In bài này

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (vần Q,R,S)

Lượt xem: 4844

(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các từ và câu kinh được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng trong tất cả các sách của Ngài)

Vần Q

Quan sát (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) (thân, thọ, tâm, pháp). là xem xét, tỉnh thức, không bị mờ mịt, mê mờ, thấy biết rõ ràng từng sự kiện xảy ra không bỏ sót một việc nhỏ nhặt nào trên thân, thọ, tâm và pháp.

 

Quá mạn (CầnBiết.2)(CầnBiết.3) Mình bằng người mà cho là hơn người; người hơn mình mà cho là bằng.

Quán (Đường Về.7)(ĐườngVề.9)(ĐườngVề.10)(ThiềnCănBản)(TâmThư.1)(10Lành) là quan sát bằng mắt; bằng sự cảm nhận, là sự tham cứu, là sự tự tri tự giác, tự mình khám phá và nhận đúng vạn hữu với mình không phải là hai. Quán có nghĩa là quan sát, xem xét, tư duy, suy nghĩ về một pháp gì, một việc gì, một điều gì, v.v... Hiểu như vậy mới hòa mình với vạn vật thiên nhiên mà không còn thấy chướng ngại. Điều quan trọng nhất trong việc tu quán là đầu tiên chúng ta phải mượn ý Phật, ý Tổ làm nơi nương tựa để rồi tự mình quán xét, tự mình mở cửa vũ trụ. Quán vô thường, quán ly tham ở Định Niệm Hơi Thở là pháp dẫn tâm vào đạo. Quánlà quán xét tâm để tâm không còn tham, sân, si nữa thì tâm sẽ biết hơi thở hít vô, sẽ biết hơi thở thở ra. Chứ không phải hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra, đó là cách thức tu tập ức chế tâm để tỉnh thức, chứ không phải xả tâm. Cách hành chữ quán như câu “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, câu này có ba nghĩa và có ba kết quả trong một hành động tu: 1- Nhắc nhở tôi quan sát xem xét tâm tôi có khởi lên tham muốn cái gì không? Nếu có thì tôi phải tỉnh thức quán xét tâm tham muốn đó “để xa lìa” như tôi đang tỉnh thức biết hơi thở vô ra vậy. 2- Nếu không có niệm khởi tâm tham muốn thì nó giúp tôi tỉnh thức trên tâm tôi, tôi biết rõ tâm tôi “không có tham muốn” tức là tôi biết rõ tâm tôi đang ở trong trạng thái “thanh thản, an lạc và vô sự” như tôi đang tỉnh thửc biết hơi thở ra vô rõ ràng vậy. 3- Nếu tâm tôi không có niệm khởi tham muốn thì câu pháp hướng trên sẽ thấm nhuần “lý ly tham”và sau này trở thành một “nội lực không tham muốn” nó sẽ giúp tôi đoạn diệt lòng tham muốn. Khi dùng pháp Quán để thấu suốt cội nguồn của bệnh tật: nguyên nhân của bệnh tật chỉ do duyên hợp nhiều đời, cũng như ngay trong đời hiện tại đang tạo tác. Nhờ thấu rõ cội nguồn của bệnh tật, nên tâm tư không còn lo ngại sợ sệt, thường nhìn thẳng vào bệnh tật, lòng không chút sợ hãi, lo lắng. Đủ duyên hợp lại thành bệnh tật, khổ đau vui buồn, thương ghét, giận hờn ... Hết duyên tất cả phiền lụy đều tan hết. Hành giả phải chấp nhận bệnh tật, hoặc tai nạn. Không bao giờ sợ hãi và tìm cách trốn tránh. Lúc nào cũng vui vẻ trả nghiệp và luôn luôn tạo thiện nghiệp.

Quán 10 Điều Lành (10Lành) là sự tham cứu, là sự tự tri tự giác, tự mình khám phá và nhận đúng vạn hữu với mình không phải là hai. Khi hiểu được như vậy chúng ta mới có thể hòa mình với vạn vật thiên nhiên mà không còn thấy chướng ngại. Pháp môn quán của đức Phật đã giảng dạy là “Nhị Thừa”. Pháp môn này dùng để đối trị tất cả tư tưởng phiền não. Khi thấu suốt con đường quán của Nhị Thừa, chúng ta mới thấu rõ là tất cả hiện tượng vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ đều do duyên hợp tạo thành chớ không do một đấng vạn năng nào biến hóa ra. Xét cho cùng tột về cuộc sống của chúng ta, ta mới thấy ngã không, người không và vạn hữu đều không. Như vậy tất cả hiện tượng đều quy về không: không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ”. Đức Phật dạy tất cả hiện tượng trong thế gian đều quy về không: không ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ, thế mà mọi vật trước mắt chúng ta sờ sờ mà bảo là không thì hóa ra lời dạy kia phi lý và mâu thuẫn với chính nó hay sao? Muốn rõ lý sắc không, chúng ta phải có sự tư duy cho tường tận mới thấy vạn hữu là không. Ví dụ: muốn dựng một cái nhà phải do nhiều thứ hợp lại như kèo, cột, vách, lá, phên, cửa, đòn dông hợp lại tạo nên một cái nhà. Nếu lấy một cây cột mà bảo đó là cái nhà thì không đúng. Sinh mạng của con người chỉ kết hợp do tứ đại và tâm thức. Hay nói một cách khác hơn, conngười do duyên hợp bởi đời sống vật chất và tâm lý. Ðời sống vật chất gọi là sắc uẩn, đời sống tâm lý gọi là thọ, tưởng, hành, thức uẩn; gọi chung là Ngũ Uẩn. Ðứng về phương diện không gian, vạn hữu trong vũ trụ vốn giả hợp; còn về phương diện thời gian thì vạn hữu vốn sanh diệt không ngừng; cho nên thân ngũ uẩn tạm có gọi là sanh mệnh chúng sanh, khi ngũ uẩn tan rã thì gọi là sanh mạng chúng sanh chấm dứt hay chết. Ví như cây cổ thụ xum xuê tàng lá, một cơn gió to cành lá phải xác xơ. Một vườn cây đang kết hoa nẩy nụ làm quả, một trận mưa đá, tuyết rơi làm hư hoại tất cả. Ðó là duyên tan. Một cơn mưa to trút xuống, các cây cành đang héo úa gặp mưa liền đâm chồi nẩy tược. Ðó là duyên hợp. Câu trả lời này là của đức Phật chớ không phải của chúng ta. Ðiều quan trọng nhất trong việc tu QUÁN là đầu tiên chúng ta phải mượn ý Phật làm nơi nương tựa để rồi tự mình quán xét, tự mình mở cửa vũ trụ. Khi quán đã thuần thục thì nguồn giải thoát hiện tiền nơi tâm mình, bấy giờ chúng ta mới thật sự tự vươn cánh chim bằng thênh thang bay vút tận trời xa.

Quán các cảm thọ (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là tỉnh giác trên thân biết rõ thân đau bệnh gì, nhức mỏi chỗ nào, nhờ đó mới đối trị và nhiếp phục đẩy lui chúng ra khỏi thân bằng phương pháp như lý tác ý và an trú tâm trong thân hành nội hay thân hành ngoại. Đây là phương pháp làm chủ bệnh trong pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có Phật giáo mới có mà thôi. Nói Quán các cảm thọ thì đừng nghĩ lầm là chỉ có quán thọ mà thôi. Vì nghĩ lầm nên có một số trường thiền dạy tu Tứ Niệm Xứ lại cắt pháp môn Tứ Niệm Xứ ra bốn phần: Có trường thiền chuyên tu tập QUÁN THÂN; có trường thiền lại chuyên tu tập QUÁN THỌ; có trường thiền chuyên tu tập QUÁN TÂM. Nhưng chưa có trường thiền chuyên tu tập QUÁN PHÁP. Đó là một sự sai lầm quá lớn. Trong kinh sách Nguyên Thủy chưa từng thấy Phật dạy tu tập Tứ Niệm Xứ phân chia thân, thọ, tâm, pháp như vậy. Vì thế, nên hiểu: Nói quán thân chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán thọ chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán tâm chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán pháp chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Có tu tập như vậy mới gọi là tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Còn tu tập từng phần là tu tập sai pháp!

Quán các pháp (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là xem xét rất kỹ về các pháp đang tác động vào thân tâm, những pháp ấy làm cho thân tâm bất an, thì dùng pháp phòng hộ các căn. Khi phòng hộ các căn thì các pháp sẽ không xâm chiếm vào thân tâm được. Trong định Niệm Hơi Thở có hai đề mục phòng hộ thân tâm rất tuyệt vời, đó là: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Hai đề mục này muốn có kết quả tốt và hiệu nghiệm thì hãy siêng năng tu tập cho chứng đạt được sự an trú vào hơi thở. Có tu tập như vậy mới gọi là tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Còn tu tập từng phần là tu tập sai pháp. Nói Quán các pháp thì đừng nghĩ lầm là chỉ có quán các pháp mà thôi. Vì nghĩ lầm nên có một số trường thiền dạy tu Tứ Niệm Xứ lại cắt pháp môn Tứ Niệm Xứ ra bốn phần: Có trường thiền chuyên tu tập QUÁN THÂN; có trường thiền lại chuyên tu tập QUÁN THỌ; có trường thiền chuyên tu tập QUÁN TÂM. Nhưng chưa có trường thiền chuyên tu tập QUÁN PHÁP. Đó là một sự sai lầm quá lớn. Trong kinh sách Nguyên Thủy chưa từng thấy Phật dạy tu tập Tứ Niệm Xứ phân chia thân, thọ, tâm, pháp như vậy. Vì thế, nên hiểu: Nói quán thân chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán thọ chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán tâm chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán pháp chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Có tu tập như vậy mới gọi là tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Còn tu tập từng phần là tu tập sai pháp! Quán niệm hơi thở chỉ là một phương pháp tu tập tỉnh thức mà thôi, chứ nó không phải thiền định. Tu hơi thở không thể nhập định được, tu hơi thở là để an trú thân tâm. An trú thân tâm trong hơi thở là để đẩy lùi các chướng ngại pháp.

Quán các pháp vô thường (CưSĩTu) để thấm nhuần các pháp đều vô thường, nhờ thế các pháp đến với chúng ta là chúng ta đều buông xả sạch. Ðây là một đề mục tu tập hơi thở trong pháp môn Tứ Niệm Xứ. Nhìn các pháp mà không dính mắc, không chấp trước; nhìn các pháp để tìm lỗi mình không tìm lỗi người; tìm lỗi mình để sửa mình không còn phiền não khổ đau; tìm lỗi mình để biết thương yêu mọi người; tìm lỗi mình để mình trở nên người thiện, người hiền, người tốt, người làm chủ được tâm mình.

Quán ly tham (CưSĩTu) Khi tâm tham đã được ly ra thì tâm chúng ta luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm thanh thản, an lạc và vô sự là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, nhập vào Niết Bàn, chấm dứt tái sanh luân hồi. Thường tác ý câu: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô; quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, rồi nương vào hơi thở nhiếp tâm và an trú thì ngũ triền cái: tham, sân, si, mạn, nghi sẽ bị diệt trừ trong đề mục này. Trong hai tâm này diệt một tâm này thì tâm kia phải diệt. Biết rõ điều này nên đức Phật đưa vào Ðịnh Niệm Hơi Thở sáu đề mục liên tục (ly, đoạn, diệt) để diệt trừ tâm tham và tâm sân. Vì tâm sân diệt là tâm tham diệt; tâm sân còn là tâm tham còn. Nếu chuyên cần tu tập hằng ngày, rảnh giờ nào tu tập giờ nấy. Suốt thời gian một năm tu tập tâm sân sẽ bị diệt trừ. Tâm sẽ như đất, không còn chướng ngại pháp nào làm tâm sân được.

Quán tâm (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là xem rất kỹ về tâm, tâm đang động hay tâm đang tịnh, tâm đang tịnh là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Còn khi nào tâm mất thanh thản, an lạc và vô sự là tâm rơi vào hai trạng thái một là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không; hai là tâm đang phóng dật, phóng niệm. Khi tâm rơi vào hôn trầm, thùy miên vô ký, ngoan không thì hãy nhớ giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh đừng để vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào và tu tập pháp môn Thân Hành Niệm. Nếu tu tập đúng như vậy thì hôn trầm, thùy miên, ngoan không sẽ không còn. Trong Ðịnh Niệm Hơi Thở có hai đề mục phá hôn trầm thùy miên vô ký, đó là “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”. Ðề mục thứ hai: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”. Khi vận dụng hơi thở dài tức là hơi thở chậm thì hôn trầm cũng hết. Nói Quán tâm thì đừng nghĩ lầm là chỉ có quán tâm mà thôi. Vì nghĩ lầm nên có một số trường thiền dạy tu Tứ Niệm Xứ lại cắt pháp môn Tứ Niệm Xứ ra bốn phần: có trường thiền chuyên tu tập QUÁN THÂN; có trường thiền lại chuyên tu tập QUÁN THỌ; có trường thiền chuyên tu tập QUÁN TÂM. Nhưng chưa có trường thiền chuyên tu tập QUÁN PHÁP. Đó là một sự sai lầm quá lớn. Trong kinh sách Nguyên Thủy chưa từng thấy Phật dạy tu tập Tứ Niệm Xứ phân chia thân, thọ, tâm, pháp như vậy. Vì thế, nên hiểu: Nói quán thân chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán thọ chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán tâm chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán pháp chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Có tu tập như vậy mới gọi là tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Còn tu tập từng phần là tu tập sai pháp!

Quán tâm định tỉnh (CưSĩTu) là đề mục phá tâm si, vì vậy phải cố gắng tu tập với đề mục này cho nhuần nhuyễn. Khi tu tập đã nhuần nhuyễn thì không bao giờ có hôn trầm thùy miên và vô ký, tu tập chưa nhuần nhuyễn thì sẽ bị hôn trầm thùy miên đánh gục. Cho nên, trước khi muốn tu tập một pháp môn nào, có thể sử dụng đề mục này trước để giữ tâm được tỉnh táo, không bị những trạng thái si mê xen vào trong lúc tu tập. Nếu đã diệt trừ tâm tham, tâm sân thì tâm si cũng đã bị diệt mất. Vì thế khi tu tập đề mục này, chỉ cần tác ý: “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô; quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”, là tâm định tỉnh có ngay liền. 

Quán tâm vô thường (CưSĩTu)(MuốnChứngĐạo) Hằng ngày quán tâm vô thường để chúng ta không bị kiến chấp Linh hồn, Phật tánh thường hằng của tà giáo ngoại đạo. Và luôn nhờ có quán tâm vô thường nên từng tâm niệm sanh khởi chúng ta không bị dính mắc và chấp đắm. Ðây là tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở câu hữu với Tứ Niệm Xứ. 

Tâm không bao giờ chịu đứng yên một chỗ mà hay lăng xăng khởi niệm, niệm này chưa xong liền khởi niệm khác. Đó là tính Vô Thường của tâm. Do tính Vô Thường của nó như vậy nên khi chưa làm chủ được tâm thì chúng ta chịu khổ đau với nó không phải là ít. Cho nên hằng ngày hãy tác ý câu: “Quán tâm vô thường tôi biết tôi hít vô; quán tâm vô thường tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý xong thì chịu khó quán xét Tâm Vô Thường ở nhiều góc cạnh khác nhau. Do quán xét như vậy chúng ta sẽ không bị tâm mình lừa gạt và không bị tâm làm cho mình khổ đau nữa. Chính tâm An Trú, An Tịnh nên thân tâm lúc nào cũng Thanh Thản, An Lạc và Vô Sự. Đây là pháp môn tu tập Định Niệm Hơi Thở kết hợp với Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

Quán thân (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là luôn luôn tỉnh giác trên thân, biết rõ thân có xảy ra những cảm thọ gì, ở đâu, chỗ nào trên thân, nhờ tỉnh giác như vậy các bạn sử dụng đúng pháp để nhiếp phục những cảm thọ ấy không còn tác động vào thân các bạn được nữa. Quán Thân thì đừng nghĩ lầm là chỉ có quán thân mà thôi. Vì nghĩ lầm nên có một số trường thiền dạy tu Tứ Niệm Xứ lại cắt pháp môn Tứ Niệm Xứ ra bốn phần: Có trường thiền chuyên tu tập QUÁN THÂN; có trường thiền lại chuyên tu tập QUÁN THỌ; có trường thiền chuyên tu tập QUÁN TÂM. Nhưng chưa có trường thiền chuyên tu tập QUÁN PHÁP. Đó là một sự sai lầm quá lớn. Trong kinh sách Nguyên Thủy chưa từng thấy Phật dạy tu tập Tứ Niệm Xứ phân chia thân, thọ, tâm, pháp như vậy. Vì thế, nên hiểu: Nói quán thân chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán thọ chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán tâm chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán pháp chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp. Có tu tập như vậy mới gọi là tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ. Còn tu tập từng phần là tu tập sai pháp!

