu pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Vô minh bộc lưu (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là dòng thác ngu si không thấy như thật các pháp tức là sức mạnh của ngu si khiến cho chúng ta thấy các pháp không như thật.

Vô minh Kiết Sử (Phậtdạy.3) Trạng thái hôn trầm, thuỳ miên, vô ký khiến cho thân lười biếng, muốn đi nằm, đi ngủ, nói chung là trạng thái tham ăn tham ngủ, không tinh tấn siêng năng tu tập.

Vô minh là duyên của Hành (12Duyên) Vô Minh tức là không sáng suốt, mà hoạt động không sáng suốt là tạo ra nhiều khổ đau. Hành theo đạo đức nhân bản của Phật giáo là không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh. Không làm khổ mình, khổ người và tất cả chúng sanh là giải thoát. Đó là mục đích giải thoát của đạo Phật.

Vô minh tưởng (Đường Về.7) là tưởng uẩn khi gọi về vô minh.

Vô niệm (ĐườngVề.10)(CầnBiết.2) là không có niệm thiện, niệm ác trong đầu (Chẳng niệm thiện, niệm ác, bản lai diện mục hiện tiền), công án Thiền tông và kinh Pháp Bảo Ðàn.

Vô phân biệt (Tạoduyên) không phải là chỗ vô tâm vì cái biết vẫn còn nhưng không có phân biệt (chỗ này nói được chứ không làm được). Kinh sách phát triển và thiền Ðông Ðộ chấp nhận chỗ này là tu xong, còn Thập Mục Ngưu Ðồ cho tu đến chỗ này (vô phân biệt) chưa xong, còn tiến tu đến tranh 8, tranh 9 và tranh 10. Người trâu đều quên mà trong Thập Mục Ngưu Ðồ chưa xác định tu ở mức độ nào tương ưng với kinh sách phát triển và Thiền Tông. Ngược lại, Thiền Tông và kinh sách phát triển cũng không xác định tu ở mức độ nào mới tương ưng đúng với tranh số 8. Xin nói thêm: mọi trạng thái lặng do hôn trầm, thùy miên, vô ký và ngoan không đều có trạng thái người trâu đều quên.

Vô sắc ái Kiết Sử (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là Thượng Phần Kiết Sử. Những vật không hình sắc như các cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ thường sinh ra ưa thích và không ưa thích; như các hành: Thân hành, khẩu hành, ý hành làm cho chúng ta ưa thích. Muốn đoạn diệt Thượng Phần Kiết Sử này để tìm cầu sự giải thoát thì duy nhất chỉ tu pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Vô sắc cứu cánh thiên (Phậtdạy.3) trong kinh sách Ðại Thừa thường gọi bốn trạng thái thiền do tưởng thức tu tập tạo ra là Vô sắc cứu cánh thiên: 1/ Không Vô Biên Xứ Tưởng Thiên. 2/ Thức Vô Biên Xứ Tưởng Thiên. 3/ Vô Sở Hữu Xứ Tưởng Thiên. 4/ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng Thiên.

Vô sắc giới (TruyềnThống.2) là cảnh giới không hình tướng như giấc mộng, chiêm bao. Người hay bị mộng mị, chiêm bao là người không vượt qua cảnh giới vô sắc.

Vô sắc hữu (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là chỉ cho cảnh giới bốn thiền vô sắc. Cảnh giới bốn thiền vô sắc tức là trạng thái Tứ Không Tưởng Định mà trong kinh sách Đại Thừa thường gọi là bốn cảnh Trời vô sắc: 1/ Không Vô Biên Xứ Tưởng Thiên, 2/ Thức Vô Biên Xứ Tưởng Thiên, 3/ Vô Sở Hữu Xứ Tưởng Thiên 4/ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng Thiên. Bốn trạng thái thiền này do tưởng thức tu tập tạo ra, nên gọi là bốn vô sắc cứu cánh thiên. Khi nói đến "Vô sắc hữu" là nói đến bốn định tưởng này.

Vô sân tầm (ĐườngVề.3)(CầnBiết.5) là tâm không còn giận hờn.

Vô sở hữu xứ tưởng định (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là loại định vô sở hữu xứ tưởng, một trong bốn định vô sắc của ngoại đạo.

Vô tâm (ĐườngVề.10) là một loại thiền định của Ðại Thừa và Thiền Ðông Ðộ, trong định này thân không định tức là thân còn hoạt động (còn thở ra, vô). Thân không định thì không thể nào thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh được. Nếu không thực hiện được Tứ Như Ý Túc và Tam Minh thì không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.

Vô tâm nhưng liễu liễu thường tri (ĐườngVề.10) nghĩa của nó cũng giống như chân không diệu hữu, chỉ nói được chứ không sống với cái đó được là tại vì nó là cái bánh vẽ.

Vô Thượng Sĩ (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) nghĩa là bậc cao hơn hết trong các hàng chúng sanh. Một con người làm chủ tột đỉnh giải thoát, không còn có sự giải thoát nào cao hơn nữa. Vô thượng sĩ còn gọi là “Thánh hạnh giải thoát cao nhất”.

Vỏ trong cây (TrợĐạo) thành tựu Thiền định (nhiếp tâm BẤT ÐỘNG một hai giờ)(Trung Bộ, kinh số 29. ÐẠI KINH THÍ DỤ LÕI CÂY).

Vô trụ (ĐườngVề.10)(CầnBiết.2) là tâm không trụ bất cứ một nơi nào cả (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, kinh Kim Cang).

Vô tướng tâm định hay Bất Ðộng Tâm Ðịnh (PhậtDạy.4)(ĐườngVề.5)(CầnBiết.5) là trạng thái khi căn, trần tiếp xúc tác động vào thân mạng mà không sanh ra ba lậu hoặc (Ba lậu hoặc là tham, sân, si). Bất Ðộng Tâm Ðịnh và Vô Tướng Tâm Ðịnh chỉ là một loại định mà hai tên khác nhau. Vô Tướng Tâm Ðịnh, Bất Ðộng Tâm Ðịnh là nhập Sơ Thiền nhưng không có năm chi thiền 1/ Tầm, 2/ Tứ, 3/ Hỷ, 4/ Lạc, 5/ Nhất tâm. Tâm giải thoát không còn khổ đau vì cuộc sống làm người. Vô tướng tâm định tức là tâm không phóng dật, là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm không động hay gọi “không tánh”. Trong vô tướng tâm định không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu; do ba lậu hoặc này không có nên tâm không phóng dật, Tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ tức là vô tướng tâm định. Khi loại trừ xong các loại tưởng (thôn tưởng và nhân tưởng, lâm tưởng, điạ tưởng, không vô biên xứ tưởng, thức vô biên xứ tưởng, vô sở hữu tưởng, phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng) thì còn lại một cái đó là vô tướng tâm định.

