In bài này

giáo án tu đạo Phật - GIAI ĐOẠN XUẤT GIA - SA DI THẬP GIỚI

Lượt xem: 8677

(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm ở 61 cassette 90)

 


 

Chúng ta sẽ qua lộ trình thứ hai, lộ trình của người xuất gia.

Xuất gia có mục đích đi tìm con đường giải thoát, nghĩa là phải lìa cuộc đời thế gian. Xuất gia là ra khỏi nhà, lìa bỏ của cải, vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh em, từ bỏ tài sản nhỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ bà con quyến thuộc lớn, sống không gia đình không nhà cửa, chỉ còn 3 y 1 bát.

 

Tuy từ bỏ nhà cửa đi lang thang như vậy mà không biết pháp tu hành từ bắt đầu cho đến viên mãn thì cũng uổng phí cuộc đời người mà chẳng giải thoát được gì, chỉ thành một gả lang thang phiêu bạt giang hồ rày đây mai đó, chẳng có ý nghĩa gì cả.

Như quý thầy thấy phía phái Khất Sĩ đã thành lập tại Việt Nam lấy 3 y 1 bát, sống trong chòi tranh; ngay từ bắt đầu được tổ sư Minh Đăng Quang hướng dẫn ai cũng mến hạnh của Khất sĩ. Nhưng Khất sĩ không có pháp hành, không có đường lối giải thoát, Khất sĩ lấy giới bổn khép chặt giới luật như kỷ luật làm cho các vị Khất sĩ sống cuộc đời rất cực khổ. Cuối cùng không thế duy trì 3 y 1 bát đúng nghĩa được, cho nên thành một gả lang thang rày đây mai đó, hoặc ở hang ở núi. Các Khất sĩ cũng tha thiết tu hành giải thoát nhưng vì họ không có pháp hành thực hiện cho đúng pháp hành của con đường giải thoát, cuối cùng họ chết dần mòn trong hang hóc. Hay có những người Khất sĩ tu không dám nằm ngủ, họ ngủ trên sự ngồi thiền, họ sống rất khắc khổ, có những người khổ công tu hành như vậy nhưng chẳng đạt được gì. Thấy gương hạnh các vị Khất sĩ đó, những người còn lại làm sao họ không phá giới. Bây giờ chỉ còn hình thức 3 y 1 bát chứ không còn phạm hạnh của đức Phật ngày xưa. Bởi vì người ta không có giới hành nên không thể thực hiện được giới luật của Phật, do giới luật bị khô cằn nên người ta phải thay đổi để có cái gì hơn. Họ không thể giải thoát được, không làm chủ sự sanh tử được, không thể đạt được cứu cánh niết bàn, họ chỉ ở trên giới luật thôi cho nên cuối cùng họ phải bỏ dở giới luật, họ không thể sống nổi.

Bộ Chơn Lý của tổ sư Minh Đăng Quang viết ra hầu như pháp hành không có, chỉ có lí giải thôi mà lại tạp nhạp vì nó kết hợp Nam tông với Bắc tông và còn ảnh hưởng của Thiền Đông Độ nữa. Nó là chiếc áo vá như vậy cho nên không thực hiện được giới hành của Phật.

Trái lại chúng ta có đủ pháp hành nên không bỏ dở giới luật. Giới luật của đạo Phật có giới hành tạo cho chúng ta thực hiện được đời sống phạm hạnh rất nghiêm chỉnh mà có nguồn giải thoát, tự thân tâm của chúng ta có niềm hỉ lạc rất cao độ, nó làm cho người thọ hỉ lạc của thế gian thấy hỉ lạc do li dục li bất thiện pháp tuyệt vời hơn nhiều.

Thí dụ chúng ta ăn món ăn thấy ngon thì đó là hỉ lạc dục của cái ăn; chúng ta nằm trên nệm thấy êm ấm thì đó là hỉ lạc dục của thân. Người ta dùng giới hành li dục li bất thiện pháp để li các trạng thái dục lạc đó thì sẽ đem lại sự an lạc vô cùng cho tinh thần của người ta, vì vậy mà người ta giữ giới luật nghiêm chỉnh, phạm hạnh được đầy đủ. Người khác khi nhìn cuộc sống của tu sĩ đạo Phật thì thấy họ sống khổ hạnh mà trong khi chính họ thì không cảm thấy khổ hạnh vì đó là nguồn giải thoát thật sự chơn thật trong tâm hồn của họ. Cho nên ngay cuộc sống hằng ngày của người tu sĩ Phật giáo đã thấy được niết bàn chứ không phải đợi đến khi chết mới nhập niết bàn.

Do không có pháp hành nên người ta thành lập giới luật (giới bổn) trói buộc con người vào cảnh khổ của địa ngục, hình thức thì tu, nhưng đó là cảnh địa ngục. Người đời ăn ba bữa mà người tu chỉ ăn một bữa, lại không thưởng thức cái ngon mà nếu không có pháp hành thì cái ăn của người tu như vậy là địa ngục rồi, không có sự an lạc gì trong cái ăn mà lại còn làm chúng ta khổ. Thiếu pháp hành thì giới luật ăn sẽ bị phá vỡ. Cho nên quý thầy thấy các vị bên Khất Sĩ bây giờ sáng họ có ăn tiểu thực, chiều có uống nước loại gì hay ăn dặm. Có nhiều chỗ còn cố gắng giữ buổi chiều không ăn dặm chứ buổi sáng thì họ có ăn tiểu thực. Hiện giờ Khất Sĩ chỉ còn danh từ suông thôi, chứ họ không giữđược giới luật như ngày tổ sư Minh Đăng Quang mới thành lập Khất Sĩ. Vì không có giới hành nên giới bổn phải thay đổi cho thích hợp với người tu.

Nếu chúng ta lấy giới bổn để trói mình thì coi chừng chúng ta sẽ là những người phạm giới. Đầu tiên thì phạm giới ý, sau tới khẩu phạm, rồi tới thân phạm. Nếu không có giới hành thì chúng ta sẽ lần lượt bị phạm giới hết.

Khi chấp nhận đời sống không gia đình, không vật chất thì phải thọ pháp trau dồi để dứt bỏ những gì mà tâm ta còn đắm nhiểm.

Vậy pháp đầu tiên tu tập của người xuất gia là gì? Người xuất gia chơn chính mở đầu từ pháp môn Sa di Thập Giới. Người xuất gia không thọ Thập Giới Sa Di thì không được kể là người xuất gia, sau khi thực hiện được Thập Giới Sa Di thì mới thực hiện được giới của Tỳ kheo. Chỉ nhìn vào vị đó thực hiện được hay không thực hiện được Thập Giới Sa Di, chúng ta cũng xác định được vị đó là tu sĩ hay cư sĩ.

Đạo Phật xác định rất rõ người thọ Thập Giới Sa Di mới là xuất gia; nếu không thọ Thập Giới Sa Di, không nghiêm trì giới luật của người Sa Di thì người đó chưa được xem là người xuất gia. Người ở trong chùa to tháp lớn, người còn cất giữ tiền bạc, người còn ăn phi thời, dù người đó được đời xưng tụng là Thượng tọa, Hòa thượng đi nữa, dù người đó giữ chức vụ cao lớn trong hàng giáo phẩm đi nữa, thì người đó vẫn chưa phải là người xuất gia, người đó vẫn còn đang ở trong lộ trình thứ nhất của người cư sĩ vì người đó không nghiêm trì giới luật của người Sa Di.

Vì thế Sa Di Thập Giới là cơ sở của người xuất gia. Như vậy người xuất gia mà cơ sở không có thì người đó là gì? Chẳng qua như một người giả mạo xuất gia trong bộ y áo của người xuất gia. Giới Sa Di là cơ sở của người xuất gia mà không có thì người đó, dù là sải vương đi nữa, mà không nghiêm trì giới luật của người Sa Di, thì chúng ta cũng vẫn xem như là người cư sĩ, chứ làm sao xem họ là tu sĩ được. Cho nên chúng ta muốn nhận ra người tu xuất gia thì nên nhận xét qua Thập Giới Sa Di của họ, nghĩa là không nhận xét qua hình thức bên ngoài như y áo, tràng chuổi họ mang, năm tháng họ tu, chức vụ họ đảm nhận có kẻ hầu người hạ, nơi ở của họ là chùa to tháp lớn,... mà nên nhận xét qua Thập Giới Sa Di họ có nghiêm trì hay không.

Người không thọ trì Thập Giới Sa Di thì dù họ tu pháp nào mà họ cho là tối thượng đi nữa thì pháp đó cũng chỉ là tà pháp của ngoại đạo thôi. Tại sao vậy? Vì Thập Giới Sa Di là pháp môn tu hành cơ bản của đạo Phật. Pháp môn cơ bản không tu tập, không sống đúng pháp môn cơ bản này thì pháp hành của vị đó không phải là tà pháp sao?

Người tu sĩ đạo Phật bây giờ chỉ biết nói Sa Di Thập Giới chứ không ai biết tu nó, không ai biết sống cho đúng với nó, cho nên đạo Phật hiện giờ mất gốc người chơn tu, không còn người chơn tu của Phật giáo bởi vì Sa Di Thập Giới không thực hiện được.

Mục đich xuất gia là cầu đắc đạo Niết bàn giải thoát sanh tử. Ba đời chư Phật ở tại nhân gian thành Phật đều là hiện tướng xuất gia, sống đúng oai nghi tế hạnh của Sa Di Thập Giới. Không có đức Phật nào xuất gia không sống đúng hạnh Sa Di Thập Giới mà thành Phật được. Vì thế Sa Di Thập Giới là cơ sở của đạo giải thoát.

Xuất gia chẳng phải là điều đạo Phật phát minh trước nhất, cũng chẳng phải chỉ Phật giáo mới có sự xuất gia. Ở Ấn Độ trước khi đức Phật Thích Ca giáng sanh đã có nhiều thứ ngoại đạo. Sa môn là tên gọi chung của người Ấn Độ xuất gia. Sa môn nghĩa là dứt tâm ác, tịnh chỉ tâm ác, làm cho tâm được thanh tịnh. Sáu ngoại đạo trong thời đức Phật giáng sinh cũng có mục đích dứt tâm ác, tịnh chỉ tâm ác, làm cho tâm được thanh tịnh, không có ngoại đạo nào khuyến khích làm điều ác nhưng vì pháp hành của họ không đúng nên không giải thoát được tâm ác, tâm họ không tịnh chỉ ác cho tâm được thanh tịnh. Đức Phật ra đời chỉ cho chúng ta pháp hành để dứt tâm ác. Ngoại đạo cũng có giới luật để dứt các tâm ác nhưng vì không có pháp hành cho nên họ dứt không được.

Nếu bây giờ chúng ta lấy giới luật mà khép mình nhưng không có pháp hành thì cuối cùng chúng ta cũng vẫn bị phạm giới. Cũng như các lục sư ngoại đạo tuy họ có những giới luật để ngăn chặn tâm ác của họ được tịnh chỉ, làm cho tâm họ thanh tịnh, nhưng vì không có pháp hành đúng đắn nên họ không dứt được tâm ác và không làm cho tâm được thanh tịnh nên họ chẳng đưa con người đến chỗ giải thoát. Giới hành của họ sai. Trong thời của đức Phật nói có những người tu hành sống theo những khổ hạnh, như có những người sống theo hạnh con bò, hạnh con chó, sống theo hạnh nằm trên phân, nằm trên dơ bẩn, nằm dưới nước; đủ loại đủ cách khổ hạnh. Đó là người ta quyết dứt cái ác nên người ta mới chịu các khổ hạnh như vậy, nhưng các khổ hạnh đó không đưa họ đến đâu, họ chỉ trở thành con bò, hoặc con chó, hoặc con heo... vì họ làm các khổ hạnh mà xu hướng đó sẽ đưa họ đến. Vì họ không biết pháp hành nên họ phải hành khổ hạnh như vậy, họ tưởng họ sống khổ hạnh như vậy để được giải thoát, nhưng thật ra chỉ làm khổ họ khi sống và khi họ chết thì họ chỉ sanh vào địa ngục.

Nếu chúng ta lấy giới bổn của hai mươi bộ phái lúc bấy giờ, hay sáu bộ giới luật sau này mà hành thì cũng khổ hạnh như giới luật của lục sư ngoại đạo. Bởi các bộ giới đó không có pháp hành nên chúng ta không sống được. Và chúng ta cũng không sống theo cơ sở căn bản của người mới xuất gia nữa. Thập giới sa di không thực hiện được thì từ đó chúng ta sẽ trở thành ngoại đạo. Như hiện giờ tuy có tên là Phật giáo chứ hạnh sống là ngoại đạo.

Sau khi Phật giáo sáng lập, để phân biệt sa môn ngoại đạo với sa môn Phật giáo, người ta gọi sa môn Phật giáo là Sa môn Thích tử. Về hình tướng thì hai loại sa môn giống nhau, chỉ tên gọi khác thôi. Sa môn ngoại đạo cũng mặc y hoại sắc, cũng sống khổ hạnh không lợi dưỡng nhưng vì pháp hành không đúng, nên không lìa các ác pháp, không li được dục, không đem đến giải thoát, do đó không đạt được cứu cánh, nhưng họ có giới. Sa môn Thích tử giới luật có giới hành, có pháp hành nên thực hiện được tâm giải thoát cứu cánh, cho nên đạt được tâm hoàn toàn thanh tịnh.

Quan niệm về hình thái xuất gia tu hành dường như là hiện tượng chung của các tôn giáo trên thế giới. Mục đích tối cao của các tôn giáo là sự tìm cầu giải thoát khỏi nhục dục, mà pháp hành đúng thì nó đưa chúng ta đến chỗ giải thoát. Vì thế tôn giáo mới được gọi là tôn giáo, cho nên tất cả phương pháp, bất luận là những hành pháp nào tu tập hay trau dồi, tất nhiên người xuất gia cũng phải ra khỏi cuộc đời thế gian, vì thế mới gọi người xuất gia là người xuất thế gian.

Thầy dựa vào những bài kinh của Phật, vạch ra cho quý thầy thấy có hai lộ trình rất rõ để thực hiện pháp nào vào trong lộ trình nào.

Chúng ta chuẩn bị cho lộ trình thứ hai của người xuất gia phải như thế nào đúng, giữ những hạnh nào đúng, những pháp nào để trau dồi những hạnh đó cho được viên mãn cho đến ngày chúng ta được hoàn toàn giải thoát. Đó là điều chúng ta phải lưu ý, chứ nhiều khi chúng ta sống trong thế gian mà tưởng mình xuất thế thì không đúng tánh cách của người tu sĩ, dù là tôn giáo nào cũng vậy. Cho nên chúng ta thấy rất rõ các tôn giáo khác có hình thức không như của Phật giáo: Ở Phật giáo, người mới vào phải cạo trọc, rồi y áo phải thay đổi hết, là thay đổi hình thức. Có một số tôn giáo khác không cạo trọc đầu, do vậy họ sống theo dục lạc thế gian rất dễ. Thí dụ một linh mục khi vào nhà thờ thì mặc áo linh mục, nhưng khi ra ngoài, cởi bỏ y áo linh mục thì vị này có thể đến bất cứ nơi nào vị này muốn, cho nên họ có thể làm điều sai quấy dễ dàng.

Có một lần Thầy nghe câu chuyện của Khưu Trường Sinh tu theo Tiên đạo muốn thử tâm đạo của mình bèn vào trong lầu xanh thì gặp Bồ Đề Đạt Ma đầu trọc lóc đang ở trong đó, thì còn gì của đạo Phật nữa không? Rõ ràng đây là câu chuyện bịa đặt, không lẻ Bồ Đề Đạt Ma mang đầu trọc vào lầu xanh để thí nghiệm. Câu chuyện này cốt để mạ nhục Phật giáo.

Đời nay vẫn có những ông mặc y áo tu sĩ Phật giáo, đầu trọc vào quán uống rượu tự nhiên, họ xem sắc tướng của vị tu sĩ quá tầm thường, họ phạm giới luật hết sức không thể tưởng tượng, cho nên người đời hiện giờ xem Phật giáo có ra gì đâu. Đó là người tu không thấy trách nhiệm, bổn phận của người tu làm cho sáng tỏ lại Phật giáo.

Các tôn giáo khác hành động thế tục rất dễ, như Cao Đài, các vị chức sắc cổi áo trắng thì vào bất kỳ chỗ nào, đâu ai biết là vị chức sắc Cao đài, còn tu sĩ Phật giáo cạo đầu, giới luật cấm không uống rượu. Giới luật các tôn giáo khác không cấm uống rượu cho nên họ uống rượu thả cửa. Hằng năm Vatican còn cung cấp cho mỗi ông linh mục một số rượu nho đặc biệt.

Tu hành của đạo Phật có những giới luật khắc khổ vì không cho hưởng lạc thế gian. Việc cấm rượu là do đức Phật hiểu được những nguy hiểm của nó khi uống vào. Chúng ta phải hiểu sự tu hành của đạo Phật phải thể hiện sự toàn thiện mà rượu và các thứ nghiện ngập sẽ đưa chúng ta đến chỗ khác nên đức Phật cấm. Đạo Phật là đạo nhân quả. Nghiệp là thói quen, nghiện ngập là thói quen sinh ra, nên đức Phật mới cấm sử dụng các loại say sưa nghiện ngập. Chúng ta phải hiểu đạo Phật không cho đem hình dáng của đạo Phật làm bậy.

Có lần Thầy thấy trong báo Công An đăng bài như vầy: Có một cô ni và một thầy chùa (cả hai người đều có giáo phẩm trong Giáo hội) cùng mua đầu tóc giả gài lên đầu và chở nhau đi Vũng Tàu chơi, nhưng trên đường đi bị tai nạn lưu thông, hai đầu tóc giả văng ra người ta mới biết được là ni cô và ông thầy chùa. Tất cả các sai lầm này làm cho người tu chơn chánh rất ngại ngùng và đau lòng.

10 giới Sa di là cơ sở xây dựng con người, thế mà người ta vi phạm. Sự xuất gia của họ chỉ còn là hình thức, chứ không còn thực sự xuất gia nữa. Tuy hình thái xuất gia của các tôn giáo đều có, nhưng xuất gia đạt được thoát khỏi sanh tử thì chỉ trong đạo Phật mới có. Như vậy tuy hình thái xuất gia trong các tôn giáo đều có nhưng nội dung hoàn toàn bất đồng. Phật giáo đặt nền móng trên nhân bản, nhắm vào từng con người làm đối tượng, lấy sựthăng hoa toàn thiện của con người xuất phát từ lí trí phán đoán và quyết trạch để cứu mình. Từ lí trí phán đoán và quyết trạch đó mới lưu xuất ra những cảnh giới đích thân của chính người đó chứng ngộ và cũng chính đức Phật đã chứng ngộ. Nếu đến với đạo Phật mà không từ bỏ, không li ra các ác pháp dục lạc thế gian thì không chứng ngộ được sự giải thoát thật sự của đạo Phật. Cho nên chúng ta có những cách thức trau dồi để li các dục lạc thế gian, chứ chúng ta không lấy Patimokkha để cấm dục cực đoan. Ở đây Phật giáo đặt giáo pháp trên lộ trình nhân quả, căn cứ vào suối nguồn thiện pháp để xả li, thải trừ các ác pháp thế gian.

Từ sinh hoạt tại gia lấy Tam quy làm gốc, lấy ngũ giới làm hành động sống hằng ngày, Bát quan trai giới chỉ là cách tập luyện của người cư sĩ cho quen dần với đời sống xuất gia mà thôi. Ngũ giới và Thập thiện đặt nền móng đạo đức nhân quả để xây dựng đạo đức luân lí của xã hội loài người. Còn tu sĩ bắt đầu từ Thập giới Sa di rồi đi lên cho đến ngày giải thoát. Do đặt trên nền móng nhân quả, Phật giáo mong người tin Phật, học Phật để tự giải thoát cho mình và cho người, vì thế đạo Phật tuyệt nhiên không ép buộc mọi người theo đạo Phật hay buộc mọi người phải xuất gia. Vì lợi ích thiết thực cụ thể của mọi người về sự đau khổ của mọi người nên họ tin Phật, học Phật, tuyệt nhiên không ai có quyền ép họ thọ Tam Quy hoặc xuất gia

Nếu biết người nào thích nghi với sự xuất gia hoặc tại gia ở trong Phật giáo chỉ cần xem người đó có tiếp thọ tinh thần nhân quả trong giới luật của đạo Phật hay không. Giới luật xuất gia do quan niệm đạo đức nhân quả thăng hoa mà lập thành. Nhân quả chấm dứt thì cảnh niết bàn giải thoát hiện tiền. Nhân quả còn chi phối, còn có thiện có ác thì chúng ta luôn luôn còn tiếp tục tái sanh luân hồi, luân hồi đưa chúng ta từ nghiệp này đến nghiệp khác để thọ lấy hạnh phúc hay khổ đau. Cho nên con đường đức Phật vạch ra cho chúng ta thấy rõ muốn giải thoát thì chúng ta phải chấm dứt nhân quả, nếu còn nhân quả thì không thể nào giải thoát. Đây chẳng phải sự siêu xuất sanh tử một cách đột ngột. Muốn làm chủ sanh tử không phải có sự siêu việt nào mà chúng ta vượt ra khỏi nó được, mà chúng ta phải thấy lộ trình nhân quả và chúng ta phải chấm dứt lộ trình nhân quả thì chúng ta sẽ làm chủ sanh tử.

Cũng không phải sự sanh tử siêu xuất một cách đột nhiên như các tà giáo ngoại đạo khác tưởng ra, nghĩa là các tà giáo ngoại đạo tưởng mình phải khổ hạnh như thế này như thế này thì mới liễu sanh thoát tử được, hoặc phải tu tập như thế này như thế này thì mới liễu sanh thoát tử được. Do sự tu tập đó mà đột nhiên liễu sanh thoát tử đến.

Còn đây chúng ta biết nó đến là do sự thăng hoa từng chút, chúng ta làm một điều lành thì sẽ dứt một điều ác, rồi lần lượt li các điều ác tăng trưởng các điều lành, do sự thăng hoa điều lành đó cho đến khi nhân quả chấm dứt, thì lúc đó chúng ta làm chủ sanh tử. Như vậy không phải do sự siêu xuất, cũng không phải đột nhiên mà sự chấm dứt sanh tử đến, mà do quá trình trau dồi, xa lìa các ác pháp để thực hiện thiện pháp thìsự chấm dứt sanh tử đến. Khi mà hành động của con người toàn thiện pháp, không còn ác pháp nữa thì nhân quả không còn đối đải nữa tức nhân quả dứt, mà nhân quả dứt thì niết bàn giải thoát tức là chấm dứt sanh tử.

Nhân bản của đạo đức nhân quả phải được sự thăng hoa từng cấp, giới luật đạo đức nhân quả của đạo Phật mới hoàn thành được sự giải thoát. Vì thế đây chẳng phải là vô căn cứ, mà phải đặt trên nền móng sinh hoạt hằng ngày tại gia của mỗi cá nhân cư sĩ, nghĩa là khi vào đạo Phật thì chúng ta phải thực hiện hằng ngày ở tại gia đình trong lộ trình nhân quả chứ không phải đợi tới khi xuất gia mới thực hiện.

Lộ trình thứ hai của đạo Phật, người xuất gia được chia làm 5 cấp:

1- Sa di.

2- Sa di ni.

3- Thức xoa ma ni. Sa di ni phải tu trong 2 năm Thức xoa ma ni sau đó mới thọ giới cụ túc để trở thành tỳ kheo ni.

4- Tỳ kheo tăng.

5- Tỳ kheo ni.

Năm loại tu sĩ này là 5 loại đẳng cấp của người xuất gia. Người nam dù già trẻ khi thọ thập giới xong đều được gọi là Sa di. Và người nữ thọ thập giới xong đều được gọi là Sa di ni. Người nam trên 20 tuổi, sau khi thọ 250 thì gọi là tỳ kheo, người nữ thọ 348 giới thì gọi là tỳ kheo ni. Thức xoa ma ni là quá trình 2 năm tu tập giữa Sa di ni và Tỳ kheo ni.

Về xuất gia, đạo Phật chia làm 3 loại:

1- Thân tâm đều xuất gia. Nghĩa là thân trụ ở rừng, núi, hang, chòi lá, chùa, am, thất, cốc đó là thân xuất gia. Tâm không còn luyến mộ ái dục sắc danh thực thùy (5 dục lạc thế gian). Thân tâm nhứt trí, an tâm vui đạo là thân tâm xuất gia tức là vui vẻ 3 y 1 bát, thiểu dục tri túc. Đây là pháp xuất gia chơn chánh, cũng là bổn phận của người xuất gia.

2- Thân xuất gia, tâm chẳng xuất gia: có người xin cạo tóc, mặc y áo của người xuất gia, sống trong tự viện, không lấy vợ hoặc không lấy chồng hoặc cũng giữ được thân thanh tịnh thanh khiết nhưng nội tâm của họ lại khao khát tưởng nhớ đến ngũ dục, họ chỉ vì sinh hoạt danh vọng, hoặc cho địa vị xã hội mà xuất gia. Như vậy thân tâm theo hai ngả riêng biệt nên họ không đạt được sự giải thoát. Đối với phương thức sinh hoạt xuất gia, họ không cảm thấy hứng thú nhưng vì sinh hoạt và sự bó buộc của xã hội nên miễn cưỡng xuất gia. Những hạng người này thật đáng thương xót, họ không được sự thú vị của sinh hoạt thực tại tu hành, cũng không được sự lợi ích của Phật pháp; họ sẽ bị quả báo đời vị lai thật đáng sợ do vì sự tín ngưỡng đối với đạo Phật có vấn đề, mượn đạo tạo đời nên sự xuất gia không được hoàn chỉnh và còn nhiều sự lầm lẫn. Vì thế đây là một loại người xuất gia mà ngày xưa đức Phật thường quở trách là cư sĩ trọc. Trong thời đại của chúng ta, loại tu sĩ này có thể chiếm 80-90%.

3- Tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia đây là Bồ Tát chứng Thánh vị. Các Ngài không tham luyến ái của ngũ dục vì hóa độ chúng sanh nên thường hóa hiện thân phận người tại gia có vợ con. Các ngài Duy Ma Cật, Hiền Hộ tuy có vợ con nhưng tâm không nhiễm, không đắm, không tham, không dục, thanh tịnh sáng suốt, không động. Nhưng đây không phải là pháp tắc thông thường của xuất gia nên chẳng thể thành phương thức sinh hoạt của xuất gia.

Theo Thầy nghĩ một người chứng Thánh vị rồi thì tâm dục không hề có, mà tâm dục không có thì làm sao họ ở với vợ được? Khi họ có vợ có con thì họ có dục chứ gì, không dục làm sao có con. Dâm dục là con đường sanh tử mà gọi là Thánh nhân là sao. (Mã âm tàng là bộ sinh dục rút nhỏ lại, không dục mới có tướng mã âm tàng, người còn dục bộ sinh dục đâu có rút lại). Đọc kinh sách Đại thừa rất ngạc nhiên khi thấy các cư sĩ Duy Ma Cật và Hiền Hộ thể hiện cư sĩ tâm xuất gia mà thân không xuất gia, chỗ này rất đặc biệt của kinh Đại thừa. Tâm thanh tịnh mà thân cứ hưởng dục lạc là làm sao. Do tâm muốn nên thân mới hưởng dục lạc. Thân đói thì tâm sanh thèm ăn nên thân mới đòi hỏi thỏa mãn ăn. Tâm sạch hết dục mà thân thì sống hưởng dục lạc. Thân các ngài là thân cư sĩ lại có vợ có con, do đó chúng ta thấy dục lạc phải có. Vậy có đáng cho chúng ta tin tâm sạch hết dục không.

Li dục li bất thiện pháp có cái lạc của li dục li bất thiện pháp rất đặc biệt làm cho Thầy thấy cái dục lạc của thế gian rất rõ cho nên người nói sai Thầy biết, còn người chưa nếm được cái lạc của li dục li bất thiện pháp thì chưa rõ nên nghe ai nói sao tin vậy thôi, chứ khi có Minh rồi thì không có dục lạc thế gian nữa. Trong kinh Duy Ma Cật nói rất rõ Duy Ma Cật đã chứng Thánh vị nhưng vì muốn độ chúng sanh mà thể hiện sống cư sĩ, nghĩa là Duy Ma Cật đã có Minh rồi tức đã li dục li bất thiện pháp rồi thì làm sao còn dục lạc thế gian mà có vợ có con, hay đây là một loại kinh phá giới bằng một lập luận "bất nhị" phá toàn triệt giới luật của đạo Phật. Thân thì dâm dục với vợ mà tâm thì thanh tịnh như thánh, làm sao tin nổi.

Xưa khi đức Phật còn tại thế, có một vị Bà la môn hỏi đức Phật: "Bạch Thế tôn, khi một người chứng quả giải thoát còn sống trong dục lạc nữa hay không". Đức Phật dạy: "Khi một người đã chứng quả giải thoát, tâm bất động trước các pháp là tâm không còn bị tham dục tất cả các pháp thì làm sao sống dục lạc thế gian được". Như vậy đức Phật đã xác nhận rõ ràng, không như trong kinh Duy Ma Cật nói: Tâm thì giải thoát hoàn toàn mà thân thì sống trong dục lạc. Thí dụ một vị đã chứng ngộ được lí bất tịnh của các pháp thì làm sao còn thích ăn, thích dâm dục được. Tâm đã thanh tịnh, không móng khởi dâm dục thì làm sao có dâm dục được. Thế mà các vị Duy Ma Cật và Hiền Hộ này có vợ sanh con thì đây là lấy vải thưa che mắt thánh.