Quán thân bất tịnh (PhậtDạy.4) là một pháp môn triển khai tri kiến như thật về cơ thể con người, nơi đó là uế trược, bất tịnh, hôi thối mà con người thường lầm tưởng cơ thể con người là thanh tịnh, là trong sạch. Vì thế, mọi người đều lao vào tâm sắc dục, tưởng nơi đó trong sạch lắm, nhưng không ngờ nơi đó là nơi bất tịnh và khổ đau nhất, là con đường tái sanh luân hồi. Mục đích quán thân bất tịnh là đối trị tâm sắc dục của con người. Đó là quán thân người nam cũng như người nữ đều bất tịnh, hôi thối, bẩn thỉu, uế trược, gờm nhớp, v.v...

Quán thân trên thân (ĐườngVề.2) tức là xem xét thân của mình coi có lậu hoặc (chướng ngại pháp) hay không. Trên thân quan sát thân có nghĩa là xem thân coi có chướng ngại pháp hay không, để đẩy lui các chướng ngại pháp ra khỏi thân không cho các chướng ngại pháp tác động làm khổ cho thân. Nếu có thì phải khắc phục hay chế ngự không cho lậu hoặc tác động vào thân. Hằng ngày chúng ta ngồi, hoặc đi, hoặc nằm, hoặc đứng, đều xem xét thân của mình coi có chướng ngại pháp thì đẩy lui cho khỏi, đừng để chướng ngại pháp trong thân thì đó là thân vô lậu mà thân đã vô lậu là giải thoát.

Quán thân vô thường (MuốnChứngĐạo)(CưSĩTu) là thấy thân thay đổi từng phút, từng giây như thật, thân không còn chỗ nào là thường còn, bất di bất dịch. Cho nên biết thân vô thường là biết thân này không phải là Ta, không phải của Ta, không phải bản ngã của Ta. Do biết rõ như vậy nên Thân Kiết Sử bị đoạn dứt. Đề mục thứ tám này phá vỡ Thân Kiết Sử. Cho nên hằng ngày theo đề mục Định Niệm Hơi Thở này tác ý: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Nhờ tác ý nhắc nhở tâm thành một ý thức lực “Quán thân vô thường” thấm nhuần theo từng hơi thở vô hơi thở ra. Muốn thấm nhuần được như vậy thì đề mục “Quán thân vô thường” này phải siêng tu tập hằng ngày chia làm nhiều thời tu tập, mỗi thời tu tập 30 phút; mỗi 5 hơi thở hoặc 10 hơi thở tác ý câu này một lần. Câu này muốn tu tập có kết quả thì phải đạt được thân an tịnh của đề mục 5 và tâm an tịnh của đề mục 7 Định Niệm Hơi Thở. Khi thân tâm đã an trú trong hơi thở thì nên tác ý câu: “Quán thân vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thân vô thường tôi biết tôi thở ra.” Tác ý câu này thường xuyên thì thân kiến kiết sử sẽ bị diệt trừ.

Quán thân, thọ, tâm, pháp (PhậtDạy.4)(ĐườngVề.10)(CầnBiết.5) có nghĩa là nên xem xét rất kỹ lưỡng về toàn thân, về các cảm thọ, về toàn tâm và về các pháp. Nghĩa là theo dõi thân, thọ, tâm, pháp đang hoạt động theo nghiệp lực nhân quả. Nếu sự hoạt động ấy tác động làm khổ các bạn và người khác thì ngăn và diệt, còn sự hoạt động ấy đem lại sự bình an cho các bạn và người khác thì hãy để nó hoạt động, chứ không ngăn diệt. Đó gọi là tu tập Tứ Niệm Xứ. Tu tập Tứ Niệm Xứ là tu tập làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Vậy hãy học và tu tập về các phần trên thân, thọ, tâm và pháp. Quán thân, thọ tâm và pháp là cách tư duy, suy nghĩ về thân, thọ, tâm và pháp. Ví dụ: - Quán về thân tức là tư duy suy nghĩ về sự vô thường, sự bất tịnh, sự đau khổ của thân. Thân không phải là ngã, là ta, là của ta, là bản ngã của ta, thân là do nhân quả tạo thành, thân là do tứ đại hòa hợp, thân là ổ bệnh tật, là tai họa, khổ ách, v.v… - Quán về thọ, thọ cũng vô thường, cũng khổ đau, thọ không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta, thọ là do nhân quả mà có, thọ là thọ chứ không có người chịu thọ khổ đau như phần đông người ta tưởng “Có người chịu thọ khổ đau”. - Quán về tâm, tâm vô thường, vô ngã, tâm là khổ đau, tâm không phải là ta, của ta, không phải là bản ngã của ta, tâm là do duyên ngũ uẩn tạo thành, tâm là chủ chốt của hành động nhân quả thiện và ác, tâm ham muốn là khổ, tâm không ham muốn là giải thoát, tâm ác là khổ, tâm thiện là giải thoát. - Quán về pháp, các pháp là vô thường, là khổ, là vô ngã, các pháp không phải là ta, của ta, bản ngã của ta, v.v… Thứ nhất: Quán thân có nghĩa là luôn luôn tỉnh giác trên thân, biết rõ thân có xảy ra những cảm thọ gì, ở đâu, chỗ nào trên thân, nhờ tỉnh giác như vậy nên sử dụng đúng pháp để nhiếp phục những cảm thọ ấy không còn tác động vào thân được nữa. Thứ hai: quán các cảm thọ có nghĩa là tỉnh giác trên thân biết rõ thân đau bệnh gì, nhức mỏi chỗ nào, nhờ đó nên mới đối trị và nhiếp phục đẩy lui chúng ra khỏi thân bằng phương pháp như lý tác ý và an trú tâm trong thân hành nội hay thân hành ngoại. Ðây là phương pháp làm chủ bệnh trong pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có Phật giáo mới có mà thôi. Thứ ba: quán tâm có nghĩa là xem rất kỹ về tâm, tâm đang động hay tâm đang tịnh, tâm đang tịnh là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Còn khi nào tâm mất thanh thản, an lạc và vô sự là tâm rơi vào hai trạng thái một là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không; hai là tâm đang phóng dật, phóng niệm. Khi tâm rơi vào hôn trầm, thùy miên vô ký, ngoan không thì hãy nhớ giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, đừng để vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào và tu tập pháp môn Thân Hành Niệm. Trong Ðịnh Niệm Hơi Thở có hai đề mục phá hôn trầm thùy miên vô ký, đó là “Quán tâm định tỉnh tôi biết tôi hít vô, quán tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra”.Ðề mục thứ hai: “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài, thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”. Khi vận dụng hơi thở dài tức là hơi thở chậm thì hôn trầm không bén mảng đến thân tâm được. Thứ tư: quán các pháp là xem xét rất kỹ về các pháp đang tác động vào thân tâm, những pháp ấy làm cho thân tâm bất an, thì dùng pháp phòng hộ các căn. Khi phòng hộ các căn thì các pháp sẽ không xâm chiếm vào thân được. Trong định Niệm Hơi Thở có hai đề mục phòng hộ thân tâm rất tuyệt, đó là: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” và “An tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Hai đề mục trên đây muốn có kết quả tốt và hiệu nghiệm thì hãy siêng năng tu tập cho chứng đạt được sự an trú vào hơi thở. Pháp môn Tứ Niệm Xứ khi tu tập nên nhớ: Quán Thân thì đừng nghĩ lầm là chỉ có quán thân mà thôi kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; cho nên, nói quán thọ chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán tâm chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp; nói quán pháp chứ kỳ thực là quán bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp.

Quán thọ vô thường (CưSĩTu)(MuốnChứngĐạo) Thọ (Thân Bệnh) là một cảm nhận đau nhức trong thân mà người ta gọi là Thân Bệnh, cho nên nói đến Thọ là nói đến bệnh khổ. Đề mục Quán thọ vô thường này tu tập với mục đích làm cho chúng ta không còn sợ hãi các Cảm Thọ. Khi tâm thấm nhuần Thọ Vô Thường thật sự thì khi thân có bệnh thì tâm không dao động, không lo lắng, buồn phiền, sợ hãi, xem các Cảm Thọ như không có, như một niệm vọng tưởng tự khởi lên rồi tự lặng mất. Ðó là mục đích của đề mục này. Vậy, muốn tâm bất động trước các cảm thọ thì đề mục này phải cần siêng năng tu tập không được biếng trễ. Ðây là tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở câu hữu với pháp tác ý: “Quán thọ vô thường”. Mục đích của đề mục này giúp cho những ai tu tập Quán Thọ Vô Thường để tâm họ luôn luôn bất động trước các Cảm Thọ. Cảm thọ mà biết nó thật sự vô thường thì không còn lo sợ khi thân có bệnh. Vả lại thường tác ý: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra”, và an trú trong hơi thở ra vô nên bệnh tật tức khắc đã biến mất. Muốn đạt được kết quả đó thì đề mục này cần phải siêng năng tu tập hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm không được biếng trễ và cũng không được bỏ qua một giây phút nào cả. Quán thọ vô thườnglà để thấm nhuần thọ là vô thường thật sự, khiến cho khi thân có bệnh tật khổ đau tâm không dao động, không sợ hãi. Khi thân có bệnh, muốn bệnh tật chấm dứt thì thường tác ý câu: “Quán thọ vô thường tôi biết tôi hít vô; quán thọ vô thường tôi biết tôi thở ra.” Khi tác ý như vậy thì tâm phải An Trú, An Tịnh trong hơi thở ra, vô; người chưa An Trú, An Tịnh thì bệnh tật sẽ xâm chiếm thân tâm.

Quán thức ăn bất tịnh (PhậtDạy.4) sẽ đối trị được tâm ưa thích ăn uống, ưa thích chạy theo dục lạc về ăn uống. Không nhàm chán thực phẩm thì không làm sao ly tham dục về ăn uống được.

Quán tự thân xả ly (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) tức là tu tập Tứ Niệm Xứ. Tu tập Niệm Xứ có ba giai đoạn: 1- Tu tập Tứ Chánh Cần trên Tứ Niệm Xứ. 2- Tu tập Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm Xứ. 3- Tu tập Thân Hành Niệm trên Tứ Niệm Xứ. Khi nào tu tập Tứ Niệm Xứ mà xả ly các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm, pháp, thì lúc bấy giờ tâm mới đạt được trạng thái định tỉnh thì đây mới chính là tâm ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Pháp môn Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu tập để tâm ly dục ly ác pháp và đạt được trạng thái “Định tỉnh”. Trạng thái định tỉnh là một bí pháp để khởi đầu nhập các định và thực hiện Tam Minh.

Quả A La Hán  (Phậtdạy.3)(TâmThư.1)(CữSĩTu) là tâm vô lậu; người nào tu tập tâm vô lậu là người chứng quả A La Hán. Quả A La Hán không có cao thấp; phân chia quả vị A La Hán cao thấp là tư tưởng phàm phu, tư tưởng người thế gian.

Quả A La Hán tức là QUẢ BẤT LAI tương ưng với quả Thiền Thứ Tư tịnh chỉ hơi thở, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Quả A La Hán là ở chỗ biết xả chướng ngại pháp cho tâm vô lậu hoàn toàn. Quả A La Hán chỉ có những người ngộ các pháp vô thường và biết buông xả sạch, thường sống trong một tâm bất động thì quả A La Hán phải dành riêng cho người đó, về người đó.

Quả bất lai hay Quả A Na Hàm (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) Quả A Na Hàm tương ưng quả của Tam Thiền là ly hỷ trú xả.

Quả Dự lưu (TruyềnThống.2) chỉ cần diệt ba kiết sử là chứng quả Tu Ðà Hoàn, là được nhập vào dòng Thánh thường gọi là quả Tu Ðà Hoàn. Quả Dự Lưu tức là quả Tu Ðà Hoàn tương ưng với trạng thái Sơ Thiền ly dục ly ác pháp.

Quả lớn (TruyềnThống.1)(MuốnChứngĐạo)(CữSĩTu) là kết quả to lớn của sự tu tập về hơi thở vô, hơi thở ra. Quả lớn còn nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát một cách cụ thể rõ ràng, hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết, tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ ("Và này La Hầu La, thế nào là tu tập niệm Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra làm cho sung mãn nên được quả lớn, được lợi ích lớn?” Kinh Giáo Giới La Hầu La).

Quả Nhất Lai (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4)(TruyềnThống.2) là làm muội lược tham, sân, si thì chứng. Quả Nhất Lai tức là Quả Tư Ðà Hàm. Quả Tư Ðà Hàm tương ưng với trạng thái Nhị Thiền, diệt tầm tứ, chỉ có nhập được Nhị Thiền mới chứng Quả Tư Ðà Hàm.

Quả tu chứng (ĐườngVề.4) là tâm vô lậu tên gọi quả của tâm vô lậu là A La Hán. Nếu tự tìm pháp tu mà tâm vô lậu thì gọi là chứng quả A La Hán Ðộc Giác; nếu nghe Phật dạy hay đọc kinh sách lời dạy của đức Phật mà tu chứng thì gọi là chứng quả A La Hán Thinh Văn. Nếu quả vô lậu chưa tròn đủ có nghĩa tâm vô lậu từng phần, vô lậu từ ít đến nhiều, vô lậu từ thô đến tế, vô lậu từ từ. Vô lậu như vậy không được gọi là vô lậu trọn vẹn. Và như vậy không được gọi là vô lậu bậc A La Hán, chưa được gọi là vô lậu trong đạo Phật thì cũng chưa được gọi là chứng quả A La Hán.

Quả tu đà hoàn (dự vào dòng Thánh) (Phậtdạy.3)(GiớiĐức.1)(TâmThư.2) Quả tu đà hoàn tức là Nhập Lưu Thánh quả, là giới luật thanh tịnh, giới luật nghiêm chỉnh, là một bậc Thánh giới của Phật giáo, tức là đã ly dục ly ác pháp tương ưng với Sơ Thiền. Quả tu đà hoàn là được nhập vào dòng Thánh, có nghĩa là hành động hằng ngày sống đúng những hành động đạo đức của các bậc Thánh. Do những hành động sống đúng đạo đức đó, đó là kết quả được nhận vào dòng Thánh, chứ không phải nhập vào thiền này thiền nọ mà chứng quả Tu Ðà Hoàn. Thế mà, các vị tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni thời nay, có ai được nhận nhập vào dòng Thánh đâu? Vì giới luật đã vi phạm. Chỉ vì họ không có những hành động đạo đức của Thánh Nhân. Muốn nhận xét một người tu chứng quả Tu Ðà Hoàn chỉ cần nhìn thấy đời sống của họ qua hành động đạo đức trong giới luật Phật đã dạy, nếu hành động của họ phạm giới phá giới, tức là còn hành động của loài thú vật thì không thể nào là những hành động đạo đức của con người và Thánh Nhân được. Loài thú vật thì phải có những hành động của loài thú vật, không thể hành động thú vật là hành động con người được, con người không học đạo đức Thánh Nhân thì không thể nào sống có những hành động đạo đức của Thánh Nhân được, ngược lại những bậc Thánh Nhân thường sống trong những hành động đạo đức của con người và có những hành động đạo đức hơn con người nữa, như vậy mới được gọi là Thánh Nhân.