Vũ trụ quan của Phật Giáo (CầnBiết.4) vũ trụ quan của Phật Giáo chỉ ở trên một tụ điểm của không gian và thời gian từ đó nhìn thấy vạn pháp do 12 nhân duyên hợp lại mà thành, vì Phật Giáo có khả năng nghe thấy và hiểu biết không có không gian và thời gian, không phải là một thế giới vật lí mênh mông vô tận ở bên ngoài, như mọi người đang cảm nhận và tư duy, vì thế loài người đang cố công tìm kiếm và nghiên cứu để biết nó cho rõ ràng. Nhưng sức con người có hạn, còn vũ trụ vật lí là vô hạn, cho nên sự tìm tòi nghiên cứu để hiểu biết về vũ trụ thì phải có một thời gian dài vô tận. Từ khi có mặt loài người xuất hiện trên hành tinh này cho đến ngày nay, thường con người không ngừng tìm hiểu vũ trụ, nhưng cuối cùng cũng chẳng ai hiểu gì nhiều về vũ trụ cả. Chỉ toàn là tưởng tri, họ còn đang ở trong màn vô minh, đen tối. Xưa có những người cho rằng quả đất vuông, nhưng ngày nay quả đất tròn; xưa có những người cho rằng mặt trời đi chung quanh trái đất, nhưng ngày nay quả đất đi chung quanh mặt trời. Do thế những điều con người hiểu biết chưa chính xác, sự hiểu biết ấy còn nhỏ nhoi, cái sai thì nhiều cái đúng thì ít. Còn vô lượng cái mà con người chưa biết đến. Vũ trụ mênh mông, vạn vật vô cùng. Muốn biết nó thì phải vượt ra ngoài nó. Thế giới quan của Phật Giáo có 12 nhân duyên. Khi 12 nhân duyên này hợp lại thì thế giới thành hình. Thế giới thành hình thì sự khổ đau của muôn loài cũng theo đó mà có.

Vừa thường vừa đoạn kiến (CầnBiết.2)(CầnBiết.3) Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không như ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ðó là lối lý luận trườn uốn như con lươn, để rồi Ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã chơn không, thành ra thường kiến, cuối cùng Ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ. Kỳ thực luận thuyết Chơn Không của Ngài Long Thọ đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có danh từ là khác mà thôi.

Vững trú trong thiện pháp (4Tâm) là không cho ác pháp chiếm tâm hay đặt chân vào tâm, luôn luôn đề cao cảnh giác.

Vương Tử (TrợĐạo) những người giàu sang phú quý.

Vượt qua bốn loại định tưởng (ĐườngVề.5) Vượt qua có nghĩa là bỏ qua không cần phải nhập bốn định tưởng này, vì bốn loại định tưởng này Ðức Phật đã được Ngài Kalama dạy nhập Vô Sở Hữu Xứ Tưởng Ðịnh và Ngài Uddaka dạy nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Ðịnh, những loại định tưởng không có quả giải thoát, nên đức Phật dẹp bỏ, chỉ cần nhập Vô Tướng Tâm Ðịnh là tìm thấy được sự giải thoát ngay liền. Cho nên nghĩa vượt qua ở đây là ném bỏ không cần thiết cho sự tu tập theo đường lối của Phật giáo.

Vượt qua cảnh giới vô sắc (ĐườngVề.3) tức là vượt qua các loại định tưởng.

X

Xan tham (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là tính keo kiệt. Tính keo kiệt gồm có năm:

1- Xan tham trụ xứ: Tâm dính mắc nơi mình ở, không rời bỏ được, nếu ai xâm phạm đến đất đai, nhà cửa chỗ ở là các bạn sẽ ăn thua đủ với họ. Tình trạng kiện thưa đất đai. Ở trên đất người khác mà muốn chiếm luôn, tranh chấp từng tấc đất theo ranh giới, tính keo kiệt về đất đai nơi mình ở. Ðó là xan tham trụ xứ.

2- Xan tham gia đình: Tâm dính mắc gia đình, không rời bỏ được gia đình, nếu có sự rời bỏ gia đình là buồn khổ và đau đớn. Có nhiều người muốn đi tu vì biết đời là khổ, nhưng không rời bỏ gia đình được, luôn luôn viện cớ bằng cách này, bằng cách khác, đó cũng chính là xan tham gia đình. Người quyết tâm đi tu rời bỏ gia đình là người không xan tham gia đình, là người đầy đủ nghị lực, kiên cường và có tính cương quyết, nên mới xả được tâm xan tham.

3- Xan tham lợi dưỡng: Tính ưa ăn ngon mặc đẹp, muốn cho mình sống đầy đủ phủ phê, sung sướng bằng của đàn na thí chủ không phải bỏ sức lao động.

4- Xan tham dung sắc: Tích ưa thích sắc đẹp. Ưa thích sắc đẹp là ưa thích sắc dục, ưa thích tính sắc dục là thân tâm cấu uế, bất tịnh, thân tâm không thanh tịnh.

5- Xan tham pháp: Thấy mọi vật gì cũng sinh tâm ham thích: nhà, cửa, ruộng vườn, đất đai, thú vật, vàng bạc, của báu, xe cộ, đồ đạc, v.v… Người có đủ năm thứ xan tham này thì cuộc đời rất là đau khổ. Muốn đoạn trừ năm xan tham này để tìm cầu sự giải thoát thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ.

Xá lợi (PhậtDạy.4)(ĐườngVề.9) là những mảnh xương của Phật khi chết đem thiêu cháy không hết còn sót lại, người đời sau vì kính trọng những mảnh xương của Phật nên gọi là xá lợi cho có vẻ tôn trọng và cung kính, chứ nó là một chất bẩn thỉu uế trược, bất tịnh của thân tứ đại, không phải do tu tập thiền định mới có xá lợi. Các Tổ đã tán dương xá lợi, nào là do tu thiền định mới có; nào là do tu chứng quả mới có.

Xả (ThiềnCănBản) có nghiã là bỏ ra, ném ra, không cần dùng nữa, không còn trở lại thói quen tật cũ tức là nghiệp cũ.

Xả bỏ lòng hung ác (GiớiĐức.2) là phải xả bỏ gậy, gộc, đao, kiếm như trên đã dạy. Bỏ gậy, gộc, dao, kiếm tức là tạo duyên nghe pháp, tạo duyên nghe pháp tức là tạo duyên làm thiện, sống thiện. Người mà bỏ gậy gộc, dao, kiếm là người muốn quay về thiện pháp, người ấy đáng được nghe chánh pháp của Phật.

Xả bỏ năm thứ dục lạc (4Tâm) sắc dục, tiền bạc, danh tiếng, ăn, ngủ.

1/. Tránh xa sắc dục: đừng gần gũi người khác phái.