Kinh Đại thừa nói như vậy thì một người có trí không thể nào tin nổi, chỉ người ngu si, vô minh mới tin mà thôi. Cho nên các loại kinh không thiết thực cụ thể cho sự giải thoát thì chẳng nên tin. Sau khi đức Phật nhập diệt, người ta đã viết rất nhiều kinh và luật để phá toàn bộ giới luật của đạo Phật, để họ chạy theo dục lạc thế gian mà không phạm lổi. Các kinh sách loại này cũng là như vậy, để cho các tu sĩ viện cớ theo Duy Ma Cật mà có vợ có con, do đó họ lập ra phái Tân Tăng.

Do họ tu tập như vậy nên họ lừa gạt thế gian, lừa gạt người khác bằng lí luận rằng họ phải nhập vào thế gian, làm các hành động như vậy mới độ chúng sanh được "Nhập thế gian để độ chúng sanh". Các tu sĩ bây giờ hầu hết thân xuất gia mà tâm thì chẳng xuất gia. Tuy thấy họ sống như vậy nhưng chúng ta không nên chê cười họ mà nên chờ khi nào tâm họ thanh tịnh sẽ lôi thân họ trở về chánh pháp của đạo Phật. Nếu chúng ta cười chê họ nhiều quá làm họ không tu được thì tội nghiệp cho họ. Họ theo Phật ngày nào cũng lợi ích cho họ.

Khi chưa thành Phật thì đức Phật cũng có vợ sanh con như một người phàm phu, thế mà người ta bảo ông Phật là bồ tát Phổ Minh ở cung trời Đâu xuất xuống trần. Đã là bồ tát rồi mà còn dâm dục đẻ con. Đó là người ta huyền thoại sai lệch. Người ta lấy đức Phật đối chiếu với Duy Ma Cật để lí luận, nhưng người ta quên rằng đức Phật lúc còn phàm phu mới còn dâm dục, chứ khi đã thành Phật rồi thì đâu còn dâm dục. Trái lại Duy Ma Cật đã là Bồ Tát rồi, đã thành Bồ tát rồi, đã ở trong thánh vị rồi mà vẫn còn dâm dục thì hoàn toàn không hợp lí. Cho nên Duy Ma Cật, Hiền Hộ chứng thánh vị giả hiệu, là bồ tát giả hiệu. Thế mà trong kinh này nói các vị đại đệ tử của đức Phật đều không dám đến lí luận đương đầu với ông Duy Ma Cật, chỉ có đại trí Văn Thù tưởng tượng của kinh Đại thừa mới dám. Ngoại đạo cả gan viết kinh này để hạ bệ Phật giáo tận gốc. Nếu đời sau này không có người chứng nghiệm lời dạy của đức Phật thì ai là người dựng lại giáo lí và chấn hưng đạo Phật.

Biết bao nhiêu kinh sách phá hoại Phật pháp, che mờ giáo lí Phật, làm sao người đời sau hiểu đâu là kinh Phật, đâu là kinh giả vì trong các loại kinh giả này cũng nói là do Phật thuyết. Các kinh này là kinh phá giới thì làm sao người tu sau này chứng đạo được, vì giới luật không thanh tịnh thì làm sao li dục li bất thiện pháp để đạt được tâm bất động chứng thiền định, mà không chứng thiền định thì làm sao có trí tuệ để thấy kinh nào đúng, kinh nào sai.

Chỉ khi đạt được thiền định của đạo Phật mới lưu xuất trí tuệ, nhờ trí tuệ này mới thấy cái sai cái đúng trong kinh điển của đạo Phật. Hạng người chứng thiền định đâu phải trong thời đại nào cũng có, đâu phải dễ tìm được các bậc đó. May ra có một hai vị giữ giới hạnh nghiêm túc chừng đó mới thấy cái sai rồi vạch ra được, chứ không thì ngàn đời chúng ta vẫn chìm trong đống kinh mà không biết kinh nào đúng, kinh nào sai.

Người hiểu được Phật pháp thấy được người viết ra các kinh sai là vì họ chưa hiểu Phật pháp bởi họ chưa thực hiện giới hạnh nghiêm túc. Vì không hiểu Phật pháp nên họ viết theo cái hiểu của họ, vô tình họ phá Phật pháp mà họ không biết. Các tổ đó do không hiểu Phật pháp nên viết ra các kinh, viết ra các giới làm giảm bớt giá trị của giới li dục li bất thiện pháp của đạo Phật để cho họ sống thoái mái, để hình thức tu hành dễ dải hơn. Mà càng giảm bớt giới luật thì họ chẳng bao giờ đạt quả giải thoát của đạo Phật, chừng đó họ mới nghĩ thế này thế khác rồi viết ra các kinh, viết ra các giới. Họ vô tình chứ không cố ý phá hoại Phật pháp.

Theo Thầy thì không ai có ý đồ phá Phật pháp nhưng vì họ không hiểu đúng Phật pháp cho nên họ phá Phật pháp. Cũng như các thầy đang giảng thuyết thì các thầy đâu biết là các thầy đang phá Phật pháp. Tương tự các giảng sư trong các trường cao cấp, hay trường cơ bản Phật học, họ đang giảng các bài kinh của Phật cho rằng mình giảng đúng ý của Phật, nhưng vì họ chưa thực hiện tu giải thoát, cho nên những điều họ giảng ra là họ phỉ báng Phật pháp. Họ không hiểu nên họ mới giảng như vậy. Họ đang sống không đúng giới luật và lời giảng của họ không đúng giáo lí của đức Phật, cho nên họ vô tình chứ không hữu ý phá hoại Phật pháp. Họ cũng muốn xương minh, muốn làm cho Phật pháp sáng tỏ lên với sự hiểu biết của họ, nhưng sự hiểu biết lầm lạc này của họđã phá hũy Phật pháp.

Chúng ta hiểu được như vậy mới thấy sự sai lầm của họ là do sự vô minh chứ không phải ý đồ của họ hay họ là các tu sĩ ngoại đạo phá Phật pháp, mà do chính họ muốn xương minh, muốn dựng lại đạo Phật mà họ dựng sai. Nhà đạo Phật đang ở trên nền tảng đất khô ráo họ lấy chỗ đất sình lầy làm nền tảng Phật pháp.

Bởi con người ngày càng thông minh, càng phát triển trong cuộc sống cho nên các thầy chùa cũng theo với thời đại. Lúc đầu các thầy chùa ra làm ruộng rẩy để sống tự túc, sau ra kinh doanh kiếm tiền, rồi đến các thầy chùa làm khoa học, từ đó khác hoàn toàn với cách sống tu hành ngày xưa của thời đức Phật.

Trải qua hơn 20 thế kỷ, những loại kinh sách phát triển này đã làm đổi hết đạo Phật từ nội dung đến hình thức tu hành thành một đạo Phật mới, tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia. Vì thế trong các chùa hiện giờ các phương tiện ngũ dục lạc đầy đủ, họ hưởng ngũ dục lạc bằng mồ hôi nước mắt của người khác.

Giảng tới đây Thầy nhớ lại bộ kinh tưởng rất lớn của Đại thừa là bộ Diệu Pháp Liên Hoa mà nhiều phật tử tại gia cũng như các tu sĩ tụng đọc hằng ngày, nhất là phẩm Phổ Môn. Phải nói người soạn viết bộ kinh này không hiểu đạo Phật. Vì như Thầy đã nói đạo Phật xây dựng trên nền tảng nhân quả, còn bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa này xây dựng trên sự phi nhân quả, nghĩa là như trong phẩm Phổ Môn nói khi chúng ta gặp tai nạn gì hoặc bị tù tội, bị rắn độc, bị thuốc độc... thì chỉ niệm Bỉ Quan Thế Âm Lực để nhờ lực của ngài cứu thoát tai nạn đó. Như vậy kinh đó thuộc loại kinh phi Phật pháp và phi đạo đức nhân quả rồi, vì chúng ta làm lành thì ai bắt tội chúng ta, nên chúng ta đâu bị khổ. Còn khi vi phạm pháp luật thì dĩ nhiên phải bị bắt thôi. Mà khi bị bắt như vậy rồi niệm Quan Âm Lực để thoát khỏi tù tội. Mà nếu thực sự được thoát ra khỏi tù tội theo sự tin tưởng niệm Quan Âm Lực của họ thì xã hội nát bét hết vì tội phạm. Như vậy tâm chúng ta tốt thì cần gì cầu ai, chỉ khi tâm xấu mới cầu Quan Âm, mà cầu Quan Âm được phù hộ kiểu đó thì có phải làm rối trật tự không? Hiện giờ kinh Phổ Môn rất phổ thông, được bán cùng khắp, được nhiều phật tử tín thọ tụng đọc hằng ngày. Thật là đau lòng, họ đã bỏ nhân quả để tin vào sự phò hộ mê tín.

Nói tóm lại chỉ có thân và tâm đều xuất gia mới đúng đạo Phật, còn thân xuất gia tâm không xuất gia hay tâm xuất gia mà thân không xuất gia là sai với đạo Phật.

Bây giờ Thầy xin nêu lên các gương hạnh sống và gương hạnh tu của các vị thánh tăng, thánh ni để phá những cái sai trong các kinh sách của các tổ. Thông thường chúng ta tu định vô lậu quán thân vô thường khổ, vô ngã chỉ ngồi nói suông thân là vô thường, khổ, vô ngã; ở đây có vị thánh ni đã cụ thể nêu ra từng phần của cơ thể để quán cho đến khi thấu triệt lí vô thường, lí khổ cho đến khi vô lậu hoàn toàn chứng quả Alahán, các ngài đã để lại pháp hành trì như thế nào.

1.- Đây là gương hạnh của trưởng lão tỳ kheo ni Ambapàlì. Khi còn là thiếu nữ bà rất đẹp nên được các vương tôn theo đuổi và bà cũng là người giàu có và đã cất một ngôi tịnh xá dâng cúng lên đức Phật. Bà được một người con trai đã theo đức Phật, tức là Trưởng lão Vimalakondanna, về thăm và thuyết pháp cho bà nghe về lí vô thường thì bà hiểu rõ liền. Bà so sánh lúc về già hiện giờ với ngày xưa do vậy bà chứng đạo. Đây là bài kệ:

Ðen như sắc con ong,
Tóc dài ta khéo uốn,
Nay biến đổi vì già,
Như vải gai, vỏ cây,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Thơm như hộp ướp hương,
Ðầu ta đầy những hoa,
Nay biến đổi vì già,
Hôi như lông con thỏ,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Lấy kinh nghiệm này chúng ta tập quán, tập suy tư.

Như rừng khéo vun trồng,
Lược kim tự chói sáng,
Nay biến đổi vì già,
Tóc lơ thơ rơi rụng,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật

Trang điểm với bện tóc,
Sáng chói nữ trang vàng,
Tóc mềm mại êm dịu,
Thơm ngát với mùi hương,
Nay biến đổi vì già,
Rơi rụng đầu sói trọc,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Lúc trẻ đầu tóc còn thơm, còn dày, nay già đầu sói trọc.

Trước lông mày của ta,
Chói sáng khéo tô vẽ,
Nay biến đổi vì già,
Nhăn nheo, rơi suy sụp,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Mắt ta xanh và dài,
Sáng đẹp như châu báu,
Nay biến đổi vì già,
Hư hại không chói sáng,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Lỗ mũi mềm và thon,
Sáng chói như măng tre,
Nay biến đổi vì già,
Héo khô và tàn tạ,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước tai ta sáng chói,
Như vàng vòng khéo làm,
Nay biến đổi vì già,
Nhăn nhiu chảy xệ xuống,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước răng ta sáng chói,
Như búp nụ chuối hoa,
Nay biến đổi vì già,
Bể gãy vàng như lúa,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Ngọt là giọng nói ta,
Như chim cu hót rừng,
Nay biến đổi vì già,
Tiếng la bể đứt đoạn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước cổ ta chói sáng,
Mềm đầy đặn nhu nhuyến,
Nay biến đổi vì già,
Nhiều ngấn và khô cằn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước cánh tay của ta,
Sáng như hai cột tròn,
Nay biến đổi vì già,
Như hoa kèn yết ớt,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước bàn tay của ta,
Mềm mại như cành hoa,
Sáng như mỡ rương vàng,
Nay biến đổi vì già,
Như rễ cây khô cằn,
Nhăn nhiu và thô nhám,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước vú ta sáng chói,
Căng thẳng và tròn đầy,
Nay biến đổi vì già,
Trống rỗng treo lủng lẳng,
Như da không có nước,
Trống không, không căng tròn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước thân ta chói sáng,
Như giáp vàng đánh bóng,
Nay biến đổi vì già,
Ðầy vết nhăn nhỏ xíu,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước bắp vế của ta,
Sáng chói như vòi voi,
Nay biến đổi vì già,
Giống như những ống tre,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước ống chân của ta,
Mềm mại như kiền vàng,
Nay biến đổi vì già,
Chẳng khác gậy cây mè,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Trước chân ta chói sáng,
Với lông mềm như bông,
Nay biến đổi vì già,
Nứt nẻ đầy đường nhăn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Thân này là như vậy,
Nay già chứa nhiều khổ,
Ngôi nhà đã cũ kỹ,
Vôi trét tường rơi xuống,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.

Khi quán xét như vậy bà thấy rõ hình tướng vô thường trên thân của mình, bà nhận thức được tánh vô thường của ba giới, nghĩa là nhận được thân vô thường, tánh vô thường trong 3 cảnh giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Bà nói khi quán được như vậy rồi là bà thông suốt được 3 cõi giới đều là vô thường hết. Khi phá được thân chấp của bà là thường thì bà phá được cái ngã của nó, rồi bà nhìn qua thế gian này thì bà thông suốt được các tánh vô thường của 3 giới. Tự tâm bà quán triệt tánh vô thường, khổ và vô ngã và từ đó bà phát triển tuệ quán bà chứng quả Alahán, thành tựu được tam minh. Từ chỗ bà phá vỡ được ngã chấp rồi, thì nó phát triển được tuệ quán tức là giới tuệ, cho nên bà nhập được Tứ thiền rồi chứng được tam minh, thành tựu được quả Alahán.

Nếu hằng ngày chúng ta cứ suy tư để nó phóng ra tri kiến mới mẻ để phá cái thân vô thường của ta thì 3 cõi giới này làm sao chúng ta không thấy nó là vô thường.

2.- Bài kệ sau này của vị tỳ kheo ni Rohinì nói lên cho chúng ta nhận được ông sa môn đúng, ông sa môn sai. Như vậy quý thầy biết Thầy phải tìm gương hạnh nào của các vị Thánh tăng để áp dụng vào giáo án chúng ta vừa học xong.

Bà Rohini đến nghe đức Phật thuyết pháp, chứng được quả dự lưu nghĩa là khi nghe đức Phật thuyết pháp thì bà không còn ưa ăn uống ngủ nghỉ chồng con tài sản. Bà li hết các cái đó. Các cái đó không còn cám dỗ bà được nữa, bà chứng quả dự lưu tức là dự vào dòng thánh là lìa các ham muốn thế gian, không còn ham muốn dục lạc nữa. Cha mẹ bà thường không đồng ý với người tu sĩ ăn không ngồi rồi. Đạo đức thế gian xem những người tu sĩ là loại người làm biếng, bà hiểu được sự chân thật của sự tu hành của các bậc thánh tăng, vì thế bà thuyết phục cha mẹ để được xuất gia. Khi được cha mẹ cho xuất gia thì bà triển khai thiền quán, chẳng bao lâu bà chứng quả Alahán. Nhớ lại cuộc đàm thoại giữa bà và phụ thân, ông thân của bà nói như sau:

Ðây là một Sa-môn,
Con thức ta tỉnh dậy,
Ðây là một Sa-môn,
Con khen tặng Sa-môn,
Muốn thành nữ Sa-môn.
Con tìm cho Sa-môn,
Rất nhiều đồ ăn uống.
Này hỡi, Rô-hi-ni,
Sao con quý Sa-môn?
Họ nhác không thích làm,
Sống với đồ người cho,
Họ ham lợi thích ngọt,
Sao con quý Sa-môn?

Bà trả lời cha:

Cha thân đã lâu rồi,
Hỏi con về Sa-môn,
Con tán thán sa môn
Tuệ giới hạnh tinh cần.
Chúng thích làm không biếng,
Chúng làm việc tối thắng,
Chúng trừ bỏ tham sân,
Do vậy con quý họ.
Ba cội gốc ác pháp,
Họ quét sạch thanh tịnh,
Mọi điều ác đoạn tận,
Do vậy con quý chúng.
Thân nghiệp chúng trong sạch,
Khẩu nghiệp chúng cũng vậy,
Ý nghiệp chúng trong sạch,
Do vậy con quý chúng.
Không cấu uế giải thoát,
Như vỏ ốc trong sạch,
Trong sạch cả bên trong,
Trong sạch cả bên ngoài,
Công đức chúng trắng tinh,
Do vậy con quý chúng.
Nghe nhiều thọ trì pháp,
Mạng sống đúng Chánh pháp,
Nhiếp tâm giữ chánh niệm,
Lời sáng suốt khiêm nhường,
Chúng chấm dứt đau khổ,
Do vậy con quý chúng.
Từ làng chúng ra đi,
Không nhìn ngó vật gì,
Chúng đi không mong chờ,
Do vậy con quý chúng.
Không tìm cầu kho tàng,
Không kho chứa, kho cất,
Chúng tầm cầu cứu cánh,
Do vậy con quý chúng.
Chúng không nắm giữ tiền,
Không nắm vàng, nắm bạc,
Chúng sống với hiện tại, (không để dành).
Do vậy con quý chúng.
Từ gia đình quốc độ,
Chúng xuất gia khác nhau,
Nhưng chúng thương kính nhau,
Do vậy con quý chúng.

Cha của bà nói với bà:

Hỡi này Rô-hi-ni,
Con sanh trong gia đình,
Con đem lại hạnh phúc,
Cho gia đình chúng ta,
Con tin Phật, Pháp, Tăng,
Lòng tín kính sắc bén.
Con biết rõ cái này,
Là ruộng phước vô thượng,
(pháp thiện)
Cả gia đình cúng kính,
Các vị Sa-môn này,
Tế đàn thiết lập đây,
Ðối với cha rất lớn.

Bà nói với cha:

Nếu cha sợ đau khổ,
Nếu cha không thích khổ,
Hãy quy y Phật-đà,
Quy y Pháp và Tăng,
Hãy chấp nhận giới đức,
Cha sẽ được hạnh phúc.
Cha hãy nói quy Phật,
(đứng trước Phật)
Quy y Pháp và Tăng,
Tôi chấp nhận giới luật,
Tôi sẽ được hạnh phúc. (hạnh phúc trong giới luật)

Bà nói tiếp với cha: 

Lúc trước ta chỉ là,
Bà con của Phạm thiên,
Nay ta chính thật là,
Một vị Bà-la-môn,
Ta chứng đạt Ba minh,
Ðược an toàn yên ổn,
Ba Vệ-đà chứng ngộ, 
(biết cái sai cái đúng trong 3 bộ Vệ Đà)
Ta tắm rửa thật sạch.

Chúng ta phải hiểu con đường tu hành của đạo Phật quả thật là dài và gian nan. Bởi chúng ta phải thấy con đường tu không phải trong một hai ngày. Khi nghe các bài kệ chúng ta đừng tưởng tu nhanh, chúng ta biết có những vị tu 25 năm, 30 năm, nhưng có người nhanh chóng lắm tại vì người ta ngộ được lí và dứt được thì tu rất nhanh, còn có người cũng ngộ nhưng dứt không được, bỏ không được nên phải tu lâu 25, 30 năm mới dứt. Cho nên sự dứt bỏ phải gan dạ, phải lầm lì dữ tợn mới dứt bỏ chứ không khéo chúng ta bị nó trói buộc mà chúng ta cứ ngở tưởng đã dứt.

Con đường tu hành của đạo Phật quả thật là dài và gian nan, không ai nói là dễ dàng, tuy nhiên đó là con đường duy nhất dẫn đến giải thoát trạng thái bất toại nguyện hay đau khổ. Những ai trong chúng ta có nguyện vọng tha thiết thành tựu chấm dứt sự đau khổ ấy cuối cùng phải đơn độc tiến bước trên con đường khó khăn muôn vàng này. Nhiều lúc chúng ta phải đành ngả gục bên đường, cho nên phải có đủ can đảm và ý chí sắt đá, cương quyết mỗi lần té ngã, phải tiếp tục đứng lên lại không chùng bước, phải luôn tiếp tục vững tiến.

Hôm nay dùng pháp hướng chưa được thì ngày mai thay đổi pháp hướng khác, quyết định phải quét cho ra tất cả các lậu hoặc, không phải chúng ta cứ ngồi ì hoài, cứ nhai đi nhai lại với câu pháp hướng đó. Phải thay đổi câu pháp hướng khác, phải trạch pháp liên tục chứ đâu phải một pháp hướng chết cứng như một câu thuộc lòng mà đọc hoài. Như vậy chúng ta biết khi dùng pháp hướng đó mà sau 2 ngày, 3 ngày không kết quả thì phải thay đổi pháp hướng liền, chỉ trừ ra pháp hướng nào mà các lậu hoặc bị quét, không còn trạng thái đau khổ nữa thì mới giữ, chứ pháp hướng mà lậu hoặc không hết thì phải thay, phải quăng nó đi.

Muốn được giải thoát cần phải có sự hướng dẫn của người đã thực hiện giáo pháp chơn chánh ấy, tức người đó phải có giới hạnh, giới đức, giới tuệ hẳn hòi mới cho chúng ta câu trạch pháp đúng theo căn cơ đặc tướng của ta. Phật đã nói chỗ quán niệm không khó mà cái khó là chỗ trạch pháp; trạch pháp sao cho đúng với hình tướng, đúng với nhơn tướng, đúng với đặc tướng của người ta. Do vậy khi chọn được người thầy như vậy rồi thì lời dạy của vị thầy là kinh nghiệm tu tập từ bản thân của vị này và vị này là người sáng suốt có trí tuệ đầy đủ cho nên mới biết được mình nằm trong đặc tướng nào mà giúp cho mình tu tập. Mình phải tin tưởng nơi vị đó và khép mình trong kỷ luật khuôn khổ tu tập vị đó đặt ra cho mình. Có khép mình trong kỷ luật và tu tập theo sự chỉ dẫn của vị đó thì mình mới tìm được sự giải thoát chơn thật và cụ thể tuyệt đối ngay ở đây, nghĩa là tìm thấy giải thoát ngay liền khi áp dụng câu trạch pháp được đưa ra, áp dụng pháp hành là có giải thoát trong tâm mình liền. Mặc dù áp dụng pháp hành chưa thuần thục nhưng có sự giải thoát thực sự, khi thuần thục thì thấy giải thoát hoàn toàn.

Thầy nhắc lại phần này để chúng ta đi trên con đường giáo án này: Muốn dạy về giới luật mà chúng ta cứ đập phá người ta hoài thì cũng làm cho chúng ta choáng đi, khi đập phá rồi thì chúng ta phải xây dựng nó lại để thấy đường lối đúng, đường lối sai cho mình tu, còn nếu chỉ đập phá thôi thì mình điên rồi. Xây dựng giáo án của Phật khó là phải biết lúc nào đập phá, lúc nào xây dựng là việc làm của người thấy trọng trách của nó.

Thầy xin nhắc lại giai đoạn tu tập này là bắt đầu giai đoạn thứ hai của người tu sĩ, không còn trong giai đoạn thứ nhất của người cư sĩ nữa. Giai đoạn tu tập này của người tu sĩ rất cơ bản cho đời sống tu tập theo Phật giáo.

Tam Quy là cơ bản nhất của người tu sĩ thọ cho nên phải hiểu để thực hiện con đường tu tập của mình trong lộ trình thứ hai này. Tam Quy giúp cho ta nhận ra được sự đúng, sai của người tu.

Đã nói quy y Phật mà vị thầy đó không sống đúng như Phật. Phật ăn ngày một bữa mà vị đó ăn ba bữa, như vậy ông quy y ai khác. Nếu chúng ta muốn tìm tu giải thoát trong Phật giáo thì chúng ta hãy nhìn Tam Quy Thập Giới của vị thầy đó để biết vị thầy đó là tu sĩ của Phật giáo hay tu sĩ của ngoại đạo, mặc dù vị thầy đó chỉ có thờ Phật. Ở đây chúng ta không nên nhìn chiếc áo với đầu cạo mà hãy nhìn oai nghi tế hạnh của vị ấy có đúng với oai nghi của Thập giới Sa di không.

Đức Phật trong một bài kinh đã xác định mục đích thiết lập Phật giáo là giải thoát cảnh khổ, chứ không phải giành giựt con người: "Này Nigrodha, lời tuyên ngôn của Như Lai khẳng định: Như Lai không muốn gồm thâu tất cả tín đồ trên thế gian này về mình, Như Lai không muốn các ông từ bỏ công trình tu học theo đạo giáo của các ông, từ bỏ lối sống hiện giờ của các ông, Như Lai cũng không phải đặt các ông tin vững chắc vào những việc mà chính các ông và các thầy của các ông xem là xấu xa và bất thiện. Như Lai chỉ cho các ông biết điều các vị thầy của các ông dạy là thiện, bây giờ Như Lai vạch cho các ông thấy điều thiện đó có đem lại an vui cho các ông không, nếu nó không đem lại an vui thì điều đó chưa thiện thì các ông không nên làm; mà điều các ông được dạy là xấu xa bất thiện mà Như Lai giải thích cho các ông nghe điều đó đem lại hạnh phúc an vui thì các ông nên làm.”

Như vậy đức Phật không can thiệp vào tôn giáo của ai, mà đức Phật chỉ muốn đem giáo lí đạo đức nhân quả lồng vào con người để họ dù đang ở tôn giáo nào cũng vượt thoát ra được khổ đau của lộ trình nhân quả. Đó là cái hay của Phật giáo. “Này Nigrodha, Như Lai chỉ nói lên những điều xấu xa và bất thiện mà không buộc ai loại bỏ những điều đó” (nghĩa là đức Phật nói nhưng không bắt buộc ai theo điều Phật nói, miễn là người ta thấy điều đó đem lại giải thoát an vui hạnh phúc được thì người ta lo chứ không bắt buộc ai hết. Đức Phật chỉ nói lên sự thật cho người ta thấy thôi, rồi người ta theo hay không là tự ý họ. Đức Phật chỉ nói lên những điều này là phiền nhiểu và quấy rầy chướng ngại, tạo hậu quả đau khổ dẫn đến chỗ nương tựa bất an cho mọi người, rồi người ta theo hay không là tự ý họ. Đức Phật chỉ nói lên từ duyên không đến duyên có tạo thành mạng lưới trói buộc phiền não ưu sầu bệnh chết suốt cả đời này sang đời khác của kiếp con người. Cho nên nhìn chung tôn giáo có, nhưng có tôn giáo nào dạy được cho con người thoát ra khổ này. Đức Phật chỉ dạy như vậy rồi người ta theo hay không là tự ý họ.

Ước vọng của Thầy khi ẩn bóng Thầy vẫn tiếp tục soạn giáo trình Đạo Đức Nhân Bản Nhân Quả để dẫn con người thoát ra khỏi khổ mặc dù họ đang ở trong tôn giáo nào, đúng theo bài kinh này. Thầy chỉ muốn con người thoát ra khỏi sự đau khổ do chính bàn tay và khối óc của họ tạo ra, cho nên suốt ba tháng này Thầy nỗ lực ngày đêm viết ra giáo án để xây dựng lại con đường đúng của đạo Phật để đem lại Đạo Đức Nhân Quả của đức Phật cho mọi người trên thế gian này thọ hưởng sự giải thoát khổ của bản thân họ. Dù Thầy có sao thì cũng cố làm cho giáo án này ra đời, được thực hiện trong đời nay để cứu con người thoát khổ.

"Vì thế Như lai muốn loại bỏ những điều ấy giúp mọi người thoát khổ nên không phân biệt giai cấp của xã hội và tất cả các tôn giáo trên thế gian này, do vậy Như Lai mới tuyên dạy giáo pháp của mình"Cho nên trong giáo đoàn thánh tăng, có những bậc giai cấp trong xã hội rất hạ tiện như giai cấp hốt phân (người làm vệ sinh chuyên dọn phân trong các hầm tiêu của thành phố), giai cấp chăn bò (người tôi tớ chăn bò cho các giai cấp cao của xã hội)... mà đức Phật vẫn chấp nhận và đưa họ vào tăng đoàn làm cho các vua chúa lúc bấy giờ quá sợ hãi. Trong đạo Phật không phân biệt giai cấp cho nên mới có các thánh tăng như Ca Chiên Diên.

Nếu sống đúng theo giáo pháp thì những gì có liên hệ đến ô nhiễm làm mọi người đau khổ sẽ được loại trừ (như ăn, ngủ); những thiện pháp làm cho con người trở nên trong sạch và an vui thanh thản được tăng trưởng, làm cho mọi người có thể sống bên nhau hạnh phúc mà không làm khổ nhau ngay tại đây và trong hiện tại mãi mãi. Bởi vậy nền giáo dục của đức Phật duy trì giá trị hướng dẫn thực dụng vào đời sống đạo đức nhân quả của con người. Từ xưa cho đến nay không có một nền giáo dục đạo đức nào so sánh hơn được.

Nền giáo dục Phật giáo không phải dành riêng cho một chủng tộc, một quốc gia hay một vùng nào, mà phải được phổ cập khắp cùng mọi nơi trên hành tinh này để cứu con người ra khỏi các hành động thuộc ác pháp của chính họ. Nền giáo dục của Phật giáo dạy con người có lối sống vững vàng mạnh mẽ và thuần đạo lí nhân quả. Nền giáo dục của Phật giáo là một nền giáo dục thực dụng và hợp với lí trí của con người nhất. Nền giáo dục của Phật giáo không có một lí luận nào dưới mọi hình thức mê tín, cuồng tín xen vào đạo đức nhân quả của Phật giáo được. Nền giáo dục của Phật giáo là bức thông điệp của đức Phật để lại cho mọi người thời đại này và ngày mai.

Chúng ta đều nhận thức rằng nền giáo dục đạo đức nhân quả của đạo Phật cung ứng thích nghi giải đáp cho những thắc mắc mà tâm ý con người hiện đại đang khao khát mong tìm nền đạo đức nhân bản (đạo đức của con người) chơn thật. Nền đạo đức nhân quả là nền đạo đức nhân bản chơn thật để giải quyết các khó khăn trên khắp toàn cầu.

3.- Đây là bài pháp giữa trưởng lão tỳ kheo ni Dhammadinna với người chồng cũ, Visakha, khi Bà về thăm nhà. Ông Visakha hỏi:

- Bản thân của chúng ta được gọi là ngã, còn Thế tôn gọi nó như thế nào?

- Này Hiền giả Visakha, Thế tôn gọi năm thủ uẩn là tự thân, chớ không gọi là tự ngã, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Năm thủ uẩn này Thế tôn gọi là tự thân, không gọi là tự ngã.

- Lành thay! Xin Ni sư cho hỏi thêm: Tự thân tập khởi được gọi như vậy, còn Thế tôn gọi như thế nào? (nghĩa là tự thân tập khởi được gọi là tự thân chứ không gọi là tự ngã, vậy thì tự thân đó có cái gì trong đó nữa không, còn gọi tên gì khác không hay chỉ gọi nó là tự thân thôi, còn dụng gì không, còn thể gì trong đó không, hay chỉ bấy nhiêu đó gọi là tự thân thôi)

- Này Hiền giả Visakha, khát ái này đưa đến tái sanh câu hữu với hỉ, tham (Ở trong tham có khát ái, có khao khát, có sự ham muốn, mà có khát ái thì đưa lại tái sanh. Thân ngũ uẩn này có tái sanh tiếp diễn là có mầm mống của khát ái, mà khát ái phải có thêm cái khác phụ trợ để tạo thành đó là câu hữu với hỉ, câu hữu với sự thích, sự vui mừng. Sau khi câu hữu với hỉ tham rồi thì mới có sự tìm cầu hỉ lạc. Bản chất thân của con người là tìm cầu, mà sự tìm cầu muốn có được thì phải kết hợp với tham. Thí dụ muốn ăn ngon thì kết hợp với tham, có tham mới muốn có đồ ăn, như muốn có chén chè để ăn thì phải câu hữu với tham là phải đi mua đậu mua đường về nấu. Và khi có chén chè rồi thì cầu được cái hỉ lạc là khi bỏ vào miệng ăn có cái ngon. Cái ngon đó là hỉ lạc của nó), tìm cầu hỉ lạc chỗ này chỗ kia tức là dục ái, hữu ái, và phi hữu ái. Khát ái này Thế tôn gọi là thân tập khởi (Năm thủ uẩn họp lại gọi là tự thân, trong tự thân còn cái hoạt dụng là khát ái làm cho linh động. Tự thân phải có cái gì trong đó nó mới thành cái ngã. Nói tự thân là nói một phần thủ uẩn họp lại mà thôi. Chỗ này chỗ kia, hỉ lạc thế này thế kia, mà khi chỗ này chỗ kia có, thì đó là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Khát ái này đức Phật gọi là thân tập khởi (ngũ uẩn kết hợp lại mới thành cái thân của chúng ta, gọi là tự thân, mà khi kết hợp lại thì có khát ái. Chúng ta không rời được tham sân si là do sự tập khởi thêm của thân, mà sự tập khởi thêm của thân thì nó là khát ái).

- Thưa Ni sư, thế nào là thân diệt (trên là hỏi về tập khởi của thân, nay hỏi về thân diệt) và đức Thế tôn gọi thân diệt là như thế nào (muốn diệt 3 tập khởi là dục ái, hữu ái và phi hữu ái, làm cho dứt ái gọi là đoạn diệt)

- Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt, không tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự dứt bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp. Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt này, Thế Tôn gọi là tự thân đoạn diệt. (sự đọan diệt như thế nào? - Là không tham đắm. Thí dụ chúng ta muốn ăn cái gì là do tâm tham vậy chúng ta đừng cho tham, đoạn dứt nó đi "tham là khổ, không được, đừng có tham". Muốn làm chủ sanh tử thì phải không sợ chết. Bà Dhammadinna còn bảo không có dư tàn của khát ái tức là dứt bỏ tâm tham rồi mà còn triệu chứng của tham là còn dư tàn. Đó là chúng ta phải dùng những pháp hành phá tâm tham, đó là cách thức chúng ta xả li. Sự dứt bỏ, sự từ bỏ, sự giải thoát, sự vô chấp bà Dhammadinna thêm cho chúng ta thấy sự mạnh mẽ đoạn dứt trong pháp hướng qua những từ này, lấy tinh thần đoạn dứt trong khi giữ giới luật không vi phạm, Thế Tôn gọi là tự thân đoạn diệt tức là tự thân của mình phải làm, không ai làm thay.

- Thưa Ni sư, tự thân diệt đạo như thế nào? (Ở trên ông Visakha chỉ hỏi tự thân diệt chứ không hỏi diệt đạo. Hồi nãy là tự mình, mình thấy điều đó là tham thì dứt trừ liền mà không có đường lối tu tập, không có pháp tu. Và Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo là như thế nào? Và bà dùng đạo nào diệt hết khát ái đó và đức Thế tôn dùng đạo nào để diệt khát ái, nghĩa là hai cách diệt khát ái có giống hệt nhau không.)

- Hiền giả Visakha, Con đường Thánh đạo tám ngành, Thế Tôn gọi là tự thân diệt đạo, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Bà Dhammadinna trả lời là con đường đức Phật dạy và bà chấp nhận con đường này là tự thân diệt đạo chứ không còn con đường nào khác, bà cũng chỉ hiểu như vậy mà thôi, nghĩa là chỉ có tám nẽo này mới được gọi là tự thân diệt đạo mà thôi. Nghĩa là không có pháp nào diệt được khát ái, diệt được 3 cái dục ái, hữu ái, phi hữu ái đó được. Sau này quý thầy sẽ thấy chúng ta tu 37 phẩm trợ đạo đều quây quanh trục chính tám chánh đạo này.

BÀI HỌC GIỚI LUẬT

Trải qua hơn hai mươi mấy thế kỷ, các loại kinh sách phát triển đã thay đổi bộ mặt thật của Phật giáo thành một bộ mặt của Phật giáo mới: tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia. Vì thế trong các chùa hiện giờ ngũ dục lạc đầy đủ còn hơn người thế tục, hưởng dục lạc bằng mồ hôi nước mắt của người khác. Họ đã hiểu Phật giáo mà cố ý phá hoại Phật giáo, nghĩa là họ hiểu giới luật của Phật giáo, bởi vì chúng ta thấy rất rõ đi vào lộ trình thứ hai của người tu sĩ thì Thập giới Sa di là căn bản nhất, thế mà hiện giờ các tu sĩ biết giới luật đó, biết không cất giữ tiền bạc mà vẫn cất giữ tiền bạc, biết không ăn phi thời mà vẫn ăn phi thời, biết không mặc y phục đẹp mà vẫn mặc y phục đẹp, biết cấm ca hát hoặc xem ca hát mà vẫn ca hát và xem ca hát. Đó là tất cả những điều đức Phật đã cấm người bước vào lộ trình thứ hai tu tập để giải thoát, tức là li dục li ác pháp thế mà người ta không li được nên biết mà cố ý vi phạm giới luật của Phật, mà đã phạm giới luật của Phật tức là cố ý phá hoại Phật giáo bằng những loại kinh không đúng tính cách của đạo Phật, làm lệch con đường đạo Phật.

Đứng trên nhân quả của đạo Phật thì mọi hành động của chúng ta, nếu thiện thì đem lại hạnh phúc cho mình, mà ác thì đem đến tai họa cho mình. Thế mà ở đây có những kinh dạy người phật tử phải cầu khẩn thì tai nạn mới qua, cho nên có những câu kinh nói ai có tai nạn gì chỉ cần niệm câu Quan Thế Âm bồ tát thì được cứu khổ, như vậy làm cho người mê tín không hiểu Phật pháp thì cho đó là lời Phật dạy. Có người niệm Quan Thế Âm thì thấy có hiệu quả nên họ tin Bồ tát Quan Thế Âm có thật, vì thương chúng sanh có sự đau khổ, có tai nạn, hay bị tù tội mà cứu rỗi. Cho nên bây giờ mọi phật tử có tai nạn gì hoặc đau ốm đều thắp hương cầu khẩn Bồ tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn. Trong cuối phẩm Phổ Môn của kinh Diệu Pháp Liên Hoa có những câu ngắn gọn cho phật tử dễ nhớ dễ thuộc, những câu đó như vầy: Hoặc bị tù tội, tai nạn, hoặc bị rắn độc, người đó niệm bỉ Quan Âm lực thì sẽ được giải cứu ngay. Những lời dạy trong kinh như vậy làm cho người ta lấy phẩm kinh này làm kinh cầu an trong gia đình, cho nên trong các chùa và các gia đình lấy phẩm này tụng hằng đêm để cầu Bồ tát Quan Thế Âm gia hộ cho được bình an.

Như vậy họ đã làm lệch giáo pháp của đạo Phật vì trong đạo Phật thì không ai cứu khổ cho mình được mà chỉ tự mình cứu mình mà thôi, cho nên đức Phật khi còn sống đã nói với các đệ tử phải tự thắp đuốc mà đi, đức Phật chỉ là người hướng dẫn mà thôi. Bây giờ các kinh sách phát triển biến chư Phật chư Bồ Tát thành những vị thần phù hộ.

Qua bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa này chúng ta xét thấy rất là phi lí nên Thầy đặt vấn đề như một kẻ cướp của giết người, bị công an bắt và pháp luật kết án tử hình rồi kẻ ác này niệm Bồ tát Quan Thế Âm gia hộ cho được ra tù, được khỏi chết thì thử hỏi trong xã hội sẽ ra sao với bọn hung ác này, như vậy đâu còn sự công bằng của luật nhân quả nữa. Hay như bọn buôn lậu ma túy mà cứ niệm Bồ tát Quan Thế Âm gia hộ cho thì chúng không bị bắt, như vậy nhiều người sẽ nghiện thuốc phiện, tinh thần bạc nhược. Bồ tát Quan Thế Âm gia hộ cho số người buôn thuốc phiện mà làm khổ cho số người nghiện, như vậy đâu có công bằng. Loại kinh đó thấy rõ là phi Phật pháp vì khuyến khích người làm sai quấy. Nếu quả có một Bồ tát Quan Thế Âm như vậy thì Bồ tát Quan Thế Âm có phải là một người từ bi thương người không, hay chỉ là một ác quỷ để gia hộ cho kẻ xấu, kẻ cường hào ác bá. Kinh sách dạy như vậy có phải là kinh sách của tà giáo ngoại đạo không. Xin quý vị suy nghĩ. 

Người ta còn kiến giải biện hộ Bồ tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho người lành chứ không cứu cho người ác. Đứng trên lập trường nhân quả, người lành sao có tai nạn. Người có tai nạn là do hành động hung ác nào nên mới có quả tai nạn đó. Thí dụ như người không ăn trộm thì làm sao bị bắt ở tù, mà không bị bắt ở tù thì cầu Quan Âm làm gì. Có khổ, có tai nạn mới cầu Quan Âm chứ, không có gì cả thì cầu Quan Âm làm gì. Như vậy cái lí đó không vững. Như vậy không có ai bị tai nạn, bệnh tật thì Quan Âm thừa vì có ai cầu đâu để Quan Âm độ; mà nếu Quan Âm độ cho người có tai nạn thì vì người đó làm ác nên mới có tai nạn. Như vậy Quan Âm độ cho người ác thì người ác đó sẽ hại bao nhiêu người khác. Vì thế kinh Pháp Hoa chẳng những phi Phạm hạnh mà còn phi nhân quả của đạo Phật, một loại kinh tưởng của người sau viết ra gây mê tín cho những người thiếu trí tuệ, vô minh, ngu si.

Hiện giờ các thầy và cư sĩ Bắc tông tin tưởng mù quán kinh Pháp Hoa, lấy kinh này làm kinh nhật tụng, ai ai cũng cố gắng tụng niệm hằng đêm hằng ngày, lại lấy nó làm thời khóa tu tập. Có người vẽ vời câu chuyện này câu chuyện kia của Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn một cách linh thiêng và huyền diệu khiến người ngu mê càng mê mờ hơn nữa. Như người ta đặt ra chuyện có một chiếc xe khách đang đổ dốc thì bị đứt thắng sắp lao xuống vực thẳm thì trong xe có một người khách trong nhà có thờ Quan Âm và hằng tụng đọc kinh Phổ Môn, trong lúc nguy cấp, người này một lòng niệm Quan Âm nên ngay khi xe sắp lao xuống vực thì ngưng lại như có ai giữ xe đó vào lúc sắp rơi. Cũng có chùa đặt tên là chùa Quan Âm vì họ tin Bồ tát Quan có sự linh thiêng hằng cứu giúp cứu khổ cứu nạn. Lòng tin đó của nhiều người về sự linh hiển của Bồ Tát Quan Âm mà có đúng như lòng tin đó không, nếu có thì do đâu chứ nếu không hiểu rõ thì chúng ta không thể giải thích về sự linh ứng này. Chúng ta giải thích cho đúng với luật nhân quả của đạo Phật, chúng ta không phủ nhận sự linh hiển này nhưng vì nó không phải do Bồ Tát Quan Âm gia hộ mặc dù trong lúc đó có người đã niệm Quan Thế Âm. Nếu không giải thích rõ ràng thì không làm sao bác họ vì họ cho họ giải thoát tai nạn là do họ niệm danh hiệu Quan Thế Âm, họ còn cho ta muốn phỉ báng kinh Pháp Hoa. Thật sự họ được giải thoát tai nạn là do tưởng uẩn của họ lưu xuất ra cứu họ vì họ đã làm những việc lành trong cuộc đời của họ trước hoặc từ khi họ biết niệm Bồ Tát Quan Âm. Không những vậy mà có những người có những việc lành trong đời trước hoặc trong đời này tích tụ lại cho nên khi quả của ác nghiệp đến thì được chuyển nhờ nghiệp lành của họ tích tụ nói trên. Người biết niệm Phật là người biết việc lành và thường làm việc lành nên có quả phước nhờ vậy họ thoát tai nạn. Nếu không hiểu như vậy thì sẽ trở nên mê tín vì không lẻ biết tụng kinh niệm Phật lại làm ác sao? Vì tụng kinh niệm Phật không phải chúng ta cầu xin oai lực Phật gia hộ mà chỉ giúp ta làm thiện theo chỗ tụng kinh niệm Phật đó.

Một vị thầy phải giải thích cho họ hiểu rõ luật nhân quả bằng không thì họ cho là có chư Phật chư Bồ tát gia hộ mình. Tụng kinh mà giữ được thiện là tốt chứ có người tụng kinh mà không giữ được thân khẩu ý thiện thì chẳng giúp ích gì, chẳng có phước báu gì. Số mạng thì cũng theo nhân quả nhưng số mạng cố định không thay đổi, hết nghiệp ác qua nghiệp thiện tuần tự theo việc người đó làm; còn nhân quả thay đổi theo nghiệp thiện ác, không cố định.

Như câu chuyện có chú Sa di trên đường về nhà thăm cha mẹ, chú đã cứu đàn kiến bị giòng nước cuốn trôi nên được hưởng phước tăng tuổi thọ trong hiện kiếp, lẻ ra theo thuyết định mệnh thì trong hiện kiếp chú phải chết rồi trong kiếp vị lai cái phước chú cứu đàn kiến thì tuổi thọ của chú mới được tăng thêm chứ không phải chuyển tuổi thọ ngay trong hiện kiếp.

Do vậy đạo Phật đem đạo đức nhân quả dạy chúng ta để chuyển đời khổ của con người thành cuộc sống an vui hạnh phúc, cũng vì chỗ này nên đức Phật đem giáo lí của mình dạy cho người ta chuyển tâm ham muốn, chuyển tâm dục của người ta, cho người ta li hết các ác pháp để người ta giải thoát; chứ nếu định luật nhân quả không khác định mệnh thì đức Phật không dạy định luật nhân quả đâu. Nếu không hiểu sự khác biệt này, chúng ta dễ bị mê tín lắm.

Các vị tôn túc của chúng ta không thực hiện được sự giải thoát nên không thấy được lộ trình này, cho nên có những câu chuyện như người đã thành Phật rồi mà bị nhức đầu do quả trong một kiếp xưa khi dồi chơi đầu con cá mà nay sau khi thành Phật bị quả nhức đầu, hay câu chuyện Bách Trượng Giả Hồ nói có vị Thượng Tọa nói sai một lời mà bị đọa làm thân chồn trong 500 kiếp. Đó là các câu chuyện định mệnh chứ không phải nhân quả. Cho nên biết là định mệnh thì đừng khổ mà thôi, sai với thuyết nhân quả là thuyết về sự chuyển hết các nghiệp ác bằng nghiệp lành tương đương. Nhân quả rất linh động và chuyển hóa nghiệp, không phải như thuyết định mệnh không chuyển được nghiệp và theo thuyết định mệnh như vậy thì làm sao tu để giải thoát.

Nếu chuyển thì chúng ta cũng phải có phương pháp chuyển. Cái thân này là thân vô thường, cái thân nhân quả thì nó phải có sự hoại diệt. Mà có sự hoại diệt cho nên Phật nói cái gì vô thường thì khổ tức là có bệnh. Chúng ta lại có phương pháp chuyển cho hết bệnh, mà khi hết bệnh thì chúng ta đâu thấy khổ. Chúng ta chuyển bằng sức tu tập, chúng ta li dục li bất thiện pháp, chúng ta li tất cả pháp làm tâm tham sân si không còn nữa, lúc bấy giờ chúng ta sẽ có sự mát lạnh. Cho nên Phật nói khi tận cùng sức chịu đựng của thân mạng chúng ta trong thọ khổ thì sẽ có cảm giác mát lạnh. Đó là chỗ chúng ta chuyển cho nên tâm chúng ta luôn luôn bất động. Còn người không thực hiện đến chỗ giải quyết nhân quả, làm chủ được sanh tử nhân quả, lúc đau quá chịu không nổi nên không mát lạnh vì ý tập trung trong sự vô thường của các thọ cho nên vì vậy mà không thoát khổ.

Nãy giờ chúng ta bàn ra ngoài vấn đề để thấy được cái đúng cái sai của đạo Phật và thấy được cái tư duy cho đúng đắn để chúng ta không lạc lầm vào mê tín chứ không phải Thầy bác tụng kinh niệm Phật. Thầy vẫn cho rằng tụng kinh niệm Phật tạo được nhân lành cho chúng ta thọ hưởng phước lành đem lại sự an ổn yên vui cho mình, cho người chung quanh.