Quả Tư Ðà Hàm (Phậtdạy.3) là Quả Nhất Lai Thánh Quả, tương ưng với quả Nhị Nhiền.

Quả vị A La Hán (ĐạoĐức.2)(CữSĩTu) (trong kinh sách Ðại Thừa) 1/ A La Hán Toàn Giác, 2/ A La Hán Ðộc Giác, 3/ A La Hán Thanh Văn, v.v... Ðó là nói dối, vì quả vị A La Hán là vô lậu; người nào tu tập tâm vô lậu là người chứng quả A La Hán. Quả A La Hán không có cao thấp; phân chia quả vị A La Hán cao thấp là tư tưởng phàm phu, tư tưởng người thế gian. Người chưa chứng quả A La Hán mà phân chia quả A La Hán là nói dối. Cho nên khen hay chê, phân chia không đúng sự thật đều có nói dối.

Quả vị A La Hán của đạo Phật là một quả vị tu hành gian khổ trải qua nhiều thử thách, vì thế nó có khả năng làm chủ mọi sự đau khổ của kiếp người. Cho nên, quả vị A La Hán là một quả vị rất khó làm, đòi hỏi người làm được việc này thì phải chấm dứt tâm sắc dục. Nếu không chấm dứt tâm sắc dục thì tinh lực bị hao mòn, tinh lực bị hao mòn thì không đủ sức tu tập chứng quả A La Hán. Quả vị A La Hánbuông xuống hết không có vật gì là ta, là của ta, là bản ngã của ta, chỉ còn một tâm thanh thản, an lạc và vô sự; hành trì tùy pháp, đúng pháp.

Quét tâm (Đường Về.7) tức là tu tập Tứ Niệm Xứ có nghĩa trên thân, thọ, tâm và các pháp thường quán xét đẩy lui các chướng ngại pháp.

Quy Y (3Qui5Giới) là quay lại và sống theo, tức là rẽ đôi đời mình ra, vừa kết thúc sự sống mê mờ khổ đau luân hồi, từ bỏ chiều sống mê mờ thiếu đạo đức, sống làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh; vừa mở đầu cho cuộc sống giác ngộ có tri kiến chân chánh, sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người, sống thanh thản an lạc giải thoát. Quy Y có nghĩa là quay về nương tựa.

Quy Y Pháp (3Qui5Giới)(TâmThư.2) là y cứ vào những lời đạo đức vàng ngọc, những phương pháp hành trì giới đức mà phật đã chỉ dạy, nương tựa vào Pháp để có công năng ngăn và diệt trừ ác pháp phiền não khổ đau, đem lại đời sống an lạc, làm chủ sanh tử luân hồi. Trông thấy người đau khổ, ta nghe lòng mình nao nao thương xót, muốn cứu giúp họ, là tâm từ bi của ta – Ðó chính là PHÁP. Quy y Pháp là dạy cho quý phật tử thông suốt nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người, tức là giới luật đức hạnh và các phương pháp tu tập để làm chủ thâm tâm tức là làm chủ sự sống chết và chấm dứt tái sinh luân hồi.

Quy Y Phật (3Qui5Giới)(TâmThư.2) Quy y Phật là dạy cho phật tử thông suốt những gương hạnh sống đạo đức giới luật của đức Phật, (nếu còn Phật tại thế) quì dưới chân Phật phát nguyện trọn đời y cứ nơi Ngài, mong Ngài hướng dẫn dắt dìu đến chỗ giác ngộ. Trường hợp Phật đã nhập Niết Bàn, Quy y Phật là đến chùa quì dưới Phật Ðài, trước Chúng Thánh Tăng, chí thành tưởng niệm như Phật còn hiện tiền, phát nguyện trọn đời theo gương hạnh sáng suốt của Ngài để tu tập sớm đẩy lùi tứ khổ, chứng ngộ vô sanh.

Quy Y Tam Bảo (ĐườngVề.9)(CữSĩTu)(3Qui5Giới) là trở về nương tựa vào ba ngôi Tam Bảo. Nương tựa vào ba ngôi Tam Bảo là nương tựa và học hỏi những thiện pháp mà chúng ta chưa hiểu biết. Những thiện pháp của Tam Bảo là đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh: - Thứ nhất là học hỏi về Phật Bảo. Học hỏi về Phật Bảo là học đạo đức làm Phật. Ðạo đức không tham, sân, si. - Thứ hai là học hỏi về Pháp Bảo. Học hỏi về Pháp Bảo là học đạo đức ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp. - Thứ ba là học hỏi về giới luật của một vị Tăng (Tăng Bảo). Học hỏi về giới luật của một vị Tăng là đạo đức làm Thánh vô lậu. Những người Thọ Tam Quy thì phải sống như Phật, như Pháp, như Tăng, như Giới (pháp). Do tu học được như vậy chỉ một thời gian sáu tháng thì quý phật tử sẽ sống ít tai nạn, ít bệnh tật, gia đình thường được an vui và hạnh phúc. Ðây là bước đầu tiên tu học theo Phật giáo để chuyển hoá nghiệp khổ đau của kiếp làm người, để biến cảnh sống ở thế gian thành cảnh sống nơi Cực Lạc hay Thiên Ðàng. tức là các bạn làm chủ được sanh (đời sống), già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.Quy y Tam Bảo(Lý)là nương tựa ở Phật, Pháp, Tăng nơi tự tâm của mỗi chúng ta. Chúng ta bỏ điều xấu ác, nương việc thiện lành, lìa mê mờ phiền khổ, về chỗ tươi sáng, hạnh phúc thanh lương. Mỗi khi ta làm quấy, nói sai, lòng ta thấy hổ thẹn, lương tâm ta tự căn rứt hối hận không vui; cái biết tự khiển trách điều quấy, hoan hỷ những điều Giới đức, nhiệt tình vui vẻ trong những việc thiện lành, ý thức luôn sáng suốt, đó là Giác ngộ là PHẬT. Trở về với Ðức tánh giác ngộ sáng suốt, với tâm từ bi cứu khổ yêu thương, với lòng thanh tịnh thuận hoà là ta đã tương ưng với ba ngôi Tam Bảo. Phật là Giác ngộ sáng suốt, Pháp là Từ bi chân thật, Tăng là Thanh tịnh thuận hoà. Đó là “Lý Quy Y Tam Bảo”. Trở về với đức tánh giác ngộ sáng suốt ta sẽ sa thải bọn Quỉ si mê. Trở về với tâm từ bi yêu thương tha thứ, ta cố thanh trừng bọn ác Ma tham lam ích kỷ. Trở về với lòng thanh tịnh thuận hoà, ta quyết diệt trừ bọn A Tu La sân hận gây gỗ đấu tranh. Quy Y Tam Bảo (Sự) là chứng tỏ muốn sống theo lẽ thật và để giác ngộ lẽ thật điều chơn. Hay để làm Người có đạo đức, rồi tiến đến làm Thánh, làm Phật; Quy-Y Tam Bảo (Sự)là căn bản cho sự đào tạo nhân cách tương đối, mà cũng chính là quyết định mục đích và làm cơ bản cho sự hướng thượng tới nhân cách viên mãn. Quy Y Tam Bảo (Sự) Nương tựa vào ba ngôi Tam Bảo đang thường trụ để gieo thiện duyên phước điền tu học.

Quy y Tăng (TâmThư.2)(3Qui5Giới) là dạy cho quý phật tử thông suốt những gương hạnh sống giới luật đạo đức của chúng Thánh Tăng trong thời đức Phật. Muốn Quy y Tăng thì phải lựa chọn những bậc Thánh Tăng Ðệ Tử Phật đã tu chứng, có giới hạnh đầy đủ, có khả năng hướng dẫn chúng ta tu tập đến kết quả trên đường giải thoát. Chúng ta phải tìm những Bậc Thánh Tăng tu chứng chân chính để đại diện Ðức Phật truyền trao Quy Giới cho chúng ta tu tập. Thấy sự thuận hoà êm ấm của mọi gia đình, nhìn cảnh thanh bình an lạc của muôn loài, lòng ta mến chuộng; nghe những việc nồi da xáo thịt, thấy người hiền lương bị lừa đảo, hành hung hiếp đáp, ta tìm cách can ngăn – Lòng nghĩa cử thuận hoà ấy, chính đó là TĂNG vậy.

Quỷ la sát (CầnBiết.2) Trong kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật có nói đến quỷ la sát là nói đến các pháp ác, chớ không phải có con quỷ la sát thật sự. Nhưng người đời không hiểu, cho đó là có quỷ thật sự, có cõi địa ngục Diêm La thật sự.

Quỷ nhập tràng (ĐườngVề.4)(CầnBiết.1) tức là những linh hồn người chết oan ức (chết bất đắc dĩ), chết tức tối, chết không kịp trối trăn gì cả, những linh hồn người này không đi đầu thai được, sống vất vưởng theo đình, theo miếu, theo cây cao, bóng mát, thấy người nào hạp với nó, thì bắt bệnh đau; thấy người nào chết, mà hơ hỏng không chịu cột tay chân, thì nhập vào, khiến cho thây ma bật dậy chạy điên khùng, đụng vào người nào thì người đó cũng chết theo, khi đụng như vậy, dù vào người hay cây cối thì thây ma cũng bật té chết trở lại, do đó người ta sợ trường hợp này xảy ra, nên mới cột tay chân vào bả vai để tránh trước tai họa cho gia đình và cho những người khác. Trong miền Nam, khi nhà có người chết, người ta lại nhốt mèo, vì trong những con mèo sẽ có con mèo gọi là “linh miêu”. Nếu con mèo này nhảy ngang qua thây người chết, thì thây ma đứng dậy chạy và đụng ai thì người ấy chết. Bây giờ không còn tục lệ đó nữa. Trong kinh sách Nguyên Thủy của Phật giáo không có dạy những điều này, thường dạy làm những điều thiện tránh xa những điều ác và đập phá những điều mê tín, dị đoan, nhất là xóa bỏ thế giới tưởng siêu hình, cho nên những gì mê tín, dị đoan do các phong tục truyền thống của dân gian có tánh cách mơ hồ, trừu tượng không thực tế thì đức Phật nhẹ nhàng uốn nắn.

Quỷ vô thường (CầnBiết.2) Trong kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật có nói đến quỷ vô thường là nói đến sự vô thường của thân tứ đại, chớ không phải có con quỷ vô thường thật sự. Nhưng người đời không hiểu, cho đó là có quỷ thật sự, có cõi địa ngục Diêm La thật sự.

Vần R

Rõ như thật (ĐườngVề.9) Rõ như thật có hai nghĩa: 1- Biết rõ như thật pháp của Phật dạy, không bị lầm lạc pháp của ngoại đạo. 2- Hiểu rõ nghĩa lý thiện pháp và ác pháp đúng như lời đức Phật đã dạy.

Vần S

Sa môn (PhậtDạy.4)(12Duyên) (theo nghĩa hẹp) Sa môn chỉ một vị tu sĩ đã thọ đầy đủ giới luật của Phật giáo. Sa môn là một người xa lìa ân ái, xuất gia tu hành, chế ngự các căn, không nhiễm ái dục, có lòng thương xót tất cả mọi người, không làm thương tổn và giết hại chúng sinh, gặp khổ không phiền, gặp vui không mừng, nhẫn nại tâm như đất. Một tu sĩ Phật giáo (sa môn) phải sống đúng 9 điều Phạm hạnh: 1- Xa lìa ân ái. 2- Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa. 3- Chế ngự các căn. 4- Không nhiễm ái dục. 5- Có lòng thương xót tất cả mọi người. 6- Không làm thương tổn và giết hại chúng sinh. 7- Gặp khổ không phiền. 8- Gặp vui không mừng. 9- Nhẫn nại, tâm như đất.

Sa Môn (theo nghĩa rộng) chỉ chung cho những người đệ tử của Phật, những người tu theo Phật giáo, khác với Bà La Môn là những người tu theo ngoại đạo. Sa môn chỉ cho những người đệ tử của Phật, chứ không dành riêng cho tu sĩ. Nên hiểu chữ sa môn là chỉ chung 4 giới đệ tử của Phật, gồm có: 1- Cư sĩ nam sa môn thứ nhất. 2- Cư sĩ nữ sa môn thứ hai. 3- Tu sĩ nam Tăng sa môn thứ ba. 4- Tu sĩ nữ Ni sa môn thứ tư. Do đó giáo pháp và giới luật nào có Bát Chánh Ðạo thì mới có đệ tử của Phật, còn giáo pháp và giới luật nào không có Bát Chánh Ðạo là không có đệ tử của Phật. Người ta hiểu hai chữ sa môn là dành riêng cho giới tu sĩ (Tăng, Ni), là hiểu hai chữ sa môn sai. Trong đoạn kinh Ðại Bát Niết Bàn đã xác định chương trình tu học nào có Bát Chánh Ðạo mới có sa môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba và thứ tư. Như vậy sa môn là chỉ chung cho 4 giới đệ tử của Phật.

Sa Môn và Ðạo Sư (PhậtDạy.1) Sa môn có nghĩa là một nhà tu hành, một vị tu sĩ; Ðạo sư là một vị thầy dạy phương pháp tu hành.

Sanh (PhậtDạy.1)(ĐườngVề.1)(Đường Về.7)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3) (duyên "sanh" trong 12 duyên) phải nói đủ là “SANH Y”, là của cải, tài sản, vật chất, sự nghiệp, cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc, bạn bè, v.v... Do thế, khi tài sản của cải bị mất thì sẽ buồn rầu bịnh khổ và chết, cha mẹ vợ con chết cũng sanh ra buồn rầu, đau khổ phiền lòng. Sanh là sinh ra, làm ra cho nhiều, sản xuất thêm. Sanh là sanh sống, cuộc sống, đời sống, nương tựa vào để sống, chớ không có nghĩa như sanh đẻ, đản sanh. Con đường đoạn dứt sanh y là xả tình cảm của gia đình, xả của cải, tài sản. Đoạn dứt duyên sanh là giai đoạn thứ nhất của một vị Tỳ kheo phải tu tập cho bằng được. Chỉ chọn lấy một nghề duy nhất, là nghề ăn xin, nghề hèn hạ nhất trong xã hội. Tu tập và nuôi sống thân mạng bằng nghề này mới giải quyết được bản ngã ác vĩ đại. Ngày một bữa, đói xin cơm ăn, không xin tiền, khát xin nước uống hoặc xuống suối uống, không có thuốc thang đành chịu, không than thân trách phận, không bỏ cuộc tu hành, y áo rách xin y áo mặc, không có vẫn vui lòng chấp nhận để xả hết mọi pháp thế gian, để thoát ly những vật chất trói buộc làm khổ đau con người. Ðến với đạo Phật là để trở thành người tu sĩ xuất gia thì đời sống vật chất thiếu thốn mọi mặt, còn gì hết. Nếu người nào không có quyết tâm, không thấu rõ đời sống con người là khổ, khổ thật sự thì khó mà chấp nhận đời sống Ðạo. Ðoạn dứt sanh y tức là sống đúng đời sống Phạm hạnh, tức là hành trì giới luật nghiêm túc, giới luật nghiêm túc tức là trí tuệ như trong kinh Trường Bộ, đức Phật dạy: “Chỗ nào có giới luật nhất định chỗ ấy có trí tuệ, chỗ nào có trí tuệ nhất định chỗ ấy có giới luật...”. Như vậy, đoạn dứt duyên sanh tức là trí tuệ, trí tuệ tức là “minh”. Ở đâu có minh thì ở đó không có vô minh. Nhưng minh ở đây là đời sống phạm hạnh giới luật, đức Phật đã xác định như vậy, chứ không phải do học tập thông suốt Tam Tạng Thánh Ðiển là minh. Minh ở đây, không phải là trí tuệ Tam Minh. Minh ở đây là tri kiến và giới luật. Tri kiến ở đâu thì giới luật ở đó, giới luật ở đâu thì tri kiến ở đó. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật. Sanh y ở trong lòng chứ không riêng gì sanh y là những vật chất bên ngoài.