2/. Không cất giữ tiền bạc, châu báu. Nó là con rắn độc khiến cho ta phải nô lệ nó suốt đời. Bởi vậy trong giới luật Phật cấm các tỳ kheo cất giữ tiền bạc, mà những người mới xuất gia, thọ giới sa di cũng không được cất giữ tiền bạc.

3/. Tránh xa danh lợi: nếu ai khen mình tụng kinh hay mà mình tụng, thâu băng đem phổ biến thì đó là cầu danh. Nếu ai khen thuyết pháp giỏi mà mình ra sức thuyết pháp hoài thì cũng là danh, là dục lạc.

4/. Ăn mỗi ngày một bữa. Phải quán thức ăn là bất tịnh, như thuốc trị đói cho ta.

5/. Ngủ phải luôn luôn tỉnh thức, không có sợ thiếu ngủ, thèm ngủ. Nằm suốt đêm không ngủ là xả ngủ.

Năm thứ dục lạc này mà ta không xả được thì không bao giờ ta xả được sáu thứ dục lạc thế gian (sắc, thanh, hương, vị, phúc, pháp). Sáu thứ dục lạc thế gian còn khó hơn ngũ dục lạc rất nhiều. Sáu thứ dục lạc thế gian là đối tượng của tâm, nó luôn luôn cám dỗ ta, để ta trở lại phục vụ năm thứ dục lạc ở trên.

Xả bỏ những ác pháp (ĐườngVề.3) là xả bỏ những pháp tác động vào thân tâm làm khổ đau.

Xả bỏ sáu thứ dục lạc (4Tâm) Đó là đối tượng của sáu giác quan: sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp.

1/. Sắc: sắc là đối tượng của mắt. Sắc trong ngũ dục lạc là sắc dục, còn sắc trong sáu trần là hình ảnh, sắc tướng của các pháp, như cassette, TV, tủ lạnh, bàn, ghế, ly, tách, nhà, xe, người, vật. Những đối tượng của sáu giác quan đó có sức cám dỗ ta, tâm ta thích thú, khả ái, khả lạc, khả hỷ.

2/. Thinh: âm thanh của người, vật, nhạc cụ làm cho tâm ta thấy khả ái, khả lạc, khả hỷ. Thí dụ thích thú khi nhảy đầm theo điệu Rumba, Cha cha Cha, v.v...

3/. Hương: mùi thơm của các pháp có sức hấp dẫn khiến cho ta thấy khả ái, khả lạc, khả hỷ.

4/. Vị: mùi vị ngon ngọt, cay đắng, có sức cám dỗ làm cho ta dễ chịu, ưa thích, khả ái, khả lạc, khả hỷ. Đứa con ăn cái bánh ngon cả tháng mà vẫn còn nhớ, còn thèm, và cứ nhắc hoài.

5/. Xúc: Sự va chạm của các pháp sinh ra cảm giác mát, êm, nóng, lạnh, đau nhức, nhẹ nhàng, lâng lâng, say say, cảm giác khoái lạc, cảm giác khó chịu, cảm giác sung sướng, mừng vui, buồn khổ ...

Người tu thiền mà có trạng thái thích thú say mê là đi vào hang quỉ. Nên nhớ là tu thiền để làm chủ sanh tử, tức là làm cho các hành ngưng hoạt động; sau đó thì ta cho phục hồi sinh hoạt, trở về hơi thở bình thường. Tu thiền không phải là đi vào đó để thọ dụng cái lạc thú của thiền định mà là để lấy lại sức cho ngày hôm sau tiếp tục làm việc. 6/. Pháp: pháp ở đây không có nghĩa là bàn ghế, nhà, cửa mà là sự hiểu biết của cổ kim, nhân loại. Nó bao gồm cả khoa học, toán học, văn học, sử học, thiên văn học, các kinh sách của các tôn giáo lớn trên thế giới và giáo lý của Đức Phật. Đó là kiến chấp của người thế gian. Nó lôi cuốn và làm cho tâm ta ưa thích, xem đó là chánh pháp, là đúng pháp, ôm chặt khư khư, cho đó là khuôn vàng thước ngọc. Tu hành như thế khiến cho ta thấy khả ái, khả lạc, khả hỷ, rồi dính mắc không buông bỏ được. Vì thế mới có tranh luận hơn thua, chia ra pháp này, pháp nọ, không có gì giải thoát. Thí dụ cúng kiếng vào các ngày giỗ, kỵ (ở nhà), hoặc là giỗ tổ (ở chùa), nếu ta không làm thì bị mọi người than phiền, chỉ trích. Mà làm tức là bị các pháp trói buộc, ta làm nô lệ cho phong tục, tập quán.

Xả của cải (Phậtdạy.3)(PhậtDạy.4) của cải là tài sản, ruộng vườn, đất đai, nhà cửa, chùa to, Phật lớn, v.v…là xả cái duyên lìa tội ác. Xả của cải tài sản, v.v... là xả cái quả của tội ác. Không xả bỏ của cải và diệt tâm tham thì pháp sám hối không thành, tội không bao giờ hết.

Xả Giác Chi (ĐườngVề.9)(TrợĐạo) có hai cách:

a- Xả Giác Chi thứ nhất, chúng ta không cần nhập định Tứ Thiền mà chỉ với tâm định tĩnh chúng ta nhìn các pháp với ý niệm xả ly, không một pháp nào còn dính mắc trong tâm của chúng ta nữa. Toàn cả vật chất thế gian này chúng ta đã buông bỏ xuống sạch, như trong kinh dạy: “Trong khi Ðịnh Giác Chi được tỳ kheo tu tập. Trong khi Ðịnh Giác Chi được tỳ kheo làm cho đi đến sung mãn. Vị ấy với tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn sự vật với ý niệm xả ly, trong khi ấy Xả Giác Chi bắt đầu khởi lên nơi tỳ kheo”. Ðây là trong giai đoạn chúng ta sống bình thường trong tâm định tĩnh, nhu nhuyễn như lúc chuẩn bị nhập Tứ Thiền, nhưng không nhập Tứ Thiền mà ở trạng thái đó, thực hiện Xả Giác Chi.

b- Xả Giác Chi thứ hai tức là hướng tâm đến Tam Minh. Lúc bấy giờ chúng ta chứng và trú Thiền Thứ Tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh có nghĩa là tịnh chỉ hơi thở hoàn toàn. Khi nhập định này tâm chúng ta định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản vì thế chúng ta hướng tâm đến Tam Minh một cách dễ dàng, không có mệt nhọc không có khó khăn. Xả Giác Chi này chỉ xuất hiện trên trạng thái Định Giác Chi kéo dài mãi suốt bảy ngày đêm không có một niệm nào xen vô xen ra trong trạng thái thân tâm bất động trên Tứ Niệm Xứ.