Sanh diệt tận (PhậtDạy.1) Sanh là đời sống, sự sống; diệt là chết, sự chết; tận là tận cùng, cuối cùng, chấm dứt. Toàn nghĩa câu “Ðạt được sanh diệt tận” là phải đạt cho được sự tận cùng sống chết của kiếp làm người thì mới được đức Phật chấp nhận là Tăng là Ni đệ tử chân chánh của Phật, còn chưa tu tập được như vậy thì chưa xứng đáng là Tăng là Ni đệ tử của Phật.

Sanh khổ (ĐườngVề.2)(ĐạoĐức.2) Sanh nghĩa là cuộc sống của chúng ta, là những vật chất như: thực phẩm, y phục, nhà ở, đồ đạc, tiền bạc, đất đai, ruộng vườn, v.v... do sức lao động bằng chân tay hoặc bằng trí óc làm ra thì phải chịu nhiều vất vả, cực khổ, nhọc nhằn, gian nan, v.v... và trong đời sống còn phải xã giao và giao tiếp với mọi người, mọi vật, nên có lắm điều sinh ra nghịch ý, trái lòng, bất toại nguyện, v.v... Tất cả đó gọi là sanh. Do mọi người đều chấp nhận “Sanh khổ” nên nó là sự thật, là chân lý. Sanh khổ ở đây có hai nghĩa đời sống và sự sanh đẻ.

Sanh y (Phậtdạy.3)(TruyềnThống.1)(CầnBiết.4)(CữSĩTu) là mọi sự vật chung quanh ta làm thành cuộc sống của ta như: Cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, chị em, cô bác, dì dượng, bạn bè, thân bằng, quyến thuộc, nhà cửa, của cải, tài sản, đất đai, ruộng vườn, xe cộ, ti vi, máy tính, bàn, ghế v.v... là các pháp vây quanh chúng ta tạo thành một cuộc sống khổ đau. Sanh y có nghĩa là những vật chất dùng để phục vụ đời sống của con người. Do đó vật chất càng nhiều thì biến con người mất đức hạnh buông xả nên trở thành những người tham lam, trộm cướp, gian xảo, lừa đảo, hung ác, v.v… Sanh y là căn bản của gốc khổ. Của cải càng nhiều, cuộc sống càng khổ đau nhiều, thường mang đến lậu hoặc (khổ đau) nhiều. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu sanh y là căn bản của gốc khổ. Nếu không buông bỏ cái gốc khổ này dù có tu theo Đạo Phật trăm muôn ngàn kiếp thì cũng chẳng bao giờ tâm vô lậu chứng quả A La Hán được.

Sanh y là căn bản của sự đau khổ (ĐườngVề.6) nghĩa là những pháp chung quanh ta tạo thành một đời sống, chính vì đời sống chung đụng với mọi người, mọi vật và mọi loài chúng sanh mà chúng ta phải chịu nhiều khổ đau, phiền toái, v.v... khi mà chúng ta không biết sử dụng trí tuệ nhân bản - nhân quả, cũng như không hiểu biết sống đạo đức làm người. Sanh y là căn bản của sự đau khổ. Một vị Tỳ Kheo nếu muốn tìm tu sự giải thoát mà không đoạn dứt sanh y thì không bao giờ có giải thoát được, phải xả bỏ tất cả, sống đúng đời sống phạm hạnh “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa, chỉ còn ba y một bát, một đời sống thiểu dục tri túc, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không”. Chỉ có đời sống xuất gia mới tìm thấy sự giải thoát chân thật của kiếp này.

Sát Ðế Lị (TruyềnThống.2) tức là dòng vua chúa thuộc về vương pháp.

Sát sanh (10Lành) thì sát sanh hại vật, là cái nhân của bệnh tật, khổ đau, hoạn nạn. Nợ máu xương phải đền bù bằng máu xương, dù trốn đi đâu cũng không khỏi.

Sáu ba la mật (ĐườngVề.10) là giới, định, tuệ, tinh tấn, nhẫn nhục, bố thí. Sáu ba la mật bản chất chính của nó là không (người cho mà không biết mình cho và người nhận không biết mình nhận thì đó mới là bố thí Ba La Mật). Ngồi kiết già lưng thẳng giữ tâm không niệm thiện niệm ác thì đó là tu sáu ba la mật.

Sáu căn quay vào trong (ĐườngVề.6) có hai giai đoạn: 1- Sáu căn quay vào trong thân, lúc tâm không phóng dật, tức là tâm ly dục ly ác pháp, nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh hay nhập Sơ Thiền, tức là tâm định trên thân. Nếu sáu căn quay vào trong thân ở giai đoạn một này thì mắt nhìn vào thân, mắt sẽ thấy: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm. Tai, mũi, miệng, thân và ý quay vào thân, thì nghe, ngửi, nếm, cảm nhận, biết: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm. 2- Sáu căn quay vào trong thân, lúc sáu căn ngưng hoạt động, hơi thở tịnh chỉ, nhập Tứ Thiền, tức là Thân định trên tâm, tâm định trên thân. Nếu ở giai đoạn thứ hai này, sáu căn quay vào thân thì sáu căn thấy, nghe, ngửi, nếm, cảm nhận và biết lặng lẽ không tịch.

Sáu căn, sáu thức, sáu trần (TâmThư.1) Sáu căn gồm có: 1- Nhãn căn là con mắt. 2- Nhĩ căn là lổ tai. 3- Tỷ căn là lổ mũi. 4- Thiệt căn là lưỡi. 5- Thân căn là cơ thể. 6- Ý căn là bộ óc (ý thức). Sáu thức gồm có: 1- Nhãn thức là cái biết của con mắt. 2- Nhĩ thức là cái biết của lổ tai. 3- Tỷ thức là cái biết của lỗ mũi. 4- Thiệt thức là cái biết của lưỡi. 5- Thân thức là cái cảm giác của cơ thể. (Xúc: cảm giác êm, ấm, cứng mềm). 6- Ý thức là sự phân biệt của bộ óc. (Pháp: những niệm trong tâm, vọng niệm). Sáu trần gồm có: Nhãn trần là hình sắc của vạn vật bên ngoài, 2- Nhĩ trần là âm thinh của vạn vật, 3- Tỷ trần là hương vị của vạn vật, 4- Thiệt trần là vị của vạn vật (Vị: cay, đắng, ngọt, bùi…), 5- Thân trần là tính mền cứng nóng lạnh của vạn vật, 6- Ý trần là từng tâm niệm quá khứ, vị lai và hiện tại. Sáu căn, sáu trần, sáu thức mới đầy đủ 18 giới của Phật giáo để tạo thành những nhân duyên Xúc, Hữu, Thủ, Sinh, Ưu bi sầu khổ già chết.

Sáu chặng đường vào Niết Bàn (TrợĐạo) 1./ thứ nhất: đoạn trừ các lậu hoặc và các hữu kiết sử (chứng quả A La Hán). 2./ thứ hai: diệt trừ được năm hạ phần kiết sử (1- Thân kiến kiết sử. 2- Nghi kiết sử. 3- Giới cấm thủ kiết sử. 4- Tham kiết sử. 5- Sân kiết sử) (chứng quả Bất lai thì khi chết nhập vào Niết Bàn). 3./ thứ ba: Diệt trừ ba hạ phần kiết sử (1- Thân kiến kiết sử. 2- Nghi kiết sử. 3- Giới cấm thủ kiết sử) và làm muội lược tâm tham, sân, si (chứng quả Nhất lai) thì cũng nhập vào Niết Bàn. 4./ thứ tư: Chỉ cần diệt trừ ba kiết sử (chứng quả Dự lưu) thì cũng nhập vào Niết Bàn. 5./ thứ năm: chỉ có giữ gìn tâm thanh thản, an lạc (tùy pháp hành, tùy tín hành) thì cũng vào Niết Bàn. 6./ thứ sáu: chỉ có lòng tin nơi đức Phật, khéo đối xử với mọi người không làm mình khổ người khác khổ và khổ tất cả chúng sinh thì cũng vào Niết Bàn.

Sáu cõi luân hồi (ĐườngVề.3) tức là sáu đẳng cấp sống của muôn loài vạn vật trên hành tinh này, trong đó có con người, vì con người được xem như một loài động vật.

Sáu dục (ĐườngVề.8) gồm có: 1- Nhãn thức dục, 2- Nhĩ thức dục, 3- Tỷ thức dục, 4- Thiệt thức dục, 5- Thân thức dục, 6- Ý thức dục. Sáu dục tiếp xúc sáu trần tăng trưởng tâm tham, sân, si, mạn, nghi. Do tăng trưởng tâm tham, sân, si, mạn, nghi mà sinh ra nghiệp lực. Nghiệp lực còn gọi là sức hút của nghiệp hay gọi là sức từ trường của nghiệp. Sức hút từ trường của nghiệp tương ưng với tâm tham, sân, si, mạn, nghi của người, của loài động vật khác mà sinh ra nên gọi tắt là nghiệp đi luân hồi.

Sáu loại tu sĩ (Tỳ kheo) (ĐườngVề.1) 1/ Tỳ kheo, thuộc về Bắc Tông Ðại Thừa Giáo, chuyên cúng bái, tán tụng, kệ ngâm (ứng phú đạo tràng). Tỳ kheo này ít học giáo lý, chùa là nơi sinh sống như một gia đình. Họ có vợ, có con, tự làm ăn mọi nghề nghiệp như một gia đình thế tục: làm ruộng, làm rẫy, làm vườn, chăn nuôi heo, gà, dê, bò, v.v... Có ai thỉnh đi cúng bái, tụng niệm cầu siêu, cầu an v.v.., đều cất giá tiền công hẳn hòi. Những Tỳ kheo này phần đông phá giới, phạm giới, sống không bao giờ đúng giới hạnh. Những tu sĩ này được xem là những cư sĩ trọc đầu, tu theo Phật giáo Ứng Phú Ðạo Tràng mê tín, chịu nhiều ảnh hưởng phong tục tập quán dân gian, 2/ Tỳ kheo, thuộc về Bắc Tông Ðại Thừa Giáo, chuyên cúng bái tụng niệm, cầu siêu, cầu an, tổ chức lễ lộc, tổ chức hành hương, tổ chức từ thiện, v.v... Các vị Tỳ kheo này không có vợ con, nhưng có trình độ giáo lý và có học thức, đi đám tụng niệm không lấy tiền công, chỉ nhận tiền cúng dường trai tăng tứ sự, v.v... tu theo Phật giáo thuộc Bà La Môn Giáo, tu phước hữu lậu. Chùa là nơi sinh hoạt của những Phật tử mê tín. 3/ Tỳ kheo, thuộc về Bắc Tông Ðại Thừa Giáo, chuyên học tập giáo lý, làm việc Giáo Hội, làm giảng sư dịch thuật soạn kinh viết sách. Các vị Tỳ kheo này tu theo Phật giáo danh lợi, có trình độ văn hóa cao, có kiến thức Phật giáo sâu rộng nhưng không có tu hành, họ thuộc về cấp lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo. 4/ Tỳ kheo, thuộc về Bắc Tông Ðại Thừa Giáo, vừa tu vừa thuyết giảng kinh điển Thiền, Mật và Tịnh cho tín đồ tu tập theo kiến giải của mình. Những Tỳ kheo này tu theo Bồ Tát Ðạo, hành Bồ Tát Hạnh, tu theo Phật giáo Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Ðộ Tông. Những pháp môn tu này giống như người nhai viên sắt, nuốt chẳng vô, nhả chẳng ra. 5/ Tỳ kheo, tu theo Phật giáo Nam Tông, đó là những Sư Nam Tông, tu theo kinh sách Nguyên Thủy, nhưng bị kiến giải của các nhà học giả giảng giải Phật pháp sai lạc. Trong số họ cũng có những vị có học thức cao trên đại học nhưng thường phá giới, sống phi Phạm hạnh nên hiểu sai lời dạy của đức Phật, họ trở thành những ác tri thức, mất tâm từ bi, xa lìa hạt giống chánh pháp, xa lìa đạo giải thoát, trở thành ác tri thức, chuyên ăn thịt chúng sanh, thường lý luận “Ăn không thấy, không nghe, không nghi”, 6/ Tỳ kheo tu theo Phật giáo yếm thế trốn đời, tiêu cực, cất thất, am, cốc riêng để tu một mình, đó là những tu sĩ tiêu cực, yếm thế, chỉ tìm sự an vui cho cá nhân. Họ tưởng tu như vậy là giải thoát, nhưng nào ngờ là trốn đời chạy theo tâm ham muốn sống cảnh yên tịnh. Cuộc đời tu hành chẳng tu tới đâu, chỉ có công mà chẳng lợi ích gì.

Sáu nẻo luân hồi (ĐườngVề.3)(Đường Về.7) là sự diễn biến nhân quả nghiệp báo do con người và chúng sanh vì vô minh tạo ra mà phải gánh chịu ở trần gian của chúng ta trên hành tinh này, không có ở nơi nào khác nữa. Tùy theo đặc tính, cách sống, cuộc sống của mọi con người và loài vật trên hành tinh này mà phân chia làm sáu nẻo luân hồi. Thứ nhất là cõi Trời, là chỉ cho những người đang sống đúng trong mười điều lành, tâm hồn của họ thường thanh thản, an lạc và vô sự, không làm khổ mình, khổ người, không làm điều ác, toàn làm điều thiện, muốn chi có nấy. Ðó là những bậc chân tu, thạc đức đang sống trầm lặng, sống với trí tuệ nhân quả, sống với tâm hồn tha thứ và thương yêu mọi loài chúng sanh. Thứ hai là cõi Người, Người là những người đang sống đúng năm điều lành không hề phạm phải, còn những người sống không đúng năm điều lành này là cõi khác chứ không phải cõi người. Thứ ba là cõi Atula, Atula là những người hay sân hận, giận dữ, chuyên môn đi đánh lộn, không biết nhường nhịn và nhẫn nhục ai cả, chỉ biết la hét đánh đập với nhau. Thứ tư là cõi Ngạ quỷ, Ngạ quỷ là những người nghèo đói, khổ sở không có cơm ăn, áo mặc. Thứ năm là cõi Súc sanh, Súc sanh gồm có con người và các loài thú vật. Vì những người này hình người mà bản chất sống như loài thúvật, họ chẳng hề sống có một chút đạo đức làm người nào cả. Cho nên, dưới đôi mắt của đức Phật những người này là súc sanh (động vật). Thứ sáu là cõi Ðịa ngục, Ðịa ngục là những người đang bệnh đau, đang khổ sở rên la trên giường bệnh, chúng ta hãy đến nơi các bệnh viện nơi đó là Ðịa ngục. Sáu cõi này, được xác định thực tế và cụ thể, rất khoa học, không có mơ hồ trừu tượng, mà ai cũng có thể hiểu một cách dễ dàng.

Còn theo cái hiểu của các nhà học giả của kinh sách phát triển thì có sáu cảnh giới rõ ràng, xây dựng sáu nẻo luân hồi ảo tưởng, ngoài cuộc sống của con người. Sáu nẻo luân hồi theo kiến giải của các nhà học giả của kinh sách phát triển thì có sáu cõi, để linh hồn người chết tiếp tục tái sanh, tùy theo việc làm thiện ác của người đó: Trời, Người, Atula, Ngạ quỷ, Địa ngục và Súc sanh, con người phải tiếp tục trôi lăn trong sáu cõi đó mãi mãi, tùy theo việc làm thiện ác của người đó. Cõi Trời là cõi chư Thiên. Nếu chư Thiên sanh lòng dục, tạo ác pháp, khi hết duyên chư Thiên sẽ sanh xuống làm người. Nếu ở cõi làm người mà làm thiện, ít ham muốn dục, thì sanh trở lại cõi Trời. Nếu ở cõi làm người, sanh tâm làm ác, thường giận dữ, thích đánh đá, thì khi lìa bỏ thân người, linh hồn sẽ tái sanh vào cõi Atula. Loài Atula ở đó hung dữ vô cùng, chuyên môn đi đánh lộn, hoặc đi đánh cướp nước người khác. Nếu sanh vào cõi Atula làm thiện, ít giận hờn, không đánh đá ai hết, đến khi chết thì sẽ sanh làm người trở lại. Nếu Atula này làm thiện, ít dục, không giận dữ, không đánh đập, không làm khổ mình, khổ người, thì đến khi chết sẽ sanh vào cõi trời. Nếu đã sanh ở cõi Atula mà giận dữ, ích kỷ, bỏn xẻn không dám bố thí thì khi bỏ thân Atula sẽ sanh vào cõi ngạ quỷ. Sanh vào cảnh giới ngạ quỷ thì thường đói khổ, muốn ăn mà không có ăn, muốn uống mà không có uống, quần áo rách rưới, lang thang, nghèo khổ. Nếu ngạ quỷ mà biết bố thí, san sẻ thì sẽ được sanh trở lại cõi Atula. Nếu ở cõi ngạ quỷ mà biết bố thí, san sẻ, không giận dữ, làm thiện, ít làm khổ mình, khổ người khác thì sanh làm con người. Nếu ở cõi ngạ quỷ, mà làm toàn thiện không làm khổ mình, khổ người thì được sanh ngay lên cõi Trời. Nếu ở cõi ngạ quỷ mà tâm ác không trừ, lòng ích kỷ, bỏn xẻn, không bố thí thì đọa xuống địa ngục, chịu đủ thứ cực hành khổ sở. Cõi địa ngục là nơi con người sanh vào đó chịu đủ thứ mọi cực hình. Nói chung cõi địa ngục là cõi tiếng kêu khóc không hề dứt. Sau khi sanh ở cõi địa ngục, con người ở đó mới tiếp tục sanh làm loài vật. Các loài vật đang sống quanh ta là cõi súc sanh.

Sáu nghề không nên làm (10Lành) là: 1.- không săn bắn, 2.- không hành nghề chài lưới, 3.- không buôn bán thịt sống, 4.- không buôn bán thịt chín, 5.- không làm nghề buôn bán rượu, các chất say, và 6.- không làm nghề buôn bán người (làm nô lệ, hoặc hành nghề mãi dâm).

Sáu pháp hòa hợp (lục hòa) (ĐườngVề.8) 1- Thân hòa đồng trụ. 2- Khẩu hòa vô tranh. 3- Ý hòa đồng duyệt. 4- Kiến hoà đồng giải. 5- Giới hòa đồng tu. 6- Lợi hòa đồng quân. Giới thứ nhất là thân hòa đồng trụ và giới thứ sáu là lợi hòa đồng quân chỉ cho sự sống bình đẳng, buông xả cá nhân để thể hiện đức hạnh bằng lòng giúp mọi người ly dục, ly ác pháp. Giới thứ hai là khẩu hòa vô tranh và giới thứ ba là ý hòa đồng duyệt chỉ cho sự thể hiện lòng từ, đức hạnh nhẫn nhục để tâm hồn được thanh thản, vô sự, tức là ly dục, ly ác pháp. Giới thứ tư là kiến hòa đồng giải và giới thứ năm là giới hòa đồng tu chỉ cho sự thể hiện lòng bi, đức hạnh tùy thuận để thân tâm được an lạc, tức là ly dục, ly ác pháp.

Sáu trần (ĐườngVề.8) gồm có: 1- Sắc trần, 2- Thinh trần, 3- Hương trần, 4- Vị trần, 5- Xúc trần, 6- Pháp trần.

Sáu Xứ (12Duyên) Sáu xứ là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là chỉ cho một con người. Trong một con người có ba cái biết: 1- Ý thức: là cái biết của mọi người đang sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. 2- Tưởng thức: là cái biết trong giấc mộng, là cái biết của các nhà ngoại cảm; là cái biếi của những người lên đồng nhập xác; là cái biết của những phù thủy. 3- Thức thức: là cái biết của những người đã tu chứng đạo (Tuệ Tam Minh)

Sáu Xứ là duyên của Xúc (12Duyên) Do Xúc Chạm của Sáu Xứ nội và ngoại nên mới có Thân Tâm của con người mà Đức Phật gọi là Danh Sắc. Danh Sắc không ngoài Sáu Xứ nội và ngoại mà có được. Vạn vật trong vũ trụ do Xúc Chạm theo mười hai nhân duyên này mà thành.

Say đắm thế gian (PhậtDạy.4) Thế gian là một là một trường tranh đấu triền miên bất tận vì danh (tức là đạt được quyền uy thế lực), vì lợi (tiền của tài sản vật chất, đạt được giàu sang tột cùng, nhà cao cửa rộng, của cải, tiền bạc, châu báu, vàng vòng nhiều), vì sắc đẹp phụ nữ (đạt được sắc đẹp), đạt được ăn ngon (cao lương mỹ vị), mặc đẹp (hàng đắt tiền), vì ích kỷ cá nhân, chà đạp lên sự sống của người khác, loài vật khác, dẫn chúng ta vào chỗ khổ đau và tiếp tục tái sanh luân hồi không bao giờ dứt.

Sắc (10Lành) là sắc đẹp phụ nữ.

Sắc  (ĐườngVề.9)(12Duyên) là thân, là sắc uẩn còn gọi là sắc thức. sắc thức gồm có sáu thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

Sắc ái hay Sắc ái Kiết Sử (Phậtdạy.3)(Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là Thượng Phần Kiết Sử. Những vật chất có hình ảnh làm cho chúng ta ưa thích như nhà lầu xe hơi, chùa to Phật lớn, tivi, tủ lạnh, vi tính, v.v… Muốn đoạn diệt Thượng Phần Kiết Sử này để tìm cầu sự giải thoát thì duy nhất chỉ tu pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Sắc ấm ma (Đường Về.7) gồm có: Tất cả các bệnh nơi thân, tất cả các dục nơi tâm.

Sắc dục (ĐạoĐức.2) Sắc là hình thể của thân người nam hay hình thể của thân người nữ. Dục là lòng ham muốn. Sắc dục là thấy thân hình của người khác phái sanh ra lòng ưa thích ham muốn kề cận bên nhau. Ðức Thích Ca Mâu Ni nói: “Ta không thấy một sắc nào khác xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà. Ta cũng không thấy một sắc nào khác xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà như sắc người đàn ông”. Sắc dục có một sức mạnh phi thường lôi cuốn và xâm chiếm tâm con người. Nó là một cái lực của nhân quả cám dỗ và thúc đẩy đưa con người vào quỹ đạo sinh tử luân hồi khổ đau. Một nhà tu hành mà tâm còn tham mê sắc dục thì sự tu hành chỉ phí công, chẳng bao giờ có đủ năng lực làm chủ sự sống chết luân hồi. Người thực hiện đức không tham sắc dục là làm cho định luật nhân quả đình chỉ.

Sắc giới (TruyềnThống.2) là cảnh giới có hình tướng như cuộc sống của các bạn hiện giờ. Người nào xem thường giới luật tu tập ức chế tâm cho hết niệm khởi tức là ức chế sắc giới, do đó cảnh giới vô sắc hoạt động, vì thế thường hay bị chiêm bao, mộng mị.

Sắc Giới hành (TruyềnThông.1) cái nhìn thấu suốt qua tất cả các sắc tướng của vạn vật đang hiện có xung quanh ta: là thân của ta, là vợ con, là cha mẹ, là anh chị em, là nhà cửa của cải tài sản, v.v... của ta, không thấy các sắc pháp trên thế gian này là không thật có (duyên hợp), mà lại cho các sắc pháp là thật có. Do thấy như thật có nên sinh tâm tham đắm và dính mắc sắc pháp. Khi tâm dính mắc vào các sắc pháp thì phạm vào giới cấm tham lam. Do tâm tham lam sinh ra chiếm hữu. Khi tâm chiếm hữu thì thấy thân này là ta, là của ta, là bản ngã của ta; vợ con là của ta, cha mẹ anh em chị em là của ta, nhà cửa tài sản là của ta, nên khi có ai chạm đến thì ta sinh ra tức giận thù ghét. Luôn luôn lúc nào cũng ưa thích bảo vệ cái của ta. Vì thế chịu khổ đau vô cùng.

Sắc hữu (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là chỉ cho cảnh giới bốn thiền, là trạng thái Tứ Thánh Ðịnh. Bốn trạng thái này trong kinh sách Ðại Thừa thường gọi là bốn cảnh Trời hữu sắc: 1/ Sơ Thiền Thiên, 2/ Nhị Thiền Thiên, 3/ Tam Thiền Thiên, 4/ Tứ Thiền Thiên. Bốn trạng thái thiền này do ý thức tu tập tạo ra, nên gọi là bốn sắc cứu cánh thiên. Khi nói "sắc hữu" là chúng ta biết ngay đó là bốn trạng thái Tứ Thánh Định.

Sắc Thân (Tạoduyên) Thân do bốn đại: ÐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA hợp lại thành.

Sắc thủ uẩn (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là phần hữu hình của thân ngũ uẩn, nó gồm có bốn đại: đất, nước, gió, lửa. Thân tứ đại sử dụng sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức tiếp xúc với sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Muốn đoạn diệt được thủ uẩn này thì chỉ có tu pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Sắc thức (CầnBiết.1) gồm có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Bình thường, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta sống, làm mọi việc, thì ý thức điều khiển hoạt động do ý căn (bộ óc và thần kinh).

Sắc trần (TruyềnThống.1) là hình sắc, hình tướng của vạn vật, khi căn và trần tiếp xúc nhau thì sinh ra cảm thọ mới sinh ra “sắc thức giới”. Cho nên đức Phật dạy: “sáu căn, sáu trần, sáu thức, là vô thường, là khổ là biến hoại, chúng không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta”.

Sắc tưởng (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.9)(CầnBiết.4) là những hình ảnh đã qua của mọi người còn lưu lại từ trường trong không gian do tưởng uẩn bắt gặp, là những hình ảnh do tưởng uẩn trong ta biến hóa lưu xuất hiện hình như: Nhà, cửa, sông, núi, đất, đá, ánh sáng, hào quang, người, vật, Thần, Thánh, ma, quỷ, linh hồn người chết, cõi Cực Lạc, Thiên Đàng, Tiên, Phật, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Chúa Trời, v.v… Những hiện tượng phi không gian và thời gian của tưởng thức tạo ra sắc tưởng như ánh sáng, lửa hay những hình bóng mờ mờ ảo ảo, v.v...

Sắc uẩn (Phậtdạy.3)(LinhHồn) toàn khối của thân, phần hữu hình của thân ngũ uẩn, nó gồm có bốn đại: đất, nước, gió, lửa. Thân tứ đại sử dụng sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý và sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức tiếp xúc với sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

Sân kiết sử (TruyềnThống.2)(Phậtdạy.3)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3)(CầnBiết.4) Phiền não của giận dữ, tức là giận dữ do lòng tham muốn không đạt được sinh ra phiền não, làlòng tức giận đang ngự trị trong tâm. Sân kiết sử là hạ phần kiết sử. Muốn diệt trừ hạ phần kiết sử này thì chỉ có tu pháp môn Tứ Niệm Xứ.

Sân tầm (ĐườngVề.2)(ĐườngVề.3)(CầnBiết.5) là ý niệm về sân, là lòng tức giận khởi lên trong ta.

Sân triền cái (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) Là cái màn ngăn che lòng sân giận, khiến cho ta không thấy, nhưng lòng sân giận vẫn còn y nguyên. Năm triền cái Dục tham, Sân, Hôn trầm thùy miên, Trạo hối, Nghi này là năm pháp ngăn che làm cho tâm chúng ta không thanh tịnh, tức là không ly dục ly ác pháp hoàn toàn. Do đó, nội tâm ta không đủ nội lực Tứ Như Ý Túc để thực hiện Bốn Thiền và Tam Minh. Muốn đoạn tận năm triền cái này thì chúng ta hãy tu tập Tứ Niệm Xứ, chỉ có pháp môn Tứ Niệm Xứ mới đoạn tận năm triền cái.

Si (CầnBiết.3) là si mê, mờ ám, biết không rõ, không chính xác, không đúng.

Si định (Tạoduyên) cái định si mê, ham ngủ, lười biếng.

Siêng năng đẩy lui các chướng ngại trên thân và tâm (ĐạoĐức.2) là trên các cảm thọ của cơ thể như: đau nhức, ngứa, v.v... phải tìm mọi cách để làm cho nó không còn đau khổ nữa. Còn khi tâm phiền não, tức giận, buồn khổ...phải tìm mọi cách làm cho nó không còn đau khổ nữa. Người đẩy lui được các chướng ngại pháp trên thân, tâm của mình là người biết thương mình, thương người.

Siêng năng làm các điều thiện (ĐạoĐức.2) là không được làm các điều ác, không làm khổ mình, khổ người, sống đúng đạo đức thương mình, thương người.

Siêng năng ngăn ác, diệt ác pháp (ĐạoĐức.2) là sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả để đem lại cho mình, cho người một niềm vui chân thật.

Siêng năng nuôi mạng sống bằng những thực phẩm thiện (ĐạoĐức.2) là không nên nuôi mạng sống bằng những thực phẩm ác, nghĩa là hằng ngày không nên ăn thịt chúng sanh, vì ăn thịt chúng sanh là đem sự đau khổ vào thân. Thân bệnh đau hay tai nạn này, tai nạn khác đều do nuôi mạng sống trong sự khổ đau của loài vật.

Siêng năng suy tư các thiện pháp (ĐạoĐức.2) là không được suy tư các ác pháp. Phải suy tư đúng nhân quả thiện ác, không được suy tư đúng sai, phải trái. Khi suy tư đúng sai, phải trái thì chính mình không thương mình, thương người. Không thương mình, thương người thì khổ đau sẽ đến ngay liền tức khắc. Và như vậy là sống không đạo đức với mình, với người.

Siêng năng tu tập (PhậtDạy.4) Khi giác ngộ được bốn nhánh chân lí thì phải siêng năng tu tập, khi siêng năng tu tập thì phải tu tập kỹ lưỡng, tu cho có chất lượng. Muốn siêng năng tu tập thì phải cân nhắc kỹ lưỡng những lời đức Phật đã dạy, luôn luôn phải để ý xem kết quả trong sự tu tập có đạt được chất lượng tốt hay không?

Siêng năng xa lìa lòng ham muốn và tất cả các pháp ác (ĐạoĐức.2) là tâm phải bình tĩnh sáng suốt làm chủ trên mọi hành động nghiệp lực nhân quả của mình để mọi ác pháp không tác động vào được. Sống được như vậy là sống trọn vẹn đạo đức thương mình, không bị ác pháp lừa dối.

Sinh (TâmThư.1) sinh ra, làm ra cho nhiều, sản xuất.

Sinh ra từ nhân quả (PhậtDạy.4) là con người của nhân quả, con người của nhân quả là con người của tham, sân, si. Con người tham, sân, si là con người đau khổ.

Sinh sống (Phậtdạy.3) là những nghề nghiệp làm ra của cải, tài sản và thực phẩm để có một cuộc sống không thiếu hụt, đói kém. Nhưng nghề nghiệp thì phải chọn lấy nghề nghiệp thiện.