Xã hội thiếu đạo đức (ĐạoĐức.1) là một xã hội mà mọi người đều gian ác, xảo trá, lừa đảo, lường gạt bằng mọi cách. Luôn luôn họ phải bon chen, đấu tranh, chà đạp lên nhau để tìm miếng ăn, manh áo, để tìm vật chất và tiền bạc, châu báu, ngọc ngà cho nhiều, v.v... Vì thế, đó là một xã hội rất phức tạp, rất đen tối, không trật tự, thiếu an ninh... một xã hội xem cá nhân là quan trọng, là trên hết, nên không còn có con người sống liêm sỉ, chí công, vô tư. Họ không còn biết yêu thương nhau, chỉ biết có tiền và vật chất, vì thế mà đạo đức lần lần biến mất.

Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh (Tạoduyên) là xả thọ, tức là đoạn ái, tức là chấm dứt sự đau khổ. Thọ là then chốt của nghiệp ái. Nghiệp để cho thọ, ái để cho thọ; dùng Tứ Thiền xả thọ, thì nghiệp và ái không còn tác dụng, cho nên, gọi là diệt nghiệp đoạn ái. Diệt nghiệp là làm chủ thân tâm; đoạn ái là chấm dứt tái sanh luân hồi.

Xả tâm (ĐườngVề.2)(ĐườngVề.3)(ĐườngVề.4)(CầnBiết.2)(CưSĩTu)(TâmThư.2) Xả tâm là tối ngày giữ mình là người vô sự, không làm gì hết, cứ ngồi mà xả tâm thôi, niệm gì khởi lên cũng xả hết. Cái tâm lúc đầu khởi lên niệm sai bảo mình làm, sau đó nó không sai bảo được nữa là mình đã phá sạch các dục, tức là thư giãn xả tâm. Tâm sạch hết các dục, sạch hết các lậu hoặc thì tâm thanh tịnh. Cái tâm suy nghĩ, sai sử chính là chướng ngại pháp (nên đức Phật nói là “Ðẩy lui chướng ngại pháp”). Trước khi xả một niệm nào trong tâm phải có sự tư duy suy nghĩ cho thấu đáo nghĩa lý của niệm đó và còn phải biết áp dụng đức hạnh của giới luật vào niệm đó để chuyển hóa niệm. Sự chuyển hóa niệm gọi là xả tâm, cho nên Ðức Phật bảo: “Tri kiến ở đâu thì đức hạnh giới luật ở đó, đức hạnh giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh đức hạnh giới luật”. Trong thân chúng ta có bốn chỗ để xả: 1- Thân; 2- Thọ; 3-Tâm; 4- Pháp. Khi tâm có niệm chướng ngại pháp khởi sanh thì phải tỉnh ngay niệm khởi đó để dùng Ðịnh Vô Lậu quán xét cho thấu suốt niệm khởi đó để đẩy lui ra khỏi tâm. Tâm tỉnh giác trong hành động làm, tức là tâm biết mình đang làm công việc đó, không có niệm khởi thì đó mới chỉ là tỉnh giác, chứ chưa xả niệm (xả tâm). Không phải tâm biết hành động làm là buông xả (xả tâm) mà chính pháp hướng tâm là buông xả. Xả tâm tham, sân, si phải được xả tận cùng, xả cho đến khi nào tâm không còn phóng dật thì mới có an ổn được, nếu tâm còn phóng dật thì nên đề cao cảnh giác các niệm, chứ đừng lơi lỏng mà hỏng chân, thất bại và có thể bỏ cuộc, cuối cùng không còn tu tập được gì cả. Vì chính không xả tâm tham, sân, si được thì bị ức chế tâm và ức chế tâm thì rất khổ đau, nên phải tu tập đi đến tận cùng con đường giải thoát xả tâm, đừng tu tập bỏ lỡ giữa đường. Trên bước đường tu tập theo đạo Phật, mỗi hành giả đều phải có những kinh nghiệm riêng tư, rút ra từ bản thân trau dồi rèn luyện thân tâm của mình, nhờ đó mới có thể đi đến kết quả giải thoát hoàn toàn làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Xả tâm là xả ác pháp, xả ác pháp là có giải thoát ngay liền. Nếu chưa thông suốt những điều cần thông suốt thì không xả được tâm mà còn ức chế tâm. Còn thông suốt những gì cần thông suốt thì đó là tri kiến giải thoát. Có tri kiến giải thoát thì xả tâm rất dễ dàng. “Thông suốt những gì cần thông suốt” là tri kiến giải thoát. Muốn có được Tri kiến giải thoát là nhờ tu học các lớp Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh.

Xả tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn (TâmThư.2) Lo giữ gìn giới luật và dùng pháp như lý tác ý.

Xả Tâm Chướng Ngại Pháp (TâmThư.1) không còn tu theo thời khoá nữa, tu trong tất cả thời gian.

Xả tâm sạch ác pháp (ĐườngVề.6) Người xả tâm sạch ác pháp là người giải thoát; là người đi trong đạo lộ của Phật; là người có chánh định, tâm hồn đang ở trong thiền thứ nhất; là người sẽ có đầy đủ Tam Minh, Lục Thông; là người đã làm chủ sanh tử luân hồi, chấm dứt sự tái sanh, làm chủ hoàn toàn cuộc sống.

Xả tâm trong hành động (8QuanTrai) nghĩa là đang làm công việc gì thì tỉnh thức ngay trong công việc đó, và luôn luôn xả tâm tham, sân, si của mình bằng câu pháp hướng (vô thường, khổ, vô ngã) để xả tâm trong hành động(như quét sân, lặt rau, nấu cơm). Thí dụ: khi đang quét sân, nhắc tâm xả tâm tham, sân, si: "Quán ly tham, tôi biết tôi đang quét sân", "Quán ly sân, tôi biết tôi đang quét sân","Quán ly si, tôi biết tôi đang quét sân"; "Quán ly tham, tôi biết tôi đang đi kinh hành". "Quán ly sân, tôi biết tôi đang đi kinh hành", "Quán ly si, tôi biết tôi đang đi kinh hành"…"Quán tâm vô thường, tôi biết tôi đang nấu cơm"... "Quán tâm vô thường, tôi biết tôi đang lặt rau". "Quán tâm vô thường, tôi biết tôi đang quét sân."… Ðó là vừa nhắc ta quán chiếu thân, thọ, tâm pháp trong từng hành động theo công việc làm, vừa xả tâm mình.

Xả tâm vô lượng (Đường Về.7) có nghĩa là tất cả các niệm sinh khởi trong tâm cũng như các cảm thọ nơi thân thì nên dùng tri kiến hiểu biết Chánh kiến và Ðịnh Niệm Hơi Thở xả sạch và đẩy lui các bệnh khổ.

Xả tâm, ly dục ly ác pháp (OaiNghi) xả tâm, ly dục ly bất thiện pháp như: ngũ triền cái, dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu và các pháp quán tư duy thân, thọ, tâm, pháp, thân ngũ uẩn đều vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, v.v... chuyển sang tu tập pháp quán trên thân quán thân trong bốn oai nghi. Phật pháp không khó vì tu tập với những pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ, mà khó vì lòng người không bền chí, kiên trì tu tập với pháp môn Tứ Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ.

Xả tham đọa (Phậtdạy.3)(PhậtDạy.4) Tham đọa tức là tham độc, (một trong ba độc tham, sân, si). Tham đọa nghĩa là lòng tham muốn; do lòng tham muốn đưa chúng ta vào cảnh khổ đau hay địa ngục. Lòng còn tham muốn là cái nhân của tội ác. Người tu theo Ðạo Phật phải thấy rõ cái nhân này: “Tâm tôi có tham, tôi biết tâm tôi có tham”, tức là tôi biết tâm tham là nhân của tội lỗi. Do đó, tôi phải ngăn và diệt nó, ngăn và diệt cái nhân tội lỗi là diệt lòng tham muốn của mình. Xả tham đọa tức là lìa cái nhân tội ác. Không xả tâm tham thì nhân luân hồi không dứt.

Xả tội (Phậtdạy.3) là dứt các nghiệp sanh tử, Không xả tội thì hạnh ô nhiễm không quên.

Xả tội ác (PhậtDạy.4) là dứt các nghiệp sanh tử. Tội ác do: 1- Duyên của tội ác là của cải. 2- Nhân của tội ác là lòng tham muốn. Vậy xả tội ác thì chỉ có xả nhân và duyên của nó, thì tội ác sẽ không còn nữa. Xả tội ác tức xả của cải và tâm tham muốn của chúng ta. Xả của cải thì dễ, nhưng xả lòng ham muốn thì khó, chỉ có những bậc thấy biết đời này khổ như thật thì mới làm được và làm rất dễ dàng. Ðức Phật đã xác định: “Không xả bỏ của cải thì pháp sám hối không thành”, nghĩa là tội lỗi không dứt, không bao giờ hết.

Xả Tứ Vô Lượng (TâmThư.1) Khi nào tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì tu tập pháp Xả Tứ Vô Lượng Tâm.

Xuất gia (OaiNghi)(TâmThư.1) là ra khỏi nhà (gia đình). Xuất gia có cụm từ “cắt ái ly gia”. Cụm từ này chỉ rõ khi người xuất gia thì cần phải cắt đứt tình yêu thương mọi người trong gia đình và lìa ngôi nhà từ lâu đã sinh sống. Bởi giặc sinh tử là một điều quan trọng nhất của kiếp sinh làm người, Vì lý do này mới ly gia cắt ái; mới xuất gia theo Phật tu hành; mới chấm dứt mọi liên hệ với những người thân trong gia đình, nhờ đó may ra mới làm chủ giặc sinh tử và thoát khỏi kiếp người làm nô lệ. Cho nên phải nỗ lực, kiên trì, dũng cảm tu tập để không còn làm tay sai cho bất cứ một người nào khác. Xuất gialà bỏ ngôi nhà thế tục đầy dẫy đau khổ, thương ghét, giận hờn, buồn phiền, lo toan, sợ hãi, v.v... để rồi vào ngôi nhà Như Lai tràn đầy sự bình an. Người xuất gia lo đóng cửa thất, không tiếp duyên ra ngoài, lúc nào cũng phòng hộ sáu căn không cho tiếp xúc với sáu trần, và nhất là hằng ngày phải siêng năng tu tập ly dục ly ác pháp. Có tu tập như vậy mới mong trả nợ nhân quả xong. Cho nên, người xuất gia đi ra ngoài, khỏi phạm vi tu viện là phạm nhiều giới. Nhất là sáu căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý tiếp xúc với sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không sao tránh khỏi phạm giới. Người xuất gia phải cảnh giác, đừng xem thường giới luật Phật mà phải đọa vào mọi sự khổ đau (địa ngục). Xuất gia là một đức hạnh lễ độ hiếu thảo hiếu sinh, là một đức hạnh lễ độ chung thủy hiếu sinh. Dùng uy quyền bắt buộc vợ con hay chồng con cho mình xuất gia là một điều trái đạo đức chung thủy hiếu sinh mà hãy giải thích cho vợ con hiểu biết xuất gia có lợi ích như thế nào cho bản thân và gia đình. Cho nên xuất gia đâu có nghĩa “bỏ mặc” những người thân trong gia đình mà không thăm viếng.

Xuất ly (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là lìa ra, bỏ ra.

Xuất ly và tàng trữ (PhậtDạy.1) Xuất ly là lìa ra, bỏ ra; tàng trữ là giữ lại, nén lại. Ý nghĩa của câu này là không biết cách xuất ly dục tham, nên dục tham thường khởi lên chỉ còn có giữ gìn trong tâm nên gọi là nén tâm. Do đó, dù có tu thiền định gì đi nữa thì vẫn bị sân, hôn trầm thùy miên, trạo cử, trạo hối và các loại tưởng định khởi lên.

Xuất sải (ĐườngVề.1) có nghĩa là ra đời (hoàn tục) lập gia đình.

Xúc (ĐườngVề.1)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3)(TâmThư.1) là sự va chạm của lục nhập. (trong 12 duyên) Xúc tạo ra sự va chạm êm ấm, ngọt bùi, khả hỷ, khả lạc nên kinh dạy: “Xúc sanh ra thọ”.

Xúc là duyên của Thọ (12Duyên) Xúc là sự Va Chạm, khi có Cảm Thọ là phải có sự Va Chạm (Xúc). Sự Va Chạm càng nhiều thì Cảm Thọ càng lớn. Vì vậy người tu hành cần phải quan tâm lưu ý Sáu Căn đừng Xúc Chạm với Sáu Trần mà sinh ưa thích, dính mắc, chấp đắm.

Xúc thực (ĐườngVề.9) còn gọi là lạc thực, có nghĩa là cách ăn bằng sự cảm xúc vui buồn. Ví dụ: Trong khi vui mừng, thấy mình no, hoặc khi buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, tức giận, cũng cảm thấy mình no; trong khi xem hát, nghe nhạc hoặc xem bóng đá cả ngày chẳng thấy đói. Như vậy lấy chỗ tâm mình cảm xúc mà làm thể ăn. Ðối với đạo Phật xem bốn sự ăn uống này (1- Ðoàn thực loại thô hay loại tế. 2- Xúc thực. 3- Tư niệm thực. 4- Thức thực) là ác pháp, là bất tịnh, là khổ đau, là trói buộc. Người tu hành theo Phật giáo cần phải quán xét nhàm chán trên bốn sự ăn uống này. Người tu sĩ đạo Phật cần phải cảnh giác, cần phải tu tập, cần phải quán xét và cần phải sanh tâm nhàm chán trong bốn sự ăn uống này.

Xúc tưởng (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.9)(CầnBiết.4) những hiện tượng phi không gian và thời gian của tưởng thức tạo ra như là những cảm giác nơi thân, nóng, lạnh, đau, nhức, ngứa, tê, mệt nhọc, v.v…do tưởng uẩn trong ta biến hóa lưu xuất hiện hành phát ra những cảm thọ như vậy. Xúc tưởng này nhận được chỉ có người có tưởng hoạt động, hay người tu thiền sai pháp lọt vào định tưởng mà nhận được cảm thọ này. Cảm thọ này có ba cách: 1- Thọ lạc, 2- Thọ khổ, 3- Thọ bất lạc bất khổ.

Xúc tưởng hỷ lạc (PhậtDạy.2)(TâmThư.1) là một trạng thái do tưởng uẩn sanh ra để làm ta thích thú hoan hỷ trong khi ngồi thiền vắng vọng tưởng có cảm nhận sự an lạc, đó là đã rơi vào thiền tưởng. Sự an lạc ấy gọi là xúc tưởng hỷ lạc. Còn khi nào ngồi thiền có vọng tưởng thì an lạc không có. Người tu thiền khi tu sai pháp thường ức chế tâm, do ức chế tâm nên xúc tưởng hỷ lạc sanh ra, từ đó, nếu không biết chặn đứng nó, cứ tiếp tục tu tập theo kiểu ức chế tâm, cho đến khi ý thức không còn hoạt động nữa thì người ấy đã trở thành người bệnh rối loạn thần kinh. Còn nếu ý thức còn hoạt động thì bị căng mặt, căng mũi, căng đầu, v.v... không thể nhiếp tâm được nữa.

Xứ này xứ khác (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) có nghĩa niệm này niệm khác.

Xưa kia (kinh Tiểu Không) (PhậtDạy.4) trong lúc đức Phật đang tu tập.

Xóc thẻ xăm Bà (Đường Về.7) Các Bà thường là những người Việt, Hoa, Chiêm Thành như: người Việt Nam có Bà Ðen, Bà Mẹ Sanh, Mẹ Ðộ, Bà Chúa Kho; hay người Trung Hoa có Lê Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Quan Âm; người Chiêm Thành có Bà Chúa Xứ, Chúa Tiên, Chúa Ngọc. Hằng năm đồng bào mê tín đến cúng bái nhang đèn, hoa quả, gà, vịt, heo quay, v.v... với một số tiền cúng rất lớn.

Xóc thẻ xăm Ông (Đường Về.7) Ông thường chỉ cho một danh tướng người Trung Hoa, đó là Quan Công hay còn gọi là Quan Vân Trường, (một danh tướng thời Tam quốc bên Trung Quốc), hay một danh tướng người Việt Nam như Lê Văn Duyệt, Thủ Khoa Huân, Trần Hưng Ðạo, v.v... Hằng năm đồng bào mê tín đến cúng bái nhang đèn, hoa quả, gà, vịt, heo quay, v.v... với một số tiền cúng rất lớn.

Y

Y (CữSĩTu) là nương tựa (quy y).

Y áo của phật tử (TâmThư.2) có ba màu: Lam, nâu và vàng. Hiện giờ cư sĩ Bắc Tông và tu sĩ Bắc Tông đều mặc y áo màu nâu và màu lam, còn màu vàng thì chỉ dành riêng cho tu sĩ thọ cụ túc giới mặc mà thôi. Nhưng bên hệ phái khất sĩ, Sa Di vẫn mặc y áo màu vàng nhưng y thượng chỉ có hai miếng vải lớn ghép lại. Khi các lớp Ngũ Giới được thành hình đầy đủ thì vấn đề ăn mặc mới được sắp xếp. Cư sĩ mặc màu gì? Tịnh nhân mặc màu gì? Sa di mặc màu gì? Tỳ kheo mặc màu gì? Lối ăn mặc của người cư sĩ và tu sĩ Phật giáo Ðại thừa đã trở thành lối ăn mặc chung của bốn giới đệ tử Phật.

Y nơi pháp thiện (ĐườngVề.8) tức là dùng trạch pháp giác chi chọn lựa một câu pháp hướng tâm cho phù hợp với đặc tướng của mình, để hằng ngày dùng câu đó như lý tác ý (tự kỷ ám thị). Chọn lựa câu pháp hướng thiện, không được dùng câu pháp hướng ác. “Tâm ly dục, ly ác pháp nhập Sơ Thiền”. Luôn tác ý về hơi thở, tức là tác ý hành tướng tầm thiện, cũng như luôn tác ý tất cả oai nghi tế hạnh đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả mọi việc, tức là tác ý hành tướng tầm thiện ngoại.

Y phấn tảo (GiớiĐức.2) có mười loại vải phấn tảo: 1- vải trâu nhai. 2- vải chuột cắn. 3- vải bị cháy nám. 4- vải do đàn bà có kinh nguyệt dùng. 5- vải đàn bà sanh dùng. 6- vải trong miếu thần, lâu ngày người ta thay vải mới. 7- vải chim tha, gió thổi bay rớt trong đồng mả. 8- vải cầu nguyện. 9- vải lên ngôi vua (khi nhà vua thọ đăng quang lên ngôi bỏ những vải và y cũ). 10- vải vãng hườn (vải đi đưa tống đám tang đem về). Tất cả những vải này trước khi may thành y, đều phải được giặt và khử trùng sạch sẽ. Cho nên, giới thứ bảy mươi ba dạy: khi giường, chõng, y, áo của người chết đều phải được giặt sạch sẽ thì mang đi chỗ nào Ðức Phật cũng không cấm, vì đã làm sạch sẽ, tiệt trùng, không còn truyền nhiễm, bẩn thỉu, hôi thúi, v.v...

Y pháp bất y nhân (ĐườngVề.1) nghĩa là y nơi pháp mà tu hành, đừng y vào các thầy, vì các thầy tuy dạy như vậy mà chưa có tu hành được như trong kinh đã dạy. Giảng sư là người nói được, chứ không làm được, là người nói láo, là người lừa đảo người khác bằng kinh sách.

Ý (4Tâm) Ý thì có ý căn (óc não), ý là nhân của tâm. dùng ý dẫn tâm để thực hiện tâm từ nơi bước đi "Dưới bước chân ta đi có rất nhiều sinh vật nhỏ bé và thảo mộc đang sống. Ta phải đi cẩn thận để tránh thương tổn, hoặc giết hại các sinh vật"

Ý căn (ĐườngVề.9)(TâmThư.1) là bộ óc của con người, ý căn ngưng hoạt động là bộ óc con người ngưng làm việc. Tứ Thiền hơi thở tịnh chỉ tức là hơi thở dừng, nhưng bộ óc còn hoạt động, còn nhập Diệt Thọ Tưởng Ðịnh thì bộ óc hoàn toàn ngưng nghỉ.

Ý hành (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là những hành động suy nghĩ nơi ý thức, sự hoạt động của ý, ý suy nghĩ ra những điều thiện, ý quán xét tư duy một việc gì, một sắc tướng, một âm thinh, một mùi hương, một mùi vị, một cảm giác, một lời nói, một câu văn, thơ, phú, v.v...

Ý hành nghiệp (Truyền Thống.1) là ý suy nghĩ một điều gì.

Ý hành thanh tịnh (Phậtdạy.3) là hằng ngày mỗi khi nghĩ đến một điều gì, thì phải tránh suy nghĩ điều ác, luôn suy nghĩ điều thiện, điều lành, không được suy nghĩ điều ác mà phải suy nghĩ những điều không làm khổ mình, khổ người.

Ý hành thiện (ĐườngVề.2) là ý không khởi nghĩ ham muốn một vật gì cả, ý không sân hận oán thù, ganh ghét ai cả, ý không si mê, thường sáng suốt nhận rõ mọi hành động nhân quả thiện ác để luôn luôn ý nghĩ đến điều thiện không làm khổ mình, khổ người.

Ý hòa đồng duyệt (ThanhQui) có nghĩa mọi ý kiến phải biết tùy thuận với nhau, phải biết trân trọng ý kiến của người khác để cuộc sống có sự an vui và yên ổn.

Ý là nhân, Tâm là quả (4Tâm) cho nên ý làm mà tâm chịu (ý làm ác tâm chịu khổ, ý làm thiện tâm hưởng phước). Ý thì có ý căn (óc não), còn tâm thì không có tâm căn, vì tâm là quả của ý, ý là nhân của tâm. Nếu gọi tâm mà bảo là ý thì cũng như đánh trâu kéo cày vừa la thá, vừa la ví thì con trâu biết đường đâu mà đi? Bởi vậy nên có người mới thắc mắc mà hỏi tại sao dùng pháp hướng nhắc tâm mà nó vẫn trơ trơ không có kết quả. Tại vì ta đặt không đúng chỗ, không đúng tên, không đúng trường hợp của nó thì làm sao có kết quả được?

Ý muốn của mình (ThiềnCănBản) là Bản Ngã Ác Pháp. Bản ngã ác pháp không ly thì làm sao có Niết Bàn? Vô Ngã ác pháp là Niết Bàn, chứ không phải vô ngã là Niết Bàn, vì vô ngã ác lẫn thiện là cây đá. Ðức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”.

Ý nghĩa 3 muỗng cơm (OaiNghi) tức là ba miếng ăn đầu tiên trước khi ăn cơm. Ba miếng cơm đầu tiên là thể hiện ba lời ước nguyện của người tu sĩ: - Miếng cơm thứ nhất ước nguyện: Ngăn ác, diệt ác pháp. - Miếng cơm thư hai ước nguyện: Sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp. - Miếng cơm thư ba ước nguyện: Tất cả chúng sanh đều ly dục, ly bất thiện pháp, không làm khổ mình, khổ người. Ba muỗng cơm dựa vào lời dạy của Phật, mang đầy đủ ý nghĩa trong các pháp tu học của một người theo Phật giáo: 1- Ngăn ác, diệt ác pháp. 2- Sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp. 3- Ly dục, ly ác pháp. Không làm khổ mình, khổ người. Ba muỗng cơm hòa chúng không đúng vì Phật dạy lục hòa, chứ không có tam hòa.

Ý nghiệp không thanh tịnh (PhậtDạy.2) do những thân, khẩu, ý hành còn làm những điều ác. Ý có ba nghiệp không thanh tịnh: 1- Ý tham dục, ham muốn cái này, cái kia, xan tham. 2- Ý sân hận, thù oán, ghen ghét, tị hiềm, tật đố. 3- Ý si mê, lười biếng ham ngủ nghỉ, hôn trầm thùy miên, vô ký.

Ý Thiện Hành (PhậtDạy.2)(CầnBiết.4) là hành động thiện của ý. Hành động thiện của ý là Chánh Tư Duy. Chánh Tư Duy là sự suy tư nghĩ tưởng không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả muôn loài vật. Ý Hành Thiện có năm: 1- Ý không khởi niệm tham, 2- Ý không khởi niệm sân, 3- Ý không khởi niệm si, 4- Ý không khởi niệm mạn, 5- Ý không khởi niệm nghi. Nếu ý khởi ra niệm mà có tham, sân, si, mạn, nghi thì không thể nào gọi là Ý Thiện Hành. Muốn tu tập Ý Thiện Hành hiện tiền thì hằng ngày chúng ta phòng hộ sáu căn. Phòng hộ sáu căn là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Ví dụ: Trong giờ đang tu tập Tứ Niệm Xứ thấy nhà dơ, khi xả thiền xong lấy chổi quét dọn cho sạch, thay vì giờ ấy là giờ xả nghỉ thư giãn thì chúng ta lại đi quét dọn, quét dọn là làm theo ý dục của mình; làm theo ý dục của mình tức là không phòng hộ ý căn. Không phòng hộ ý căn tức là không chế ngự tâm dục. Không chế ngự tâm dục tức là không ly dục ly ác pháp, mà mục đích tu hành của Phật là phải ly dục ly ác pháp để đạt cho được tâm bất động.

Ý thức (PhậtDạy.1)(ĐườngVề.5)(12Duyên)(ĐạoĐức.2)(TâmThư.1) Ý thức là sự phân biệt của bộ óc, thuộc về sắc uẩn, có sự ghi nhớ, nhớ lại, suy tư và hiểu biết, nhưng bị hạn cuộc trong không gian và thời gian, là cái biết của mọi người đang sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Ý thức có hai loại: 1/ Ý thức thiện. 2/ Ý thức ác. Ý thức ác gồm có ba hành động ác gốc: 1. Tham: là lòng ham muốn. 2. Sân: là lòng giận hờn. 3. Si: là tâm mê mờ, không hiểu biết, không sáng suốt.

Ý thức lực (ĐườngVề.5) đối với đạo Phật chỉ được quyền sử dụng ý thức lực, tâm thức lực còn tưởng thức lực thì luôn luôn phải đề cao cảnh giác, để ngăn và diệt trừ nó, không cho nó phát triển, nếu nó phát triển sẽ đưa hành giả vào tà định. Vì lực của tưởng ấm (tưởng thức lực) là lực của ma ngũ ấm. Lực của ma ngũ ấm thì lấy dục mà tăng trưởng, tức là lấy lòng ham muốn của con người làm gốc mà phát triển. Vì thế, khi lực của ma ngũ ấm phát triển thì tâm tham, sân, si càng gia tăng, ngã càng to lớn nhưng rất thiện xảo tinh vi lừa đảo trong lối lý luận bưng bít khiến ngay chính hành giả cũng lầm lạc. Lực này rất nguy hiểm trên đường tu tập xả tâm ly dục ly ác pháp vì nó không xả tâm dục và ác pháp mà lại nuôi lớn ngã và lòng tham dục danh lợi to lớn.

Ý thức phân biệt (TâmThư.1) là Ý thức có đối tượng.

Ý thức thanh tịnh (ĐườngVề.5) là cái không ở tâm tức là tâm không có niệm thiện ác. Ý thức thanh tịnh không liên hệ ngũ căn là Không Vô Biên Xứ Ðịnh. Cách thức tu nó chỉ giữ tâm chẳng niệm thiện niệm ác như các thiền sư đã dạy: “Giữ ông chủ, chăn trâu, biết vọng liền buông”, sau này các thiền sư lại chế ra pháp tu “tham thoại đầu, tham công án” và cuối cùng thì niệm danh hiệu Phật Di Ðà tức là “Niệm Phật là ai?”. Ðây là những pháp môn tu ức chế tâm tối đa mà các Tổ đã tu sai lọt vào tưởng giải mới sản sanh ra những pháp môn như vậy. Loại thiền định này tu chẳng làm chủ được cái gì cả.

Ý thức thanh tịnh (ĐườngVề.5) là ý thức của giới luật. Ý thức thanh tịnh nhờ giới luật, ngoài giới luật ra thì không có pháp nào làm thanh tịnh ý thức. Ý Thức thanh tịnh chỉ được gọi tri kiến giải thoát mà thôi. Ý thức thiện vô lậu của đạo Phật thì không ngoài tâm thanh thản, an lạc và vô sự, vì thế đức Phật bảo phải tăng trưởng và kéo dài ra cái ý thức này. Ý thức thanh tịnh thì có chánh niệm. Khi còn đang dùng dụng cụ rốt ráo Thân Hành Niệm để tu tập cho tâm ly dục ly ác pháp thì đó là tu tập làm cho ý thức thanh tịnh. Ý thức thanh tịnh chỉ là một sự khởi đầu cho 7 năng lực giải thoát của Phật giáo (Thất Giác Chi) xuất hiện để thực hiện tâm thanh tịnh (cao hơn giai đoạn ý thức thanh tịnh). Ý thức thanh tịnh tức là có chánh niệm, chứ không phải tâm thanh tịnh. Có đủ 7 năng lực giác chi thì thân tâm mới thanh tịnh hoàn toàn. Ý thức thanh tịnh thì mới có 7 năng lực giác chi xuất hiện. Có chánh niệm thì ý thức mới thanh tịnh, chưa có chánh niệm thì coi chừng có tưởng lực xuất hiện. Có tưởng lực xuất hiện thì cần phải dẹp.

Ý thức xả tâm (MuốnChứngĐạo) là Cảm Nhận Tâm Hành, là làm chủ tâm, điều khiển tâm làm cho tâm luôn luôn sống trong thiện pháp và không bao giờ để tâm tư duy suy nghĩ những điều ác.

Ý thường tâm niệm thương xót người khác (PhậtDạy.4) tức là lòng “BI”. Lòng bi là lòng thương xót chúng sanh, khi thấy chúng sanh trong cơn hoạn nạn hay bệnh tật khổ đau hoặc đứng trước cái chết sắp đến, chúng ta không thể làm ngơ được.

Ý thường tâm niệm thương xót, không ôm lòng thù hận thêm bớt (PhậtDạy.4) Ðó là tâm niệm thiện, tâm niệm giải thoát, tâm niệm khiến mình và tất cả chúng sanh được an vui giải thoát, tâm niệm không làm khổ đau mình, người, cả hai và tất cả chúng sanh, tâm niệm không hận thù, tâm niệm buông xả tất cả các ác pháp. Ðó là tâm niệm của người có lòng từ, bi, hỷ, xả; tâm niệm cao thượng của những bậc Thánh Hiền.

Ý trần (TâmThư.1) là từng tâm niệm quá khứ, vị lai và hiện tại.

Ý tưởng (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là cái nghĩ ngợi phân biệt của tưởng uẩn không phải bằng ý thức (ý căn) của chúng ta.

Yêu thương ích kỷ (TêNgưu) sẽ làm cho chúng ta không thể sống hạnh một mình được. Không sống một mình được thì sự tu hành khó chứng đạo. Sống một mình được là nhờ không có tâm niệm thương và không thương. Khi trong tâm còn nhớ nghĩ thì đó là đánh mất hạnh Sống Một Mình. Mất hạnh Sống Một Mình thì còn tu tập được cái gì. Ngoài pháp môn Sống Một Mình tu tập Ngũ Căn thì Phật giáo không còn có pháp môn nào khác tu tập Ngũ Căn được nữa.

Yêu thương rộng lớn (TêNgưu) tức là tâm Từ bi của Phật giáo, vì sẽ không làm cho chúng ta và tất cả chúng sinh đau khổ. Chính nhờ Yêu Thương Rộng Lớn mới có lòng tha thứ và buông xả tất cả ác pháp dễ dàng. Khi trong tâm còn nhớ nghĩ thì đó là đánh mất hạnh Sống Một Mình. Mất hạnh Sống Một Mình thì còn tu tập được cái gì. Ngoài pháp môn Sống Một Mình tu tập Ngũ Căn thì Phật giáo không còn có pháp môn nào khác tu tập Ngũ Căn được nữa.

Yểm (PhậtDạy.4) nghĩa là ếm hay ém, làm cho không ngóc đầu dậy. Như yểm bùa, yểm chú, ếm tà, ếm ma, v.v…

Yểm Ly (12Duyên) là duyên của Ly Tham.Khi muốn lìa tâm tham thì phải chế ngự tâm tham làm cho tâm tham yếu đi mà Đức Phật gọi là yểm ly. Yểm ly có nghĩa là khởi ham muốn một điều gì thì hãy mau mau dừng lại, không được làm theo hay chạy theo. Không làm theo, không chạy theo bằng Trí Tuệ.

Yểm ly các cảm thọ (PhậtDạy.4) nghĩa là làm không cho các cảm thọ tác động vào thân tâm được.

Yểm ly thân ngũ uẩn(Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) yểm ly sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì tâm tham, sân, si, mạn, nghi sẽ được ly sạch. Yểm ly thân ngũ uẩn là lià tham, sân, si thân ngũ uẩn. Chỉ cần yểm ly thân ngũ uẩn là chúng ta đã tìm thấy sự giải thoát ngay liền.


VIẾT TẮT CÁC SÁCH

(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai.

Đang có 7 khách và không thành viên đang online

Lượt xem
451
Các bài viết
1441
Số lần xem các bài viết
8877230