Sinh sống thanh tịnh (Phậtdạy.3) Sinh sống thanh tịnh tức là chánh nghiệp. Chánh nghiệp là nghề nghiệp sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Sung mãn (TruyềnThống.1)(MuốnChứngĐạo)(CữSĩTu) (Kinh Giaó Giới La Hầu La) là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Trước khi thực hiện nghĩa này thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong hơi thở. An trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc, đó là làm cho tràn đầy, sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.

Sung mãn Tứ Niệm Xứ (Phậtdạy.3) thì có bảy năng lực Giác Chi xuất hiện. Bảy năng lực Giác Chi xuất hiện tức là “tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.

Suy tầm (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là một dòng tư tưởng suy tư, tư duy suy nghĩ, có thể gọi suy tầm một điều gì đang suy nghĩ. Nếu suy tầm nào thuộc về yểm ly, ly tham đoạn diệt sân tầm, si tầm, hại tầm thì suy nghĩ về suy tầm đó; còn suy tầm nào làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, không ly dục tầm, sân tầm, hại tầm thì chấm dứt ngay liền không suy nghĩ các suy tầm đó. Nên phân biệt rõ ràng lúc nào là tâm hướng đến độc thoại, lúc nào là tâm hướng đến suy tầm. Khi độc thoại hay suy tầm đều nên độc thoại và suy tầm về Thánh hạnh, có khả năng cầu tiến, có khả năng hướng thượng, đưa đến sự hoàn toàn diệt khổ đau, ly tham, sân, si. Khi tu tập Tứ Niệm Xứ giữ tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, khi có một sự suy nghĩ nào khởi ra (suy tầm) thì phải phân biệt sự suy nghĩ thuộc loại nào, nếu thuộc loại tham, sân, si thì chấm dứt không suy nghĩ. Còn suy nghĩ (suy tầm) thuộc loại nào đưa đến li tham, ly sân, li si thì tiếp tục suy nghĩ. Nếu suy tầm nào thuộc về yểm ly, ly tham đoạn diệt sân tầm, si tầm, hại tầm thì suy nghĩ về suy tầm đó; còn suy tầm (suy nghĩ) nào làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, không ly dục tầm, sân tầm, hại tầm thì các bạn chấm dứt ngay liền không suy nghĩ các suy tầm (suy nghĩ) đó.

Suy tư (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) là sự suy nghĩ, nghĩ ngợi một điều gì. (còn suy tầm là một dòng tư tưởng suy tư; có thể gọi suy tầm một điều gì đang suy nghĩ).

Súc sanh (ĐườngVề.9) là trạng thái ti tiện nhỏ mọn, ích kỷ.

(ThiềnCănBản) là người Thầy.

Sư cụ (ThiềnCănBản) theo kiểu Ðại Thừa là người tu lâu năm rồi thành sư cụ.

Sứ giả Như Lai (TâmThư.1) được đào tạo theo chương trình cấp tốc bằng hai hướng: 1- Chọn những tu sĩ có đặc tướng thiền định, đặc cách cho vào lớp Tứ Niệm Xứ nhập định và thực hiện Tam minh làm sứ giả Như Lai nòng cốt cho Phật giáo. 2- Chọn những tu sĩ có đặc tướng giới luật đức hạnh cho vào lớp 250 giới tỳ kheo tăng và 348 giới tỳ kheo ni học đức hạnh và oai nghi tế hạnh của 250 giới đức tỳ kheo tăng và 348 giới đức tỳ kheo ni để làm sứ giả Như Lai đem nền đạo đức nhân bản – nhân quả truyền dạy khắp nơi, đem lại hạnh phúc cho loài người.

Sức tinh tấn (ĐườngVề.3) tức là siêng năng.

Sự nguy hại của tầm ác (ĐườngVề.8) tức là một niệm khởi lên trong tâm của mình khiến cho tâm mình bất an, bất toại nguyện, phiền não, khổ đau, lo lắng, sợ hãi, giận hờn, phiền muộn, thương nhớ, hối tiếc, hối hận, lo sợ, lo lắng, bất an, v.v… thì mau mau dùng “Ðịnh Vô Lậu” quán xét xả tâm, lìa cho thật sạch tầm ác. Nhờ có quán xét xả ly tầm ác thì mới diệt được ác pháp, tâm mới trở lại thanh thản, an lạc và vô sự. Luôn tác ý về hơi thở, tức là tác ý hành tướng tầm thiện, cũng như luôn tác ý tất cả oai nghi tế hạnh đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả mọi việc, tức là tác ý hành tướng tầm thiện ngoại.

Sự thật thứ tư là đạo đế (ĐườngRiêng) chỉ thẳng đường lối tu tập làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người là sinh, già, bệnh, chết, bắt đầu tu tập từ chỗ khổ đau đến chấm dứt khổ đau; tức là bắt đầu tu tập bằng cách triển khai tri kiến giải thoát, nhờ có triển khai tri kiến hiểu biết nên mới có cách thức ly dục ly bất thiện pháp.

Sự tiến hóa vô thượng (của con người) (3Qui5Giới) là tu học theo đạo Phật.

Sự tinh tấn không có thụ động (ĐườngVề.9) là tự động siêng năng ham thích, thích thú tu tập.

Sự tu tập về bất tịnh, cái gì thuộc về tham ái được diệt trừ (TruyềnThống.1) Như lời dạy trên đây khi quán thân bất tịnh thì sẽ diệt trừ được tâm tham ái. Hằng ngày phải chuyên tu tập đúng pháp như lý tác ý nương thân hành nội ngoại. Câu tác ý thứ nhất:“Sắc dục chỉ là tâm tham ái nên không thấy thân này bất tịnh, uế trược, bẩn thỉu, hôi thối; phải từ bỏ, phải xa lìa chúng, tâm phải luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự”. Câu tác ý thứ hai: “Thân này bất tịnh, uế trược, hôi thối chúng ta phải từ bỏ tâm sắc dục, tôi biết tôi hít vô, tôi biết tôi thở ra”. Câu tác ý thứ ba: “Thân này là thân bất tịnh hôi thối, ta phải xa lìa, đừng tham ái nó; tôi biết tôi đang đi kinh hành”.

Sự tu tập về vô thường (TruyềnThống.1) do tu tập sự tu tập về vô thường cái gì thuộc về ngã mạn được diệt trừ. Tất cả các pháp trong thế gian này đều vô thường, nhưng thấy các pháp vô thường như thật thì phải nhiệt tâm tu tập hết sức, nếu không tu tập hết sức thì chẳng bao giờ thấy các pháp vô thường như thật.

Sóng gió Chơn Như (TâmThư.2) là những thử thách lòng người để biết ai vì Phật pháp, vì đạo đức thương yêu nhau trong khi tu viện Chơn Như gặp nhiều khó khăn. Trong sự thành công nào cũng vậy đều phải gặp nhiều khó khăn, gian nan, thử thách. Thầy đang điều khiển con thuyền Chơn Như lướt sóng vượt lên mọi khó khăn, gian khổ để làm sáng tỏ lại Phật giáo, để giúp mọi người sống có đạo đức. Sự thành công này đều nhờ công sức đoàn kết của các con rất lớn. Sóng gió Chơn Như chỉ là những bài thi trắc nghiệm cho những tu sĩ của tu viện, để biết những tu sĩ nào tu đúng, tu sĩ nào tu sai, tu sĩ nào xả tâm, tu sĩ nào không xả tâm; tu sĩ nào tâm bất động, tu sĩ nào tâm động; tu sĩ nào tâm thanh thản, an lạc và vô sự, tu sĩ nào tâm không thanh thản, an lạc và không vô sự. Sóng gió Chơn Như là chuyện nhân quả bình thường như mọi chuyện nhân quả ngoài thế gian, nó đâu có gì quan trọng; nó đâu có gì làm cho những Phật tử phải quan tâm, nó chẳng qua là những đối tượng để xả tâm cho những người mới tu mà thôi.

Số mệnh (Đường Về.7) Người ta cho rằng con người có số mệnh. Ai có số giàu là giàu, số nghèo là nghèo; số nghèo thì không làm sao làm giàu nổi. Do tin tưởng vào số mệnh nên có một số người tiêu cực, sanh ra lười biếng bê tha rượu chè bài bạc, cho số mình là vậy. Cũng từ thuyết định mệnh, đã khiến cho một số người tiêu cực không làm việc, mà đã không làm việc thì nghèo lại càng nghèo hơn. Vì không làm việc nên thì giờ rảnh rỗi nhiều sanh ra bài bạc, đĩ thõa, điếm đàng, trộm cướp khiến cho gia đình tan nát, xã hội rối ren, mất trật tự an ninh. Bởi thuyết định mệnh ra đời là một tai hại rất lớn cho loài người. Từ thuyết định mệnh mới sanh ra bói toán, chiêm tinh dịch số âm dương, xin xăm, xóc thẻ, xem ngày tốt xấu, v.v... tạo biết bao nhiêu sự mê tín, dị đoan khiến cho mọi người tốn hao tiền bạc rất nhiều.

Sống biệt trú 4 tháng (PhậtDạy.4) thời gian sống giới luật cho một người nào muốn theo Phật xuất gia tu hành để thử thách đời sống giới luật, nếu người đó sống được thì Phật chấp nhận cho xuất gia, còn người đó thấy sống không được thì trở về đời bình thường.

Sống cao thượng (12Duyên) phải sống đúng giới luật, là sống đúng Phạm hạnh của Phật giáo, tức là sống thiểu dục tri túc, chỉ còn ba y một bát, tất cả đều buông xả sạch, không còn để tâm thương hay ghét, không còn ái kiết sử trói buộc. Vì chứng đạo là tâm phải BẤT ÐỘNG, là tâm không phạm giới, tâm sống ly dục ly ác pháp, giữ gìn tâm bất động dễ dàng. Do tâm BẤT ÐỘNG mới làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT. 1- Ðiều thứ nhất: sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham ăn, ăn ngày một bữa. 2- Ðiều thứ hai: sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham ngủ, thường tu tập tỉnh thức, sống trong tâm bất động. 3- Ðiều thứ ba: sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không ham tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, thường buông xả hết, chỉ còn sống ba y, một bát hằng ngày đi xin cơm một bữa để sống tu tập. 4- Ðiều thứ tư: sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham uy quyền, mà chỉ muốn làm một người thấp nhất trong xã hội (người ăn mày). 5- Ðiều thứ năm: sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không giận hờn, ai chửi mắng thì tha thứ thương yêu, không ghét ai, nhất là không lo sợ một thứ gì cả. 6- Ðiều thứ sáu: sống theo pháp cao thượng của Phật giáo thì tránh xa dâm dục. Dâm dục là con đường sinh tử luân hồi, con đường bất tịnh, uế trược, tràn đầy đau khổ.

Sống Chánh định (ĐườngVề.6) là sống bất động tâm trước các pháp ác và các cảm thọ.

Sống Chánh mạng (ĐườngVề.6) là sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Sống không nuôi dưỡng thân mạng bằng máu thịt chúng sanh, bằng sự đau khổ của loài vật khác, của người khác.

Sống Chánh nghiệp (ĐườngVề.6)(CầnBiết.4) là phải sinh sống những nghề nghiệp làm ra của cải, tài sản và thực phẩm để có một cuộc sống không thiếu hụt, đói kém. Nhưng nghề nghiệp thì phải chọn lấy nghề nghiệp thiện. Ví dụ: nghề săn bắn, nghề chài lưới, nghề đồ tể giết trâu, bò, heo, dê, cá, tôm, gà, vịt, v.v…Đó là những nghề ác. Làm nghề nghiệp ác, tức là sinh sống không thanh tịnh. Sinh sống thanh tịnh tức là chánh nghiệp. Chánh nghiệp là nghề nghiệp sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. Do sự sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì sự sống ấy sẽ mang lại hạnh phúc, an vui cho mình cho người và cho muôn loài vật.

Sống Chánh ngữ (ĐườngVề.6) là sống dùng lời nói thiện không được nói lời nói ác, nói lời nói không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai.

Sống Chánh niệm (ĐườngVề.6) là sống giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tất cả những chướng ngại pháp tác động vào thân tâm họ đều được đẩy lui bằng pháp Như lý tác ý trên Tứ Niệm Xứ

Sống Chánh tinh tấn (ĐườngVề.6) là sống siêng năng tinh cần hằng ngày từng phút từng giây không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cảhai tức là ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp.

Sống Chánh tri kiến (ĐườngVề.6) là phải thấy đúng mọi hoàn cảnh, mọi sự việc, mọi đối tượng thường xảy ra đều thấy đúng là nhân quả thiện ác.

Sống Chánh tư duy (ĐườngVề.6) là sống suy tư mọi hoàn cảnh, mọi sự việc, mọi đối tượng đều phải tư duy, suy nghĩ nó là nhân quả thiện ác.

Sống chế ngự lời nói (TruyềnThống.2) là một hành động đạo đức thuộc về khẩu hành làm Người, làm Thánh, là một đức hạnh ngôn ngữ để thực hiện Thánh đức im lặng. Sống chế ngự lời nói là một hành động ngăn chặn và hạn chế lời nói ác, lời nói khiến mình khổ, người khác khổ. Nhờ có hạn chế và ngăn chặn lời nói ác. “GIỚI KHẨU HÀNH” tức là “SỐNG CHẾ NGỰ LỜI NÓI”,

Sống chế ngự thân (TruyềnThống.2) là một hành động Thánh hạnh đạo đức sống ngăn ngừa mỗi hành động của thân, để điều khiển thân, không cho thân hành động chạy theo dục nhiễm thế gian, khiến cho thân được thanh thản, an lạc và vô sự; đây là một giới luật dạy về đức và hạnh trong những đức hạnh làm Người, làm Thánh. Sống chế ngự thân là một giới luật dạy mọi người phải thường sống có đạo đức biết ngăn chặn thân không cho thân chạy theo dục lạc. Sống chế ngự thân là làm chủ thân mình, là sống ngăn chặn và điều khiển thân không cho thân hành động làm những điều ác, luôn làm những điều thiện. Thân làm những điều lành là làm những điều có đạo đức, làm những điều không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Làm chủ thân mình đó là một Thánh hạnh sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ cả hai. Sống chế ngự thân là một giới hành ly dục ly ác pháp tuyệt vời, vì trước khi thân làm một việc gì thì đều phải suy tư xem xét. Do biết rõ từng hành động của thân mình nên làm bất cứ việc gì đều không có lỗi lầm.

Sống chế ngự ý (TruyềnThống.2) là sống làm chủ ý, sống không buông lung, không chạy theo lòng ham muốn của các bạn tức là không chạy theo dục lạc thế gian. Còn ngược lại là chạy theo dục lạc, chạy theo dục lạc là chạy theo sự khổ đau. Cho nên,“Sống chế ngự ý” là một đức hạnh tuyệt vời, chỉ có con người mới thực hiện được. Người nào chế ngự được ý là một bậc Thánh tại thế gian này, họ sống đời sống không bao giờ làm khổ mình, khổ người, họ là hiện thân của tâm bất động, sống với trạng thái thanh thản, an lạc và vô sự. “Sống chế ngự ý” là sống làm chủ được ý căn, là sống làm chủ được sự sống chết của mình. Nếu còn phạm giới chế ngự ý là còn phạm tất cả những giới sau đây: 1/ Phạm giới chế ngự ý. 2/ Phạm giới ăn phi thời. 3/ Phạm giới độc cư. 4/ Phạm giới nói lời chân thật. 5/ Phạm giới không sáng suốt. 6/ Phạm giới ly tham. 7/ Phạm giới mất oai nghi tế hạnh. 8/ Phạm giới ngồi lều ăn quán... và nhiều giới khác nữa.

Sống cung kính, tuỳ thuận chúng Tăng (PhậtDạy.2) là y chỉ sống như bậc Ðạo Sư của mình không hề sai khác, lúc nào cũng gần gũi thân cận Người để thưa hỏi những điều cần biết, cần tu tập; chứ không phải cung kính, tuỳ thuận, cúng dường trai tăng chúng Tăng phạm giới phá giới, chứ không phải không dám nói, không dám chỉ thẳng những sự sai phạm của Tăng.

Sống cung kính, tuỳ thuận lễ phép xã giao (PhậtDạy.2) là khéo léo thiện xảo thích ứng trong mọi hoàn cảnh về oai nghi tế hạnh của một người tu tập theo chánh pháp Nguyên Thuỷ.

Sống độc cư (ĐườngVề.2)(Tạoduyên)(ThiềnCănBản)(TrợĐạo)(TâmThư.1)(TâmThư.2) là sống nơi yên tịnh (Rừng núi) cho người tu tập xả tâm ly dục ly bất thiện pháp. Độc cư là đức hạnh phòng hộ sáu căn mà người tu sĩ Phật giáo phải giữ gìn cho tròn đủ. Sống Độc Cư là sống biết Tùy Thuận, sống theo ý của người khác bằng cách bỏ tâm mình sống theo tâm bạn tức là tùy thuận tâm bạn là Sống Độc Cư. Giữ hạnh độc cư trọn vẹn là tu tập được cái gì cũng không khoe khoang nói cho người khác biết. tức là phòng hộ sáu căn, chỉ biết im lặng không nói, chỉ có sống độc cư thì mới phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Sống Độc Cư có ba giai đoạn, giai đoạn 1, 2 là giai đoạn tu tập Ðịnh Vô Lậu (tu học giới luật đức hạnh) triển khai tri kiến giải thoát, cho nên việc tiếp duyên trên là áp dụng đức hiếu sinh vào đời sống để ly dục ly ác pháp phải có đối tương. Còn giai đoạn 3 là giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, giai đoạn này phải giữ gìn độc cư 100% là giai đọan tu chứng đạt chân lí cho nên càng giữ gìn độc cư nghiêm chỉnh càng chứng đạo dễ dàng. Ðây là giai đoạn cuối cùng của con đường tu theo Phật giáo, giai đoạn này phải hộ trì sáu căn rất chặt mới ly dục ly ác pháp vi tế trong tâm hoàn toàn. Có người không hiểu độc cư như thế nào lại sống ức chế tâm mình, sống cô đơn chịu đựng, đến khi sức chịu đựng không nổi, bắt đầu thần kinh hưng phấn, nói loạn tưởng, giống như người điên.

Sống độc cư (giai đoạn 1) Sống chung đụng với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận là sống không chống đối va chạm. Giữ gìn thân, khẩu, ý tức là tu tập hạnh nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Nếu không đẩy lui các chướng ngại pháp đó mà cứ để trong tâm ôm ấp, cứ để ôm ấp sự đau khổ đó trong lòng, người không trí tuệ thường sống ngược lại với người biết tu, đó chỉ là những người chưa biết cách tu, người chưa học đạo đức làm người, người còn vô minh, ngu si, dại dột. Người có trí tuệ đạo đức nhân bản nhân quả chẳng ngu gì mà để ôm ấp sự đau khổ trong tâm như vậy, họ luôn luôn sáng suốt và nhất định dù một giây một phút cũng không để ác pháp trong tâm. Trong cảnh động muốn tránh va chạm thì phải sống phòng hộ khẩu hành, nghĩa là phải giữ gìn miệng lưỡi, không được nói chuyện phiếm, chuyện tào lao, chuyện người khác, không có ý kiến trong tất cả mọi việc, ai làm gì mặc họ, mình chỉ biết giữ gìn tâm và ý của mình lúc nào cũng thanh thản, an lạc, vô sự, ngoài chuyện thanh thản, an lạc của tâm, nhất định mình không để ý chuyện gì khác như lời đức Phật đã dạy: “Chuyện mình, mình biết chuyện người, người hay”. Biết chuyện người thì tâm phóng dật, biết chuyện mình là để xả tâm ly dục ly ác pháp, ly dục ly ác pháp là tâm thanh thản, an lạc, đó là một trạng thái tâm giải thoát không còn khổ đau tức là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật tức là tâm thiền định. Sống độc cư mà không ức chế tâm đó là đời sống của con tê ngưu một sừng. Tóm lại, sống chung với mọi người nhưng không nói chuyện với ai cả, ai hỏi thì trả lời, không hỏi thì không kiếm chuyện nói, sống mà cứ lo giữ gìn tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự, đó là độc cư, độc bộ, độc hành, đó là im lặng như Thánh. Suốt ngày sống với mọi người mà chỉ có một mình, sống như vậy không bao giờ có va chạm, đó là sống phòng hộ sáu căn giữ gìn tâm ý. Sống độc cư được như vậy tức là đã biết ôm pháp tu hành, lúc nào cũng không lìa pháp, vì thế tâm hồn họ thanh thản, an lạc và vô sự, đó là một trạng thái giải thoát của người tu theo đạo Phật.

Sống độc cư, sống hòa hợp (TrợĐạo) Rất hạnh phúc khi cùng tu tập với những người quyết tâm tu tập, luôn luôn giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm và hạnh độc cư trọn vẹn, không làm động người khác, không nói chuyện, không ngó nhìn người khác, chờ người khác đi khất thực rồi mình mới đi chớ không đồng thời đi một lượt. Sống ĐỘC CƯ là sống biết TÙY THUẬN.

Sống độc thân (ĐạoĐức.2) Sống hòa mình trong vũ trụ với sự sống của muôn loài, mà không có người hay vật nào làm cho ta bận tâm được. Sống độc thân chính là ta sống cho muôn loài vạn vật với tình thương bao la, rộng lớn vô bờ bến, sống với vạn hữu trong môi trường sống mà duy nhất chỉ có một tâm hồn bất động. Sống không làm khổ mình, khổ người là sống độc thân, sống độc thân không có nghĩa là ta sống ích kỷ riêng cho ta. Người sống độc thân là người biết sống những đức hạnh cao quý làm người. Biết sống những đức hạnh cao quý làm người là biết vượt ra khỏi bản tính dục lạc của loài động vật.

Sống đúng đạo đức làm người (ĐạoĐức.2) là không nên thấy các ác pháp, dù bất cứ pháp nào cũng phải tư duy đúng lý nhân quả thiện ác để ngăn diệt ác pháp, và luôn luôn sống trong thiện pháp. Còn thấy đúng sai, phải trái thì không thương mình, thương người. Không thương mình, thương người thì mọi sự khổ đau sẽ đến thăm viếng, và như vậy là sống thiếu đạo đức làm người.

Sống đúng đạo đức nhân bản–nhân quả (TâmThư.2) là người sống thấy lỗi mình, không thấy lỗi người. Còn những người sống thấy lỗi người, là những người đang sống theo vòng nhân quả luân hồi sinh tử. Sống biết thương yêu và tha thứ mọi lỗi lầm của nhau là đạo.

Sống đúng khẩu hành thanh tịnh (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) hằng ngày trong mỗi hành động nơi “miệng”, của “miệng” đều phải tránh làm điều ác, luôn làm điều thiện, tức là không làm khổ mình, khổ người. Khẩu hành là những hành động nơi miệng, sự hoạt động của miệng. Miệng nói ra những điều thiện; thường nói ra những lời nói ôn tồn, êm ái và nhẹ nhàng, không nói lời hung dữ, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói xấu người khác, không nói lật lọng, v.v… hằng ngày mỗi khi nói ra điều gì, đều phải tránh nói ra lời ác, luôn nói lời thiện, tức là nói ra lời nói không làm khổ mình, khổ người. Miệng phải ăn uống điều độ, không nên ăn uống phi thời; miệng không nên uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào, thuốc phiện, v.v… Vì đó là những thứ độc dược sẽ mang đến cho chúng ta những sự đau khổ, cho mình và mọi người. Thanh tịnh nghĩa là không làm khổ mình, khổ người. Thanh tịnh còn có nghĩa thiện pháp, trong sạch, không uế nhiễm, v.v… Nếu sống đúng khẩu hành thanh tịnh như vậy thì tâm hồn sẽ được an vui, thanh thản và vô sự, gia đình hạnh phúc, xã hội có trật tự an ninh và đất nước phồn vinh, thịnh vượng.

Sống đúng Mười Ðiều Lành (10Lành) là phải rèn luyện con người trở thành những người tốt đối với bản thân, đối với gia đình, đối với xã hội hiện nay và mai sau. Sống đúng Mười Ðiều Lành sẽ giúp tâm tánh chúng ta luôn luôn thành thật với mình, với mọi người, hoàn toàn không dối trá lừa đảo bất cứ một người nào, lúc nào cũng đầy đủ những đức hạnh điềm đạm, khiêm hạ, giản dị, v.v... Nhờ Sống đúng Mười Ðiều Lành, chúng ta mới đủ sức nhẫn nại để vượt qua những cam go, thử thách của cuộc đời, mới tìm thấy sự an vui chân thật trong lòng mình, sẽ chuyển cảnh khổ đau, đói rét thành cảnh an vui, no ấm và còn đưa con người đến những cảnh thuận duyên mãi mãi trong cuộc đời, sẽ giúp cho cuộc sống của chúng ta trở thành cuộc sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người và cũng không làm khổ tất cả chúng sinh. Nhờ thế, bản thân được an ổn, gia đình được hạnh phúc, an vui và xã hội luôn luôn được trật tự an ninh. Sống trong Mười Ðiều Lành còn giúp cho chúng ta không trở thành kẻ hung ác, điêu ngoa, xảo trá, trộm cướp, hiếp dâm, giết người, v.v... Nhờ thế, không còn lo sợ mất của cải tài sản và bị những kẻ trộm cắp, cướp giựt, hung ác giết người hãm hại chúng ta.

Sống đúng thân hành thanh tịnh (Phậtdạy.3) hằng ngày trong mỗi hành động của thân đều phải tránh làm điều ác, luôn làm điều thiện, tức là không làm khổ mình, khổ người.

Sống đúng ý hành thanh tịnh (Phậtdạy.3) Ý hành là những hành động suy nghĩ nơi ý thức, sự hoạt động của ý, ý suy nghĩ ra những điều thiện, ý quán xét tư duy một việc gì, một sắc tướng, một âm thinh, một mùi hương, một mùi vị, một cảm giác, một lời nói một câu văn, thơ, phú, v.v… Thanh tịnh nghĩa là không làm khổ mình, khổ người. Thanh tịnh còn có nghĩa thiện pháp. Sống đúng ý hành thanh tịnhlà hằng ngày mỗi khi nghĩ đến một điều gì, thì phải tránh suy nghĩ điều ác, luôn suy nghĩ điều thiện, điều lành, không được suy nghĩ điều ác mà phải suy nghĩ những điều không làm khổ mình, khổ người.

Sống hòa hợp như nước với sữa (TrợĐạo) trước mặt cũng như sau lưng đều khởi Lòng Yêu Thương bạn đồng tu, không tranh cãi gây trở ngại trong sự tu tập của mình và các bạn. sống theo ý của người khác. Sống hòa hợp như nước với sữa là sống với Lòng Yêu Thương, chỉ có lòng yêu thương trọn vẹn với bạn đồng tu, từ bỏ sống theo tâm mình mà sống theo tâm các bạn.

Sống hòa hợp với những kẻ li gián (TruyềnThống.2) là khi sống chung với người khác thì phải cẩn thận xem xét kỹ lưỡng từng lời nói của họ. Nếu họ là người thường nói xấu người khác thì họ là kẻ li gián xấu ác thì đừng a dua theo họ mà hãy khéo léo khuyên họ đừng nên nói như vậy vì nói như vậy chính mình là người xấu ác. Người nói xấu người khác không bao giờ là người tốt được. Họ là ác tri thức, nếu khuyên ngăn họ không được thì nên tránh xa họ. Khi sống chung với người thì phải cảnh giác với những người này, thường cố gắng khuyên họ, nhưng không nên chơi thân với họ. Sống hoà hợp với những kẻ li gián thì nên xem xét kỹ lưỡng lời nói của họ, đừng vội tin. Mỗi lời nói của họ thường gây chia rẽ, làm mất tình đoàn kết, nên đề phòng. Sống hòa hợp với những người li gián là sống với những người nhiều chuyện khi nghe họ nói ra bất cứ một điều gì thì nên tin bằng 1 phần 10 hay bằng 1 phần 100 chứ đừng tin hết lời nói của họ, họ là những người đâm thọc, nói ra, nói vào gây chia rẽ, mất đoàn kết. Ðối với những hạng người này các bạn hãy lắng nghe và im lặng như Thánh, đừng nên nói một lời nào với họ, đó là đức hoà hợp sống với kẻ li gián. Muốn sống hoà hợp với những người li gián thì phải thường tác ý câu này “Phải im lặng như Thánh, không nên a dua theo họ, họ nói ta nghe nhưng không để ý, nghe tai này vừa xong là ném bỏ ngay những điều họ nói”. Ðức Phật dạy hạnh hoà hợp: “Biết chuyện mình đừng biết chuyện người ” hoặc “Thấy lỗi mình đừng thấy lỗi người ” hoặc “Chuyện mình, mình biết. Chuyện người, người hay”.

Sống không gia đình (ĐườngVề.1)(TruyềnThống.2) là đoạn dứt tình cảm cha mẹ, anh em, chị em ruột thịt, vợ con, bè bạn, người thân quyến thuộc, v.v... Người đi tu mà không dứt bỏ tình cảm, không cắt đứt lòng luyến ái đối với những người thân thì không thể nào theo đạo Phật tu hành đến nơi đến chốn được. Hai chữ “bổn phận” trói buộc chúng ta chắc hơn cả dây xích sắt. Bổn phận làm người đối với cha mẹ, đối với vợ con chúng ta có bỏ được không? Làm được bằng hình thức bên ngoài mà nội tâm không đoạn trừ ái kiết sử. Vì thế, mà phải đổ vỡ con đường tu. Sống không gia đình là một Thánh hạnh giải thoát của người tu sĩ Phật giáo, chấp nhận một đời sống du Tăng khất sĩ, một đời sống phiêu lưu nay đây mai đó, sống không gia đình, không nhà cửa. Ðó là Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo, sống trong trần lao mà đã ra khỏi trần lao. Sống không gia đình là giới hạnh giải thoát của những bậc Thánh Tăng, Thánh Ni, là giới cụ túc thứ ba nó thuộc về giới hạnh ly gia cắt ái, là giới luật cắt tất cả những sợi dây ái kiết sử, là giới hạnh ly trần tục, thoát kiếp đời khổ đau.

Sống không nhà cửa (TruyềnThống.2) là một hành động sống hạnh từ bỏ nhà cửa, tức là ly tất cả các pháp trên thế gian này, là một Thánh hạnh ly gia cắt ái của những người đã thông suốt lý duyên hợp của các pháp. “Các pháp thế gian là pháp sinh diệt. Sinh diệt diệt rồi tịch diệt là vui”. Vì tất cả các pháp trên thế gian này đều là do duyên hợp mà thành, nên không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do biết rõ thật như vậy nên mới chấp nhận sống không nhà cửa. Sống không nhà cửa là sống thoát ly mọi vật chất trên thế gian này, nó có nghĩa là sống buông xả sạch. Nhờ buông xuống mà thân tâm được thanh thản an lạc và vô sự; nhờ buông xuống mà sống giải thoát sanh tử luân hồi. Sống không nhà cửa là một Thánh hạnh tuy rất tầm thường nhưng rất quan trọng cho việc tu hành tìm cầu sự giải thoát.

Sống một mình (sống độc cư) (12Duyên) tức là một bí quyết thành công trong sự tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Nhờ sống độc cư mà tâm mới lộ diện phóng niệm. Khi niệm phóng ra thì tác ý tâm bất động thì niệm liền dừng lại, niệm này dừng lại thì sẽ có niệm khác khởi lên, và cứ tiếp tục tác ý cho đến khi không còn niệm nào khởi ra thì con đường tu tập đã thành công. Tu hành mà ở nơi ồn náo thì rất khó gọt rửa tâm mình, vì nơi đó rất nhiều pháp tác động vào sáu căn, khiến sáu căn luôn luôn phóng dật theo sáu trần. Cho nên, người tu hành cần phải tìm nơi vắng vẻ để gạn lọc tâm thì mới mong tâm mình thanh tịnh.

Sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng (TêNgưu) là người tâm không còn tham đắm vật chất, tiền bạc, của cải, tài sản, nhất là tâm không còn tham công ăn; việc làm, chỉ biết ngồi không chơi, đến giờ ăn thì đi khất thực, không nhờ ai nuôi dưỡng. Vì có người nuôi dưỡng là có sự vướng mắc trong ân tình, ân nghĩa. Cho nên chỉ có đời sống xuất gia thì mới sống một mìnhdễ dàng, đói đi khất thực từng nhà, vì thế mà tâm không bị ràng buộc mọi tình cảm gia đình, không bị ràng buộc dù bất cứ một tình cảm yêu thương nào.

Sống toàn thiện (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4)(TruyềnThống.2) là sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, tức là sống đúng giới luật, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Muốn sống như vậy thì nương theo giới luật và giáo pháp của đức Phật, hằng ngày phải học tập và rèn luyện tu tập cho đúng giáo pháp, phải sống đúng giới đức giới hạnh và giới hành của Phật giáo.

Sống trầm lặng, độc cư (GiớiĐức.1) thì thân tâm mới bất động và không còn lúc lắc, nhờ vậy đạo đức phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo mới trọn vẹn. Người tu sĩ tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni thường sống thân tâm bất động, thích trầm lặng, độc cư, đó là đạo hạnh của mình, hay là đạo hạnh của những bậc Thánh Tăng, còn người cư sĩ giữ gìn thân tâm bất động, tu tập sống trầm lặng, độc cư đó là đạo đức làm người không làm khổ mình khổ người thường có tâm hồn điềm đạm, tề chỉnh khi đối xử với những người khác. Vì thế chúng ta cũng cần nên tập luyện đạo đức “im lặng bất động là vàng, nói năng động đậy là đất”. Cho nên đạo Phật dạy người lấy bất động thân tâm làm giải thoát, nếu thân tâm ai đã bất động trước các pháp và các cảm thọ thì người ấy đã giải thoát, không còn phải tu tập những gì khác nữa. Giới luật của đạo Phật cũng dạy: “Chẳng đặng ngồi trong nhà cư sĩ lúc lắc cánh tay, cần nên học”. Đạo đức bất động tâm định và bất động thân định là những pháp đầu tiên của đạo Phật dạy về oai nghi tế hạnh làm người, nếu ai hay động đậy lúc lắc thân mình, đó là không đúng tư cách đạo đức của Ðức Phật, được xem là người thiếu giáo dục đạo đức về sự nghiêm trang, tề chỉnh.

Sống trong cao thượng (12Duyên) Sống trong cao thượng là sống đúng phạm hạnh của Phật giáo tức là sống thiểu dục tri túc, chỉ còn ba y một bát đi xin ăn, tất cả đều buông xả sạch, không còn để tâm thương hay ghét, không còn ái kiết sử trói buộc, không còn người thân kẻ sơ, không còn tài sản lớn tài sản nhỏ, không còn tiền để dự phòng trong cuộc sống hay đau ốm, không còn đất đai ruộng vườn, không còn nhà cửa lớn nhỏ. Sống trong cao thượng: Ăn không phi thời. - Ngủ không phi thời. - Sống độc cư phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình. - Đi đứng nhẹ nhàng, lời nói ôn tồn nhã nhặn. Sống trong cao thượng làm được. 1- Điều thứ nhất: ăn ngày một bữa. 2- Điều thứ hai: không tham ngủ, thường tu tập tỉnh thức sống trong tâm bất động. 3- Điều thứ ba: không ham tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, buông xả hết, 4- Điều thứ tư: chỉ muốn làm một người thấp nhất trong xã hội (người ăn mày). 5- Điều thứ năm: không giận hờn, ai chửi mắng thì tha thứ thương yêu không ghét ai, không lo sợ một thứ gì cả. 6- Điều thứ sáu: tránh xa dâm dục là con đường tái sinh luân hồi, khổ đau. Sống đời sống cao thượng thì phải siêng năng sống Không Phóng Dật thì lậu hoặc sẽ bị đoạn diệt.

Sống trong hạ liệt (12Duyên) là sống chạy theo dục lạc thế gian, tâm còn đầy tham, sân, si, mạn, nghi; ; tâm chưa sống ly dục ly ác pháp, mỗi chút mỗi phiền não giận hờn khổ đau; tâm còn ham muốn cái này cái kia. Hằng ngày tâm còn phóng dật, thấy cái này cái kia đều muốn nhìn ngó, lưu ý.

Sống với tâm không chấn động (Phậtdạy.3) Chấn động là sự tác động mạnh vào trong tâm khi có một sự kiện gì xảy ra quá đột ngột, khiến những ác pháp tác động vào tâm thình lình, khiến tâm mất bình tĩnh nên bị chấn động. Tâm không chấn động là khi một sự tác động mạnh vào trong tâm mà vẫn thấy tâm bình tĩnh. Tâm lý này phải được tu tập đúng pháp, đúng cách thì tâm mới không bị chấn động. Vì thế, đức Phật trang bị cho chúng ta một pháp môn như lý tác ý: “Ta phải sống với tâm không chấn động”. Nếu hằng ngày thường xuyên tác ý như vậy thì tâm sẽ không bị chấn động. Tâm không bị chấn động thì tâm được bình tĩnh và an ổn. Muốn làm chủ sanh, già, bệnh, chết thì trước tiên phải tập sống với tâm không động chuyển trước các ác pháp và các cảm thọ. Là phải tu tập Tứ Chánh Cần. Có đạt được kết quả tâm không động chuyển thì mới có khả năng tiến tu lên tâm không chấn động.

Sống với tâm không động chuyển (Phậtdạy.3) Mục đích của Ðạo Phật là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ. Muốn đạt được mục đích “sống với tâm không động chuyển” nên đức Phật đã dạy chúng ta phải sống với tâm không động chuyển. Ðó là pháp môn như lý tác ý. Vậy hằng ngày nên nhắc tâm mình: “Ta phải sống với tâm không động chuyển, dù bất cứ một ác pháp nào, một cảm thọ nào có tác động vào thân tâm ta đến đâu, ta nhất định chết bỏ, luôn luôn phải sống với tâm không động chuyển”. Muốn sống với tâm không động chuyển trước các ác pháp và các cảm thọ thì phải tu tập Tứ Chánh Cần. Khi Tứ Chánh Cần đã viên mãn thì tâm đã ly dục ly ác pháp phần thô mà về phần vi tế thì chưa xong. Do đó phải tiếp tục tu tập Tứ Niệm Xứ. Khi Tứ Niệm Xứ tu tập được viên mãn thì phần ly dục ly ác pháp vi tế đã được quét sạch, do đó tâm ta mới bất động. Và lúc bây giờ ta mới sống với tâm không động chuyển. Có đạt được kết quả tâm không động chuyển thì chúng ta mới có khả năng tiến tu lên tâm không chấn động.

Sống với tâm không lý luận (Phậtdạy.3) Khi lý luận thì phải có sự tranh cãi, tranh chấp; kẻ hay lý luận hơn thua là kẻ nuôi tự ngã vĩ đại. Muốn diệt ngã, xả tâm thì hằng ngày phải sống với tâm không lý luận. Lý luận có ảnh hưởng cho sự tu tập là bất động tâm. Sống một mình mà tâm hay lý luận, điều này điều khác, tự lý luận một mình thì sống không đúng giới hạnh độc trú, tu không có kết quả được. Sống với tâm không lý luận là sống vô ngã, là sống với tâm không động chuyển, là sống với tâm không chấn động, là sống bất động tâm, là sống với tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, là một phương pháp giữ gìn tâm không phóng dật. Lý luận có hai cách: 1/ Lý luận với người khác, 2/ Tự lý luận với mình. 1/ Tự lí luận thấy mình hơn người. 2/ Tự lí luận thấy mình bằng người. 3/ Tự lí luận thấy mình thua người. Người hay lí luận là người mang đầy bản ngã. Thấy mình hơn người là người ngu si; người thấy mình bằng người cũng là người ngu si; người thấy mình thua người lại chính là người ngu si nhất. Tại sao vậy? Bởi đó là tâm đang bị ba kiêu mạn. Người sống với tâm không lí luận là người không thấy mình hơn người, không thấy mình bằng người, không thấy mình thua người. Cho nên sống với tâm không lý luận là sống vô ngã, là tâm không động chuyển, là tâm không chấn động. Ðó là sống bất động tâm, sống với tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. “Ta phải sống với tâm không lí luận” là câu pháp hướng tâm, là câu đại thần chú, câu đại minh chú, v.v…

Sống với tâm từ bỏ ngã mạn (Phậtdạy.3) Ngã mạn có ba hình thức: 1. Thấy mình hơn người, 2. Thấy mình bằng người, 3. Thấy mình thua người. Biến lời dạy “Ta phải sống với tâm từ bỏ ngã mạn” này thành câu tác ý tức là pháp môn như lý tác ý để thường nhắc tâm từ bỏ ngã mạn, tâm ta trở thành một nội lực vô ngã. Tâm bất động chính là tâm vô ngã; tâm vô ngã chính là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp chính là tâm không phóng dật; tâm không phóng dật chính là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Sống với thiện (ĐườngVề.10) tức là sống với những người có đạo đức, những người lành.

Sống yên vui (TrợĐạo) xả ra thấy yên vui (chúng con sống yên vui).

Sổ tức (ĐườngVề.6) là pháp môn ức chế tâm không tầm không tứ, diệt vọng tưởng, bằng cách đếm hơi thở “ngồi yên như người chết”. Sổ tức là còn đếm hơi thở, đếm hơi thở là còn tác ý. Hơi thở là đối tượng của tâm, tâm còn ở trong niệm hơi thở và còn tác ý ức chế tầm tứ thì làm sao gọi là định thứ nhất Sơ Thiền được

Sơ Thiền (ĐườngVề.2)(ĐườngVề.6)(GiớiĐức.1) thuộc về giới ly dục ly ác pháp, là một loại thiền xả tâm có tầm có tứ, tâm được giải thoát vì đã ly dục ly bất thiện pháp. Sơ Thiền làm chủ cuộc sống (sanh), thuộc về tâm, nên còn có rất nhiều tên như: 1- Tịnh chỉ ngôn ngữ 2- Ly dục, ly ác pháp, 3- Sống trầm lặng, 4- Sống độc cư, 5- Sống phạm hạnh, 6- Bất động tâm định, 7- Vô tướng tâm định, 8- Sơ Thiền, 9- Tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm, 10- Giới luật thanh tịnh, 11- Tâm không phóng dật, 12- Tâm vô dục, vô ác pháp. Sơ Thiền chỉ là một trạng thái an lạc, thanh thản, có tầm, có tứ, có hỷ, có lạc của tâm bất động. Sơ Thiền không phải là một trạng thái thiền vắng lặng, không có tiếng ồn đi vào tai. Ý của Phật dạy “tịnh chỉ ngôn ngữ để nhập Sơ Thiền”, tức là phòng hộ sáu căn, là sống độc cư. Chỉ có độc cư mới phòng hộ sáu căn trọn vẹn, nhờ có phòng hộ sáu căn trọn vẹn, tâm mới không phóng dật, tâm không phóng dật, thì tâm mới ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp tức là tâm nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh. Từ Bất Ðộng Tâm Ðịnh mới nhập được Sơ Thiền. Sơ Thiền là định của tâm, chứ chưa phải là định của thân, nhưng nó chính là chánh thiền định của Phật giáo, đi từ chỗ xả tâm ly dục ly ác pháp mà vào. Nhờ có thiền này nên tâm được an lạc, thanh thản và vô sự; nhờ có thiền này mà giới luật mới thanh tịnh và nghiêm trì; nhờ có thiền này mà tâm mới an trú trong Phạm hạnh; nhờ có thiền này mà oai nghi tế hạnh của người tu sĩ mới xứng đáng là đệ tử của đức Phật; nhờ có thiền này chúng ta mới thấy tâm hồn giải thoát thật sự. Còn sổ tức là pháp môn ức chế tâm không tầm không tứ “ngồi yên như người chết” khi ý thức không khởi niệm thì cho đó là nhập Sơ Thiền.

Sơ thiền của ngoại đạo (ĐườngRiêng) ly dục ly bất thiện pháp bằng cách tu tập ức chế ý thức không cho ý thức khởi niệm. Khi ý thức không khởi niệm thì cho đó là nhập Sơ Thiền. Thiền của ngoại đạo muốn nhập không cần Ðịnh Như Ý Túc, vì pháp tu tập của ngoại đạo không có Ðịnh Như Ý Túc mà chỉ có một pháp duy nhất là ức chế ý thức làm cho ý thức không khởi niệm rồi bảo đó là ly dục ly ác pháp.

Sơ thiền của Phật (ĐườngRiêng) tu tập cũng ly dục ly bất thiện pháp, nhưng cách thức ly dục ly bất thiện pháp không giống như Sơ Thiền của ngoại đạo. Tu tập Sơ Thiền của Phật giáo là phải sống đúng giới luật. Khi sống đúng giới luật là đã ly dục ly ác pháp phần thô.

Sơ Thiền dưới cây hồng táo (ĐườngRiêng) là Sơ Thiền của ngoại đạo. Sơ thiền của ngoại đạo ly dục ly bất thiện pháp bằng cách tu tập ức chế ý thức không cho ý thức khởi niệm. Khi ý thức không khởi niệm thì cho đó là nhập Sơ Thiền. Pháp tu tập của ngoại đạo không có Ðịnh Như Ý Túc mà chỉ có một pháp duy nhất là ức chế ý thức làm cho ý thức không khởi niệm rồi bảo đó là ly dục ly ác pháp.

Sơ Thiền dưới cội bồ đề (ĐườngRiêng) là do đức Phật truy tìm pháp môn TỨ CHÁNH CẦN tu tập để nhập được Sơ Thiền. Khi tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN, do ngăn ác và diệt các ác pháp nên tâm bất động, thanh thản an lạc và vô sự, vì thế tâm luôn luôn bám trên TỨ NIỆM XỨ.

Sợ hãi trong những lổi nhỏ nhặt (ThờiKhóa) là luôn luôn lưu ý đến những lỗi lầm nhỏ nhặt mà hằng ngày chúng ta có thể vô tình lầm lỗi. Những lỗi nhỏ nhặt chúng ta vô tình xem thường thì sự tu tập của chúng ta sẽ không có kết quả. Ví dụ như khởi niệm muốn uống một ly sữa, một ly cà phê, một tô nước chè, hút một điếu thuốc lá, v.v... đó là phạm vào những lỗi nhỏ nhặt; hay trong khi đang ngồi chơi bổng nhớ đến một câu kinh Phật, một câu công án, một bài thơ đường, một câu ca dao, một bài dân ca, một bức tranh danh họa, hoặc một niệm nhớ nghĩ về gia đình con cái, v.v... đó là đã phạm vào những lỗi nhỏ nhặt của đạo Phật trong con đường tu tập giải thoát. Nếu chúng ta xem thường những lỗi nhỏ nhặt, không giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì dù tu muôn kiếp cũng chẳng giải thoát được gì. Bởi lỗi lầm tuy nhỏ vì còn trong ý, nhưng nếu không thấy nó là một lỗi lầm lớn trong sự tu tập thì dù chúng ta có tu muôn ngàn kiếp cũng chẳng đi đến đâu cả.

Sợ hãi và thù hận (12Duyên) là sự khổ đau của con người.

Sở hành (CầnBiết.3) là bản tính thói quen của một con người. Khi tu tập khéo giữ gìn tâm bằng cách dùng ý thức tri kiến ly dục, ly ác pháp thì tâm sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự nên không còn các sở hành tức là thói quen không còn.


VIẾT TẮT CÁC SÁCH

(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai.