• ThayTL
  • phattuvandao1
  • tranhducphat
  • amthat3
  • vandao2
  • chanhungphatgiao
  • huongdantusinh
  • toduongtuyetson
  • phattuvandao3
  • amthat1
  • thanhanhniem2
  • vandaptusinh
  • amthat2
  • lailamtoduong1
  • thanhanhniem1
  • tinhtoa2
  • lopbatchanhdao
  • quetsan
  • benthayhocdao
  • khatthuc1
  • tinhtoa1
  • ttl3
  • tamthuphattu
  • thanhanhniem3
  • daytusi
  • ttl1
  • Thầy Thông Lạc
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc
JGLOBAL_PRINT

Giáo Án Tu Phật: GIỚI THIỆU GIỚI BỔN PATIMOKKHA

COM_CONTENT_ARTICLE_HITS

(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm trong 61 cassettes)


Phần bốn:  GIỚI BỔN PATIMOKKHA

I.- GIỚI THIỆU GIỚI BỔN PATIMOKKHA

Chúng ta tiếp tục học giới bổn Patimokkha để thông suốt oai nghi tế hạnh của người tu sĩ vì trong 25 giới hạnh chỉ nói đơn giản thôi chứ chưa nói đến hành động hằng ngày của chúng ta. Trong giới bổn Patimokkha có nói đầy đủ hành động hằng ngày của chúng ta để chúng ta khỏi lầm lạc có vậy mới thực hiện các giới hạnh đó để oai nghi tế hạnh của người tu sĩ được trọn vẹn đầy đủ. Hành động của người tu sĩ phải như thế nào để cho mọi người thấy được đức hạnh của người tu sĩ. Phải học nhiều giới hạnh mới thâm nhập oai nghi tế hạnh của người tu sĩ. Chúng ta tiếp tục học 25 giới hạnh và chúng ta học giới luật Patimokkha; Patimokkha mới có thể đầy đủ, cho nên giới luật Patimokkha có nhiều, do đó có lời giới thiệu rất dài về Patimokkham để bổ túc thêm phần giáo án về giới luật đạo Phật cho rõ nét.

Ở đây Thầy nhấn mạnh giáo pháp của đức Phật dạy người không có tranh luận với một ai ở đời vì thế mà ác tưởng sẽ không ám ảnh, do thế mà người ấy sống không bị triền phược, không có nghi ngờ do dự, với mọi hối quá, đoạn diệt không có tham ái đối với hữu và phi hữu.

Học xong giới bổn Patimokkha, quý thầy sẽ thấy vô số những sai lạc của người khác, nghĩa là khi học xong giới bổn thì chúng ta nhìn giới tu sĩ cũng như giới cư sĩ của Phật hiện giờ tuy mang danh từ là đệ tử của Phật nhưng họ dường như là đệ tử của ngoại đạo. Vì vậy trước khi học giới bổn Patimokkha thì quý thầy phải chuẩn bị tinh thần cho vững vàng vì chúng ta thấy chúng ta là ma quái chứ không phải đệ tử của Phật. Một người thông suốt giới luật rồi thì người đó thấy tu sĩ và cư sĩ hiện giờ chỉ là những người phá đạo, phá pháp Phật pháp.

Cho nên chúng ta không nên nói ra, không nên chống báng ai mà vì vậy ở đây Phật nói khi chúng ta học xong rồi thì không có tâm tham ái đối với hữu và phi hữu, nghĩa là chúng ta đừng thấy tâm của chúng ta rồi sanh ra bỉ thử trong đó để sanh ra tranh luận mà sanh ra những cái không hay cho đời tu hành của chúng ta. Vậy diệt trừ những ác tưởng của chúng ta, nghĩa là tưởng của chúng ta khởi ra những ác chướng đối với những người đó làm cho chúng ta có những ám ảnh không tốt đối với Phật pháp, cũng như đối với bản thân của những người đó. Họ sống như thế nào thì họ sẽ lãnh nhân quả của nó, chúng ta phải "câm miệng lại", không nói ra một lời nào hết mặc dù chúng ta biết giới luật rất rõ ràng. Chúng ta không động chạm một ai, không nói ai sai ai đúng, mà chỉ giữ mình thực hiện đúng với lời Phật dạy. Mình hãy tự cứu mình, không thể cứu ai được trong lúc này.

Chừng nào cứu mình được mới cứu người được, nghĩa là khi mình đã ra khỏi con đường thế tục thì mới mong mình cứu người còn đang ở trong thế tục. Chứ khi mình còn đang ở trong thế tục thì không thể cứu người trong thế tục, đôi khi mình bị chết chung với họ trong thế tục. Cho nên những hạnh Bồ tát sống trong thế tục để độ người thế tục coi chừng Bồ tát cũng chết luôn với người thế tục mà không độ ai được hết.

"Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật", Đức Phật ví giáo pháp của Ngài như một cái bánh mật ngọt chứ không phải cái bánh cay đắng đâu, thế mà người ta thấy cay đắng với giới luật, người ta coi cuộc sống 3 y 1 bát là cay đắng, đi khất thực không ai cho gì trong nhiều ngày phải ăn lá cây rừng để sống là cay đắng. Vậy bánh mật ở chỗ nào? Giới luật Patimokkha không phải là bánh mật cho đến khi chúng ta thực hiện được. Nhưng nếu chúng ta thực hiện không đúng thì nó là bải chông gai, những chỗ chúng ta không thể sống nổi.

Thầy phải cảnh giác quý thầy về những điểm này trước khi đi sâu vào giới bổn, để khi quý thầy biết chỗ nào là bánh mật, chỗ nào không phải bánh mật. Vì thế đức Phật cảnh giác chúng ta sau khi chúng ta đã học hết giới bổn mới biết chỗ nào là bánh mật, chỗ nào không phải.

Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật đối với người đang đói lả, vì đói và mỏi mệt cứ mỗi một miếng vị ấy nếm được là vị ngọt thuần nhứt, mỗi một miếng thì vị ấy thưởng thức thì càng lúc càng thích thú hơn, càng thấy người khỏe hơn, khinh an hơn.

Như vậy khi chúng ta tu đúng, thực hiện đúng thì mới giống người đang đói lả thấy được vị ngọt thuần nhứt của giới luật và khi chúng ta càng thực hiện giới luật thì càng cảm thấy khỏe hơn, khinh an hơn.

Ở đây không phải nói về sự khinh an của thiền định, mà chỉ muốn nói mỗi giới luật được chúng ta chấp hành nghiêm chỉnh thì cũng giống như người đói mệt lả mà ăn được bánh ngon ngọt, mỗi miếng đều mang lại sự khỏe khoắn, thích thú, thấy nguồn sống của cơ thể dồi dào thêm. Còn nếu chúng ta áp dụng, thực hiện sai thì thấy ngán quá, ớn quá.

Vậy muốn cho giới luật Patimokkha đạt được vị ngọt như bánh mật thì phải làm sao? - Phải đặt niệm trước mặt đừng cho thất niệm. Niệm nào? Niệm khắc khổ của giới luật rồi dùng pháp hướng để tu tập. Cứ mỗi phần suy tư đến ý nghĩa của pháp môn càng lúc càng thâm sâu thì lậu hoặc càng vơi đi. Mỗi lần quán xét thấm lí vô thường của các pháp, của thực phẩm, vị ấy thưởng thức sự hoan hỉ hân hoan nơi tâm hồn; cứ mỗi lần quán xét đúng lí vô lậu thì vị ấy được thưởng thức thoái mái, tâm trí an lạc vô cùng.

Khi chúng ta học được cái gì rồi thì phải chuẩn bị cho mình tư tưởng thật vững chắc thì mới dám làm, bằng không thì e sợ, không dám làm. Cho nên trước khi lên Hòn Sơn, Thầy đã chuẩn bị tinh thần ở một mình trên đó trong mọi hoàn cảnh, phải xem như mình đã chết mới sống như vậy được. Vậy cho nên khi học qua giới bổn thì phải coi thân của chúng ta như chỉ mành treo chuông thì chúng ta mới đạt được. Và Thầy còn trang bị cho quý thầy cái niệm để đặt trước mặt để quán xét. Như vậy quý thầy biết là Thầy đã chuẩn bị cho quý thầy rốt ráo hết mọi mặt, tu được hay không là do quý thầy chứ không phải do Thầy nữa.

Ở kinh Trung bộ có bài kinh Khu Rừng, đức Phật khuyên chúng ta hãy chọn chỗ tu cho đúng, nghĩa là chỗ nào nên ở tu, chỗ nào không nên ở tu, chứ không phải nghe Thầy giảng rồi về chỗ nào cũng ngồi tu, thì không đúng. Đây là bài kinh đức Phật khuyên cho những người đã học xong những con đường tu tập của đạo Phật nên chọn. Thay vì bài kinh này dành cho sau khi giáo án này được dạy xong nhưng vì có trường hợp đã xãy ra khiến tâm của quý thầy bị giao động nên Thầy phải nói trước để quý thầy chuẩn bị tinh thần.

Lời đức Phật nói như vầy:

"Này các thầy tỳ kheo, tỳ kheo sống tại một khu rừng nào để tu tập mà các niệm chưa được an trú lại không được an trú, tâm tư chưa được định tỉnh lại không được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống người xuất gia cần phải sắm đủ như y phục, đồ ăn khất thực, sàn tọa, bát, y dược trị bịnh, những vật dụng này kiếm được khó khăn (nghĩa là chỗ đó tu hành tâm không được an ổn, không diệt trừ được các lậu hoặc mà đồ ăn khất thực, y áo sàng tọa kiếm khó khăn.), đức Phật khuyên: “Này các thầy tỳ kheo, các thầy cần suy nghĩ: Ta sống tại khu rừng này đời sống khó khăn quá và sự tu hành không có kết quả, ta phải từ bỏ không được ở lại ngay lúc ban ngày cũng như ban đêm, phải đi liền không để mất thời gian vô ích (nghĩa là bất kỳ chỗ nào mình đang ở như tại chùa, khu rừng, am thất... sau một vài ngày tâm không được an, các lậu hoặc không được đoạn trừ, các vật dụng cho tu sĩ khó khăn kiếm được thì phải rời đi, không nên ở lại dù đêm hay ngày).

"Này các thầy tỳ kheo, tỳ kheo sống tại một khu rừng nào để tu tập nếu các niệm chưa được an trú lại không được an trú, tâm tư chưa được định tỉnh không được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà người xuất gia cần phải có được đầy đủ như y phục, đồ ăn khất thực, sàn tọa, bát, y dược trị bịnh, những vật dụng này kiếm được một cách rất dễ dàng. Vị tỳ kheo đó cần suy nghĩ không phải vì y phục, không phải vì đồ ăn khất thực, không phải vì sàn tọa, bát, không phải vì y dược trị bịnh, mà ta xuất gia từ bỏ gia đình sống không nhà cửa, nhưng trong khi ta ở tại đây mà các niệm an trú chưa được an trú, các triền phược chưa được chấm dứt không được chấm dứt, vô thượng an ổn chưa được chứng đạt không được chứng đạt. Này các tỳ kheo, các thầy hãy từ bỏ nơi này, không được ở lại". (nghĩa là ở nơi đó có đủ các vật dụng cho người xuất gia nhưng cứ vài bữa bị động không tu được thì phải từ bỏ nơi đó. Hiện giờ chùa nào ăn uống đầy đủ, chùa to lớn, phòng ốc tiện nghi hiện đại thì quý thầy tập trung lại ở đông đảo. Những nơi đó đức Phật khuyên chúng ta không nên ở, các lậu hoặc trói buộc tâm nhiều, như vậy đức Phật đã biết nơi nào tu được, nơi nào không tu được).

"Này các tỳ kheo, tỳ kheo sống tại một khu rừng nào để tu tập nếu các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tỉnh được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà người xuất gia cần phải có được đầy đủ như y phục, đồ ăn khất thực, sàn tọa, bát, y dược trị bịnh, những vật dụng này kiếm được rất khó khăn (nghĩa là ở nơi đó tu hành tâm mình được như vậy mà các vật dụng cần thiết cho đời sống kiếm được rất khó khăn). Này các tỳ kheo, các thầy cần phải suy nghĩ như sau: Những vật dụng này kiếm được một cách rất khó khăn, nhưng không phải vì y phục, không phải vì món ăn, không phải vì sàn tọa, y bát, không phải y dược trị bịnh mà ta xuất gia từ bỏ gia đình sống không nhà cửa, nhưng trong khi ta ở tại đây mà các niệm an trú chưa được an trú được an trú, các triền phược chưa được chấm dứt được chấm dứt, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, này các tỳ kheo, các thầy nên ở lại nơi này, không được bỏ đi".

"Này các tỳ kheo, tỳ kheo sống tại một khu rừng nào để tu tập nếu các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tỉnh được định tỉnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà người xuất gia cần phải có được đầy đủ như y phục, đồ ăn khất thực, sàn tọa, bát, y dược trị bịnh, những vật dụng này kiếm được không khó khăn.  Này các thầy tỳ kheo, các thầy  cần suy nghĩ như sau: đây là chỗ lý tưởng tu hành, phải ở lại cho đến trọn đời, không được rời bỏ.”

Thầy nhắc thêm phần này nữa: Đặc tướng rất quan trong khi tu tập vì vậy khi chúng ta tu một mình, chúng ta không đủ kinh nghiệm để xét đặc tướng của chính mình cho nên có một vị thầy có kinh nghiệm theo dõi đặc tướng và giúp mình tu tập thì rất dễ.

Thầy nói tiếp bài kinh này trong phần nói về người thầy. Khi đã chọn được chỗ ở rồi thì chúng ta phải chọn vị thầy, người đó phải có những kinh nghiệm của bản thân trong tu tập và người đó cũng có kinh nghiệm xét được đặc tướng của mọi con người mà tùy theo đó giúp cho người đệ tử đạt đến cứu cánh giải thoát theo đường lối của đạo Phật bởi vì đức Phật đã nhận thấy con người có những đặc tướng riêng cho nên không thể gom chung vào một pháp tu tập. Tuy rằng pháp thì chung nhưng phần thực hành phải tùy theo đặc tướng của từng người, vì vậy mà Phật nói thiện xảo và khéo tác ý nghĩa là phải tùy theo từng người chứ không phải ai cũng theo một câu tác ý, vì câu tác ý có hiệu quả với người này mà không có hiệu quả với người khác. Cũng như tên đó gọi cho tâm của người này thì có hiệu quả mà gọi cho tâm của người kia thì không hiệu quả. Vì sự sai khác này mà không thể câu tác ý, câu trạch pháp đặt thành một công thức cố định, mà phải thay đổi ngắn dài.

"Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống gần một người nào. (nghĩa là khi tới chỗ nào để tu tập là phải tìm ở đó có vị thầy cho mình theo vị đó tu tập chứ không phải mình muốn tu theo mình.) Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưađược chứng đạt được chứng đạt không được chứng đạt. Nhưng những vật dụng này cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y dược trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt. Nhưng những vật dụng này cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, y dược trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách không khó khăn. Nhưng không phải vì y phục mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, không phải vì đồ ăn khất thực mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, không phải vì sàng tọa mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, không phải vì dược phẩm trị bệnh mà ta xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Và khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú không được an trú, tâm tư chưa được định tĩnh không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ không được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt không được chứng đạt". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, chỉ với ước tính này, cần phải bỏ người ấy mà đi, không có xin phép, không có theo sát".

"Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm không định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị người bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, và vô thượng an ổn, khỏi ách phược chưa được thành đạt được thành đạt. Và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách khó khăn". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi".

"Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống gần một người nào. Tỷ-kheo sống gần người ấy, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm không định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt, và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một người xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị người bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách dễ dàng. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy tư như sau: "Ta sống gần người này. Khi ta sống gần người này, các niệm chưa được an trú được an trú, tâm chưa được định tĩnh được định tĩnh, các lậu hoặc chưa được hoàn toàn đoạn trừ được hoàn toàn đoạn trừ, và vô thượng an ổn, khỏi ách phược chưa được thành đạt được thành đạt. Và những vật dụng cần thiết cho đời sống mà một vị xuất gia cần phải sắm đủ, như y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, những vật dụng này kiếm được một cách dễ dàng". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi, dầu cho có bị xua đuổi."

Trong bài kinh này đức Phật dạy chúng ta thứ nhất là tìm nơi và thứ hai là phải tìm bậc thầy xứng đáng. Khi đã có nơi và vị thầy xứng đáng rồi thì không được rời dù có bị xua đuổi thì con đường giải thoát của chúng ta mới có thể đạt thành đến nơi đến chốn.

Đến đây Thầy nhắc lại vài mẫu chuyện gương hạnh cho chúng ta noi theo, giúp cho phần tu tập của chúng ta.

1.- Ngài Ràdhalà một Bà la môn lớn tuổi ngài không làm hết bổn phận của mình đối với một Bà la môn nên không được các Bà la môn khác chấp nhận. Ngài đi đến đức Thế Tôn và nói lên những ước muốn của ngài. Bậc đạo sư nhận xét thấy ngài có những điều kiện căn bản nên bảo ông Sariputta chấp nhận cho ngài xuất gia và dạy cho ngài khôn khéo tự huấn luyện tâm của mình, chế ngự các dục của mình khi nó sanh khởi. Hiểu được lời dạy của Phật, ông dùng thiền quán định vô lậu, chánh niệm tỉnh giác và định sáng suốt. Nhờ thế mà ông khéo huấn luyện tâm, chế ngự các dục; không bao lâu ông chứng quả A la hán. Sau đó ngài làm bài kệ nói lên kinh nghiệm tu hành của mình. Như vậy ngài không tu định niệm hơi thở mà vẫn thành tựu.

Như mái nhà vụng lợp,
Mưa dễ thấm ướt vào
Cũng vậy tâm vụng tu
Tham ái được xâm nhập

Hằng ngày chúng ta hằng sống phải làm sao như mái nhà khéo lợp, chứ vụng lợp thì mưa xuống thì bị dột; lậu hoặc cũng vậy, tâm không khéo tu tập thì sẽ bị tham ái thấm vào. Như ngồi tu mà để tâm nhớ nhà, nghĩ ngợi lung tung thì cũng như mái nhà vụng lợp. Mái nhà lợp kỹ là ba định tu liên tục không có kẽ hở thì làm sao tham ái xen vào.

Như mái nhà khéo lợp
Mưa không thể thấm vào
Cũng vậy tâm khéo tu
Tham ái không xâm nhập

Tham ái không xâm nhập một thời gian hai ba năm thì thành tựu giải thoát. Chúng ta tu làm sao cho không có kẽ hở giữa các pháp một thời gian, đó là cách khéo huấn luyện tâm. Nếu chúng ta để có kẽ hở là giống như nhà vụng lợp thì làm sao chứng đạo quả được.

2.- Bên ni cũng có 500 vị Patàcàrà (Liên Hoa)cho chúng ta gương tu tập. Có 500 cô gái lấy chồng có con, sống lo việc bếp nước trong gia đình, chúng đều chịu sự đau khổ khi con của chúng bị chết, rồi chúng đến tỳ kheo ni Patàcàrà(Liên Hoa Sắc), đãnh lễ và kể nổi đau khổ của mình. Bà tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc khuyên lơn an ủi làm cho 500 cô Liên Hoa vơi hết sự đau khổ bằng bài kệ sau cũng là pháp hướng để các cô này dùng bài pháp này tu tập:

Người không biết con đường (là con đường nhân quả)
Nó đến hay nó đi
Từ đâu con ta đến
Người lại khóc con tôi
(con của mình là ai, từ đâu nó đến, sao lại khóc con mà không biết nó là ai. Đâu biết được đường đi nhân quả của nó)

Người đâu biết con đường
Nó đến hay nó đi
Người khóc nó làm gì
Pháp hữu tình là vậy

Nó đến hay đi là các pháp hữu tình, do duyên nợ nhân quả, nó vay nợ nó đến đòi mà bây giờ lại khóc nó là khóc làm sao. Tại vì mình mê muội nên giành nó là của mình nên thấy nó chết mình khóc, còn nếu mình đừng giành, nó là của ai khác, thì nó đến hay đi thì kệ nó. Giả như có người lạ vào nhà mình rồi họ đi ra thì mình đâu thương tiếc gì mà khóc. Họ là người lạ tới nhà mình rồi đi chứ đâu làm gì, thì can dự gì mà khóc mà buồn. Thấy như vậy là thấy nẽo của nhân quả luân hồi, bằng không thấy nhân quả như vậy mới khóc.

Không có ai yêu cầu
Từ chỗ kia nó đến.
Không có ai cho phép
Từ chỗ nọ, nó đi.

(nghĩa là mình đâu cho phép nó chết, tức đi. Nó muốn chết, muốn đi thì tự nó chứ có ai cho phép nó. Chưa hiểu nhân quả thì đau khổ lắm, cho nên ông Ananda nghe Phật chết thì khóc lóc thảm thiết là vì ông Ananda chưa hiểu nhân quả, mặc dù thông kinh sách.)

Từ chỗ này nó đi
Từ đâu nó đi đến
Được sống bấy nhiêu ngày(được sống bao nhiêu ngày thì hay bấy nhiêu) 
Từ chỗ này nó đến
Từ chỗ kia nó đi
Nó đến một con đường
Nó đi một con đường 
(nhưng con đường đến và con đương đi chỉ là con đường nhân quả).
Mạng chung hình sắc người
Luân hồi nó sẽ đi
Đến vậy đi như kia
Ở đây sắc thân diệt.

(Bà Liên Hoa Sắc đã từng khóc hai đứa con chết, khóc cha mẹ chết, khóc em trai chết trong cùng một ngày, sau khi theo đạo Phật mới thấu rõ được lí nhân quả cho nên bà mới viết bài kệ thấm thía vì người đang sống trong cảnh đau khổ đó mới hiểu đượcc nhân quả, người tu chứng được thấy rõ nhân quả còn khi chưa chứng được thì bị mờ mịt trong sự đau khổ. Sau khi nghe xong bài kệ, 500 Liên Hoa Sắc cảm thấy tâm hồn giao động liền xuất gia dưới sự lãnh đạo của bà Liên Hoa Sắc tỳ kheo ni. Sau khi xuất gia, 500 nàng với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ nơi bà Liên Hoa Sắc tỳ kheo ni, các nàng triển khai thiền quán tùy pháp, hướng pháp chẳng bao lâu chứng quả A la hán).

Pháp tín thọ sau khi nghe bài kệ của bà Liên Hoa Sắc, các cô thấy rõ đường đi nhân quả cho nên các cô tin sâu, không còn lờ mờ cho nên các cô cắt hết mọi trói buộc nhân quả. Nghĩa tín thọ làm cho các cô rất tin tưởng trong thâm tâm cho nên cắt hết mọi tình cảm. Pháp tín thọ, nghĩa tín thọ là cắt đức hết mọi dây mơ rể má trong lộ trình thứ nhất của người cư sĩ. Làm được như các cô này mới là pháp tín thọ nghĩa tín thọ. Các cô nghe bài kệ của bà tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc thì tin tưởng hoàn toàn, thể hiện pháp tín thọ nghĩa tín thọ bằng sự dẹp hết, đoạn dứt hết các ràng buộc thế gian và thực hiện thiền quán nên chứng quả A la hán nhanh chóng. Sau khi chứng quả, các nàng làm kệ:

Tuy tên khó thấy được (các cô nói nhân quả là mũi tên khó thấy)
Từ tim ta nhỗ lên
Ta diệt sầu vì con
Sầu ấy ám ảnh ta
Nay cây tên được nhỗ,
Không ham muốn tịch tịnh
Không thương ghét một ai
Ta quy y ẩn sĩ
Phật pháp và chúng tăng

Mũi tên chỉ cho lộ trình thứ nhất, không nhỗ mũi tên này thì không tu hành trong lộ trình thứ hai. Cho nên bài kệ quá thấm thía cho cuộc đời tu hành của chúng ta.

Sắp tới đây, Thầy sẽ giảng về quy y Tam Bảo. Quy y Tam Bảo là quy y ba giới đầu tiên, chứ không phải 250 giới hay 358 giới, hay 5 giới, 10 giới. Từ ba giới gốc này chúng ta mới phăng ra các giới khác. Quy y Tam Bảo là nương theo ba giới hạnh để tu hành, ba giới hạnh này là Phật hạnh, Pháp hạnh và Tăng hạnh. Nếu không có những gương hạnh này thì lấy ai làm gương cho mình tu.

Giới luật là một bộ môn đạo đức của người tu sĩ đạo Phật. Vì thế trong quá trình phát triển từ lúc sơ khởi đến bây giờ cho chúng ta nhận xét giá trị sứ mạng của nó về tinh thần cũng như về mỗi hành động đạo đức chơn thật mà người tu sĩ không thể thiếu được.

Nhờ nhìn vào giới luật chung, chúng ta có thể xác định được triển vọng tương lai của Phật giáo ở ngày mai. Nếu bộ môn giới luật này không được các vị tu sĩ thực hiện thì Phật giáo ở ngày mai đen tối.

Pháp luật của một quốc gia đối với người dân tuân giữ pháp luật vốn chẳng có tác dụng. Vì muốn bảo vệ an toàn và lợi ích cho những người dân tuân giữ pháp luật nên cần phải có pháp luật. Pháp luật cần phải được thiết lập vì trật tự an ninh của xã hội và cuộc sống của con người. Ví dụ một người dân tuân giữ pháp luật thì pháp luật không có tác dụng, nhưng do những người dân không giữ được pháp luật, làm mất trật tự an ninh, cho nên pháp luật mới ra đời để ngăn chặn và trừng trị những người phạm pháp luật, đem lại an ninh cho những người tuân giữ pháp luật.

Trong đạo Phật, đức Phật chế định giới luật không phải là bắt buộc các đệ tử của mình, mà chế định giới luật để đưa các đệ tử của mình đến chỗ giải thoát. Chính vì con đường giải thoát của các cư sĩ và tu sĩ, mà cũng là phương thuốc ngăn ngừa hư đốn của tăng đoàn cho nên giới luật ra đời để ngăn ngừa những người hư đốn này phạm phải sai lầm.

Quý thầy có hiểu như vậy mới thấy giới bổn không phải khô cằn cổi, không phải bắt buộc ai phải tuân giữ giới luật. Giới luật của đức Phật là con đường giải thoát, không làm khổ ai hết, không trói buộc ai cả. Tu sĩ nếu không có giới luật làm tiêu chuẩn pháp tắc cho sự sinh hoạt tu tập hằng ngày để liễu sanh thoát tử thì không dễ dàng đâu. Nghĩa là nếu không có giới luật thì đi tìm liễu sanh thoát tử không có dễ dàng.

Tăng đoàn mà không có giới luật làm cương lĩnh thống nhất giáo hóa thì tiền đồ của Phật giáo không những tan rả mà tu sĩ Phật giào sống trong đen tối, chẳng biết đường lối tu tập. Chính vì thế mà khi đức Phật sắp nhập niết bàn, Ngài di chúc lại lời dạy cuối cùng "Các thầy tỳ kheo hãy lấy giới luật ta mà làm thầy".

Giới luật của đức Phật từ ngày đặt ra đến nay không bị thay đổi, cho nên ngài Kassapa khi kết tập giới luật, không cho bỏ giới nào cũng không cho thêm vào giới nào. Khi ngài Kassapa tuyên bố như vậy thì Thầy nghĩ đó là giới gốc cây, chứ không phải giới của Phật. Giới luật của Phật linh động, khéo léo mà cũng không thêm không bớt điều nào hết, bởi vì đức Phật đã di chúc cho chúng ta hẳn hòi: "Các thầy tỳ kheo hãy lấy giới luật ta mà làm thầy" thì giới luật đâu có thể thêm bớt gì được. Nếu bớt thì đức Phật đã bớt trong khi Ngài còn sống. Về sau các tổ thấy giới luật gò bó quá mới bớt ra để sống theo dục lạc cho dễ thở.

Phàm quy định một sự câu thúc nào khiến cho người ta đạt đến cảnh giới cao nhất, cho có yên vui thích thú hơn. Song chưa chắc sự hướng thượng nào cũng giúp cho mọi người tiến bước một cách dễ dàng. Hẳn nhiên là có một cảnh giới tốt đẹp đang chờ đợi mọi người, nhưng trước khi đến đó, ta phải trả một giá có khi rất đắt là sự gian nan cay đắng. Hãy xem người trượt tuyết từ trên cao trượt xuống thấp mau chóng dễ dàng tuy có khi mất mạng ngay tại chỗ có cái nguy hiểm. Còn hướng lên cao tuy có được cảnh giới an vui, xinh đẹp, hạnh phúc nhưng trước tiên phải chịu gian nan, thử thách.

Vì thế, hướng thượng ai cũng ước ao mong muốn nhưng mấy ai đạt được mục đích. Quý thầy thấy giới luật của Phật giúp ta hướng thượng nhưng khi hướng thượng thì chúng ta phải vượt qua các gian nan thử thách của nó, chứ đổ dốc theo dục lạc của đời thì có gì khó. Còn khi chúng ta đi ngược trở lên thì mới thấy cái khó khăn của nó, do đó chúng ta cần có giới luật của Phật mới đi lên được. Chúng ta thấy rõ người tu sĩ Phật giáo hiện giờ đang trượt xuống chứ không phải đi lên, cho nên chúng ta muốn đi lên thì phải khép chặt mình trong giới luật, giới bổn của Phật. Nhưng có người hướng thượng họ chịu khó gian nan vất vả khi đi lên được, người ta thấy được hạnh phúc thật sự trong giới luật của Phật.

Sau ngày Phật diệt độ, trong chúng tỳ kheo có vị tỳ kheo tên Bạt Nan Đà cảm thấy vô cùng thích thú khi hay tin Phật diệt độ, ông ấy nói với mọi người "Lão già ấy chết đi là tốt. Lúc còn sống chế điều này phải làm. điều kia không nên làm. Nhất là hay nói về ăn, về ngủ, về độc cư, sống trong trầm lặng. Sống theo lão thật là buồn chán, chẳng có gì là thích thú của người tu hành. Lão ấy chết rồi, chúng ta được tự do". Như vậy đủ thấy ngay trong thời đức Phật một số tỳ kheo không thích thú gì với giới luật của Phật, không thích thú gì với lối sống tu theo đạo Phật. Lời nói của Bạt Nan Đà truyền tới tai tôn giả Kassapa, Ngài cảm thấy rất đau buồn cho Phật, cho đạo Phật ngày mai. Nếu quả như vậy thì tinh thần và công đức cứu thế của Phật giáo kết thúc theo sự nhập diệt của đức Phật sao.

Chúng ta nhìn Phật giáo hiện giờ theo đà xuống dốc. Tuy Phật giáo còn nhưng chỉ hình thức thôi, về nội dung tinh thần giải thoát của đạo Phật thì không còn có nữa. Tuy lời của ngài Kassapa ngày xưa là một nghi vấn, nhưng nay là sự thật trong thời đại chúng ta, của những người bất hạnh không được gặp đức Phật hiện tiền. Chúng ta không gặp Phật mà chỉ gặp Pháp của Phật, gặp giới luật của Phật.Nhưngtrong đà đi xuống của đạo Phật làm chúng ta mất lối không biết đâu để đi lên hướng thượng, để chúng ta tìm thấy sự giải thoát chân thật, để thoát ra cảnh khổ của cuộc đời mà mỗi con người đều đau khổ như nhau, không khác.

Nhớ lại lời dạy sau cùng của đức Phật "Này các thầy tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, các thầy hãy nên tôn trọng và cung kính giới bổn Patimokkha như là một vị thầy của các ông. Giới luật là ánh sánh giúp cho các ông đi trong đêm tối. Giới luật là tài sản, của báu mà các ông là những người nghèo khổ được nó. Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất, các ông hãy cố gắng giữ gìn". Nương lời di chúc "giới luật còn là đạo Phật còn, giới luật mất là đạo Phật mất" tôn giả Kassapa triệu tập các vị đại đệ tử đương thời của đức Phật kết tập luật tạng. Các vị này đều về đủ mặt trong đám tang, đó là dịp may, khỏi phải đi tìm các vị này vì các vị đại đệ tử của Phật thường du hóa ở phương xa. Các ngài đều thấy rõ mạng mạch đạo Phật còn là do còn kinh tạng và giới luật, cho nên các ngài tập trung lại để kết tập đúng theo lời di chúc của đức Phật "giới luật là thầy của các vị tỳ kheo sau này. Nếu không kết tập thì lấy cái gì làm thầy.

Nếu đức Phật chỉ định vị nào làm thầy thì khỏi kết tập, đằng này đức Phật chỉ định giới luật làm thầy cho nên các vị phải tập trung nhau để kết tập luật thành khuôn vàng thước ngọc, thành văn bản rõ ràng để các vị tỳ kheo về sau nương theo đó mà tu tập giải thoát. Cho nên chúng ta đánh giá cao sự tối cần thiết của việc kết tập này đúng với di chúc của đức Phật trước khi ngài thị tịch không bao lâu. Đó là lần kết tập kinh luật thứ nhất tại hang Thất Liệp sau khi đức Phật nhập diệt, với sự tham gia của 500 vị Alahán, ngay sau khi tôn giả Ananda tụng xong kinh tạng, kế tôn giả Upali tụng luật tạng.  Đại chúng tham dự buổi kết tập này ấn chứng và thông qua, không thêm bớt điều nào, do thế tạng kinh và tạng luật đầu tiên được tuyên bố là hoàn thành.

Theo một giả thuyết, người ta cho sự kết tập kinh luật này của thời ấy không ghi chép lại thống nhất bằng văn bản, mà chỉ do miệng tụng tâm ghi nhớ thôi. Nhưng theo ý của Thầy "không hiểu đơn giản như vậy. Khi kết tập là có viết thành văn tự, không chỉ đọc suông để ghi nhớ; vả lại lúc bấy giờ kết tập kinh luật là một điều quan trọng của Phật giáo, không thể các ngài sơ sót như vậy được, các ngài là những bậc thánh tăng, đại đệ tử của đức Phật, làm việc này với thánh trí để duy trì kinh luật của Phật giáo, cho nên sau khi Phật nhập diệt trong khi chúng tăng còn đông đủ, lợi dụng sự có mặt của các bậc thánh tăng, ngài Kassapa mời chư tăng ở lại kết tập đều là những vị thượng thủ của Phật giáo đương thời, chứ không như ý kiến của Thánh Nhiên(người viết bộ luật về sau) phỏng đoán rằng lần kết tập đầu tiên này có một số tỳ kheo trưởng lão không nhận lời mời tham gia kết tập kinh luật của trưởng lão Kassapa và kinh luật không được viết thành văn bản. Đó là điều phỏng đoán sai, kiến giải sai.  Phải chi trong thời đó không có chữ viết thì thôi, đằng này có chữ viết dùng viết ba bộ kinh vệ đà thì có lí nào các vị thánh tăng lại không biết chữ.

Chỗ này chúng ta phải hiểu các bậc thánh tăng trong kỳ kết tập thứ nhất đều thấy bổn phận của mình đối với Phật giáo. Phật giáo còn hay mất là ở chỗ kết tập kinh luật này cho nên các vị không thể nào từ chối việc kết tập được, không thể thiếu vắng một vị Alahán nào ngoại trừ vị ấy đã nhập diệt, hay các đệ tử chưa chứng Alahán của các trưởng lão, họ không tham dự có thể có, hoặc các vị không trực tiếp nghe lời dạy của đức Phật thì được (chỉ học đạo với vị đạo sư riêng của mình), còn những bậc đã trực tiếp nghe lời dạy của đức Phật để tu chứng Alahán thì chắc chắn phải thấy bổn phận của mình là phải tham dự, cho dù vị đó đang ở xa bao nhiêu cũng phải về hay đang làm việc gì cũng phải ngưng."

Khi đức Phật còn tại thế, giới luật rất nghiêm chỉnh, các tỳ kheo không vi phạm, nhưng sau khi Phật nhập diệt 100 năm các vị đệ tử lớn đều lần lượt nhập diệt hết thì giới luật không còn ai chăm sóc kỹ lưỡng, nên các tỳ kheo lần lần dễ duôi đối với giới luật, do vậy giới luật bị thay đổi lần theo cuộc sống tu hành của môi trường các hoàn cảnh, do thế các tu sĩ không còn giữ giới luật nghiêm chỉnh nữa. Khi giới luật bị thay đổi không còn nghiêm chỉnh duy trì nữa thì 37 phẩm trợ đạo để tu hành của đạo Phật cũng không có hiệu quả. Nói giới luật tức là nói giáo pháp của đức Phật. 37 phẩm trợ đạo chỉ giúp cho người tu tập có hiệu quả khi vị tu sĩ trì nghiêm chỉnh giới luật, nói cách khác là 37 phẩm trợ đạo của đạo Phật nhằm phát triển thiện pháp, chấm dứt các ác pháp.

Khi tu sĩ không nghiêm trì giới luật thì tất cả các pháp môn cũng đều có sự thay đổi. Thí dụ Phật dạy Như Lí Tác Ý là pháp hành thì họ không biết gì hết về Như Lí Tác Ý, cũng như họ không biết về tùy pháp, quán pháp, ức chế pháp hay tịnh chỉ pháp... thì đó là sự thay đổi của họ cho nên họ gọi là Phật Giáo Phát Triển, ngay cả li dục li bất thiện pháp họ cũng không biết cách nào để li dục li bất thiện pháp vì các pháp này là giới luật, mà giới luật là phải dùng các pháp hành nào để thực hiện giới luật.

Chúng ta thấy trong kinh Tứ Niệm Xứ, Phật dạy "Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu ở đời". Tham ưu là các ác pháp trong đời, trong tâm của chúng ta, thì đây là giới hành của Phật pháp để chấm dứt các ác pháp, nên người nghiêm trì giới luật thì 37 phẩm trợ đạo là pháp tối thượng để giải thoát, còn những người phạm giới phá giới thì chỉ xem là pháp môn tiểu thừa, nghĩa là họ xem 37 phẩm trợ đạo nằm trong các pháp môn của Tiểu Thừa. Họ đã phá giới thì làm sao giải thoát được cho nên 37 phẩm trợ đạo trở nên là các pháp của tiểu thừa chứ làm sao là đại thừa được.

37 phẩm trợ đạo đã thuộc tiểu thừa cho nên họ không còn pháp để tu, do vậy họ phải phát triển, mà càng phát triển bao nhiêu thì càng phá giới luật bấy nhiêu, rồi họ phát triển các pháp môn tu tập, không còn các pháp môn tu tập như đức Phật dạy trong kinh nguyên thủy, nghĩa là bây giờ họ tu tập theo kiểu mới, họ niệm Phật để cho tâm được nhất tâm, hoặc họ giữ tâm bằng cách này hay cách khác cho tâm không có vọng tưởng, như trong kinh Kim Cang dạy "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" giữ tâm không cho trụ ở chỗ nào để Phật Tánh sinh ra. Đó là những cái phát triển mới. Đạo Phật nguyên thủy muốn giữ cho tâm thanh tịnh giải thoát thì phải li dục li bất thiện pháp. Hai pháp khác xa nhau, tu không giống nhau.

Họ phát triển đi dần dần đến chỗ xa lạ với đạo Phật nguyên thủy, với 37 phẩm trợ đạo. Vì không có bậc tu chứng nên chư tăng dựa vào kinh sách nguyên thủy rồi kiến giải theo kiến thức riêng tư của mình nên bất đồng với mọi kiến giải của người khác. Từ những kiến giải bất đồng và phi phạm hạnh nên đưa đến kết quả phân chia bộ phái. Đó là sự việc xẩy ra từ 100 năm đến 300 năm sau khi Phật nhập diệt.

Sau khi Phật diệt độ, 100 năm sau có cuộc kết tập lần thứ hai tại Vệ Xá Ly. Cuộc kết tập này không có nghĩa kết tập kinh luật mà chỉ nhằm giải quyết sự phân chia bộ phái. Kết quả kỳ này chỉ là thành lập giới luật của các bộ phái riêng tư. Lần kết tập này chỉ giải quyết sự bất đồng của chư tăng do mỗi người một ý kiến riêng tư trong giáo lí nguyên thủy mà thành lập những bộ phái nên có 20 bộ luật. Một lần nữa chúng tăng lại cách xa giới luật của Phật, thêm bớt và sửa lại rất nhiều, và người ta đã dẹp bộ giới luật kết tập lần đầu tiên. Mỗi bộ phái có bộ luật riêng để lưu truyền trong bộ phái của mình. Thượng Tọa Bộ chiếm đa số luật tạng, còn Đại Chúng Bộ chỉ có một bộ luật thôi.

Theo kinh sách nói Thượng Tọa Bộ lưu truyền trong bộ phái của mình chiếm đa số về luật tạng, nghĩa là còn giữ một số luật nguyên chất của luật cũ trong giới luật của họ chứ không thay đổi nhiều, còn Đại Chúng Bộ chỉ có một bộ luật mà thôi, nhưng những bộ luật này là những bộ luật phá giới cho nên gần giống nhau, trong đó có Bồ Tát Giới phá sạch giới luật nguyên gốc.

Giáo pháp của đức Phật là tam vô lậu học giới định tuệ, là trung tâm thiện pháp của sự phát triển tu tập, đó là một giáo án ngắn gọn và cô đọng nhất. Ngay từ thời đức Phật còn tại thế, các vị đại đệ tử của ngài đều lấy tam vô lậu học làm cơ sở giới luật của mình tu tập. Nếu chẳng từ giới luật thì sự tiến tới con đường giải thoát trở thành vô vọng. Cho nên tất cả các đệ tử của đức Phật đều là những bậc trì giới nghiêm chỉnh, và người nghiêm chỉnh trong giới luật là ông Upali.

Chúng ta thử kiểm thảo lại xem giới luật là căn bản của Phật pháp tại sao người tu giới luật không cảm thấy hứng thú. Nguyên lai là người ta hiểu giới luật như là pháp luật trong quốc gia, người ta không hiểu giới luật trong đạo Phật là pháp môn toàn thiện đem lại sự giải thoát ích lợi lớn cho con người. Ở đây chúng ta phải hiểu giới luật của đức Phật chính là những pháp môn tu hành. Ngoài giới luật ra không có pháp môn tu hành nào khác riêng, cho nên 37 phẩm trợ đạo là làm cho thành tựu thiện pháp.

Giới bổn Patimokkha chẳng qua là oai nghi giới hạnh của người tu sĩ đạo Phật thể hiện qua giới hạnh trong giới kinh của đức Phật chớ không có gì mới mẻ và riêng biệt. Chỉ người sau không hiểu, biến giới luật thành bộ kinh giới riêng biệt với kinh điển của Phật.

Khi chúng ta xét 37 phẩm trợ đạo thì chúng ta biết nó là giới hành của giới luật của Phật, mà giới luật của Phật là thiện pháp, còn giới bổn chẳng qua là những oai nghi tế hạnh bổ túc cho 25 giới hạnh mà Thầy đã giảng trong giới kinh. Bởi 25 giới hạnh là tổng quát mà chi tiết chưa nói ra chỉ giới bổn thì có những chi tiết oai nghi tế hạnh đó. Chẳng hạn những hành động nhỏ nhặt của chúng ta mà còn tâm ham muốn, tâm vội vàng thì trong giới bổn mới nói tới để chỉ cho ta biết còn tâm dục chưa li, còn tâm ham muốn, còn tâm vội vả. Trong giới bổn chỉ rõ vi tế đó để bổ túc 25 giới hạnh trong kinh mà chúng ta đã học rồi. Như vậy giới bổn thực ra không quan trọng, nó không phải là thầy của chúng ta, nó chỉ thêm để oai nghi tế hạnh của chúng ta được sáng tỏ hơn giới hạnh mà thôi. Giới bổn đâu có giới đức, đâu nằm trong giới đức được, bởi giới bổn đâu nói về thiền định được, đâu nói giới tuệ được. Còn trong giới kinh có giới hạnh, giới đức, giới tuệ, một con đường toàn vẹn giới luật của Phật.

Có một vị Bà La Môn hỏi Phật ai là người sẽ thay Phật dẫn dắt chúng tăng. Phật trả lời một người có đủ 3 điều kiện sau: 1/ Người đó phải có hạnh lực, 2/ Phải có thần lực, 3/ Phải có huệ lực. Trong chúng đại đệ tử của đức Phật chỉ có những bậc đệ nhứt cái này hay đệ nhất cái kia, chứ không có ai bao gồm toàn bộ cả ba điều kiện trên. Chỉ có giới kinh là có đủ hết vì trong giới kinh có giới hạnh, giới đức, giới tuệ là đủ ba oai lực của một vị tu sĩ để lãnh đạo chúng tăng. Cho nên đức Phật không di chúc ai là người thừa kế Phật lãnh đạo chúng tăng. Chỉ có giới luật mới đủ ba oai lực trên thôi. Ông Kassapa thì chỉ có hạnh đầu đà, ông Sariputta có đại trí tuệ thôi, ông Moggallana có đại thần thông,... mỗi người chỉ có một góc độ thì làm sao tròn đủ cả ba oai lực trên để làm thầy của chúng tỳ kheo sau này.

Cho nên Thầy giảng để quý thầy biết giới bổn của Phật là giới luật nào. Còn giới bổn các nhà kết tập lại thì đó chỉ là chi tiết của giới hạnh thôi, chúng ta thấy 100 giới chúng học toàn là những chi tiết nhỏ nhặt của giới hạnh. Xét như vậy chúng ta mới thấy giới nào là giới làm thầy chúng ta chứ không phải chúng ta lấy giới luật như cây khô mà làm thầy. Giới bổn được xem như pháp luật trong một quốc gia, cho nên tu sĩ tu giới luật quá khó khăn và xem như mất tự do, bị giới luật ràng buộc. Thế nên kinh điển Đại thừa và Thiền tông phá vỡ giới luật của đạo Phật. Phá giới luật của đạo Phật tức là phá pháp môn tu hành của đạo Phật.

Người thuyết giảng giới luật gọi là giới sư, họ thuyết giảng khó khăn, khiến cho người tu theo giới luật không có đường giải thoát, toàn thấy cuộc sống rất khổ hạnh, đụng đâu cũng phạm phải lổi lầm, lổi lớn, lổi nhỏ, làm tâm hồn họ không được an vui. Do không hiểu giới luật nên người tu giới luật thành một pháp môn khắc khổ cằn cỗi.

Tại sao đệ tử của Phật được Ngài ca ngợi tán thán đệ nhất pháp môn này, đệ nhất pháp môn kia. Giới luật là một pháp môn có thấp có cao, có hạnh, có đức, có tuệ; nếu ai kiên trì ở chỗ nào làm gương hạnh tu tốt cho người khác thì đức Phật gọi người ấy là đệ nhất, như tôn giả Upali là người trì giới đệ nhất, nghĩa là ông giỏi về giới hạnh đệ nhất mà giới đức ông chưa giỏi, bởi vì ông chưa giỏi về thiền định, và giới tuệ ông cũng chưa giỏi cho nên ông chỉ có giới hạnh thôi, ông chỉ ở góc độ đó thôi, cho nên ông chưa xứng đáng làm thầy của mình sau này.

Tôn giả Sariputta giỏi nhất về tri kiến giải thoát thuộc phần thứ nhất giới tuệ,  đức Phật gọi ông là đệ nhất trí tuệ. Người ta nói khi tâm được định tỉnh rồi thì ở đó ông phát triển chánh kiến và tri kiến sáng suốt vô cùng cho nên đức Phật chưa nói mà ông giải thích được, đức Phật chưa bao giờ giảng bài pháp đó thế mà khi có người hỏi thì ông giải thích rõ, người đó đến hỏi đức Phật, Phật trả lời ta cũng nói như vậy thôi. Như vậy Sariputta phát triển giới tuệ ở mức độ đó chứ chưa phải toàn bộ giới tuệ vì trong giới tuệ có 33 giới cho nên đức Phật chỉ khen ông ở đó thôi chứ đâu khen ông toàn bộ được. Ông đâu phải là người làm thầy chúng ta được. Còn tôn giả Moggallana giỏi về giới tuệ thứ ba về thần thông một thân biến ra nhiều thân, nhưng về giới tuệ thứ nhất chánh kiến và tri kiến ông đâu có giỏi. Đức Phật nói sao thì ông nói lại vậy chứ đâu dám nói trật. Ông Anurudha thiên nhãn đệ nhất là giới tuệ thứ tư lục thông mà chỉ có thiên nhãn thôi chứ không có giỏi hết cả lục thông. Khi tu hành ta phải hiểu mỗi đặc tướng riêng của con người, cái sở trường của họ ở đó họ sẽ đạt tới đó là cao nhất, vì thế khi đức Phật gọi vị nào là đệ nhất thì vị đó đạt được đệ nhất sở trường của vị này, tức là cái thích thú nhất trong tu tập của vị này.

Như vậy trong các bậc thánh tăng chỉ giỏi nhất từng góc độ của giới tuệ. Vì thế đức Phật không di chúc một ông nào thay đức Phật làm thầy chúng tỳ kheo mà chỉ di chúc lấy giới luật làm thầy. Nếu có vị nào cái gì cũng đệ nhất hết thì vị đó mới xứng đáng làm thầy của chúng ta. Đức Phật chỉ giao cho người nào đầy đủ giới tuệ lãnh đạo Phật giáo chứ không giao cho người không đầy đủ. Trong thời của đức Phật, chúng ta không thấy có vị nào giỏi hết đồng đều toàn bộ giới hạnh, giới đức,giới tuệ. Như vậy chỉ có giới luật là giỏi đồng đều.

Chúng ta luôn nhớ lời nhắc nhở này của đức Phật "giới luật còn là đạo Phật còn, giới luật mất là đạo Phật mất", một người tu sĩ đạo Phật đọc câu này mà còn phạm giới thì chúng ta thấy rất đau khổ. Nếu một người tu sĩ đạo Phật mà phạm giới là vị đó đã làm mất Phật pháp rồi, đã hũy hoại Phật pháp rồi. Thế mà người tu sĩ đạo Phật sống sung sướng ở trong những phòng đầy vật dụng, ở trong những ngôi chùa to lớn, ngày ăn ba bữa thì không hiểu họ hiểu giới luật như thế nào. Nếu không phải là đệ tử xuất gia của Phật thì làm gì cũng được, nhưng khi đã là vị tỳ kheo mà nở lòng nào phá giới luật của Phật. Chúng ta phải luôn luôn nhớ lời di chúc "giới luật còn là đạo Phật còn, giới luật mất là đạo Phật mất".

Người lãnh đạo Phật giáo phải đủ 3 oai lực: hạnh lực thần lực và tuệ lực, như đức Phật ngày xưa. Chúng ta mới thấy giới luật của Phật rất là vi diệu. Thế mà chúng ta có ông thầy đầy đủ giới luật thì chúng ta quăng ông đó đi, rồi đặt 20 ông khác vào thì biết chọn ai làm thầy, ông nào cũng phá giới thì ai có thể làm thầy. Trên đường tu học trong thời đại của chúng ta tìm được ông thầy giới luật quá khó. Đời nay ít người thấu đạt giáo pháp này nên đem phân chia giáo pháp ra từng manh múm vụn vặt biến thành nhiều pháp môn mà mỗi pháp môn chẳng dẫn ai tu hành đến đâu cả. Tu sĩ lừng chừng ương ương dở dở, tu pháp môn nào chẳng ra pháp môn nào, giới luật nào chẳng ra giới luật nào, tu chẳng tới đâu, không làm được cái gì hết, chỉ có mồm mép. Tại sao vậy? Tại vì không còn người tu chứng pháp môn của đức Phật nữa. Trong đạo Phật chỉ có pháp môn từ thấp tới cao chứ không phải có nhiều pháp môn, như người mới tu thì phải bắt đầu tu gì rồi kế tu gì cho tới khi chứng đạt thì đó là một pháp môn chứ đâu phải nhiều pháp môn.

Không còn người tu chứng pháp môn của đức Phật nữa là vì người ta sống theo dục lạc thế gian mới chia chẻ pháp môn của Phật ra để mình tu theo sở thích. Tại vì loài người thiếu phước không đủ duyên với Phật pháp. Đạo Phật có đó nhưng không có chánh pháp, toàn là tà pháp, cho nên đạo Phật có hiện tiền trong nhân loại mà pháp môn thì bị chẻ vụn như những miếng giấy nhỏ bị vò nát, không còn dùng vào việc gì được cả. Họ lí luận kiểu này kiểu khác là để che đậy những lổi lầm tu sai phạm giới của họ. Sự tu của họ chỉ giống như nước sơn tốt đẹp bên ngoài mà bên trong là một khúc gỗ bị mối mọt đục khoét tan nát.

Nếu đem tất cả kinh sách luật ra đọc, ta thấy có sự sai biệt rất khác nhau. Có bộ thì yêu cầu duy trì giới luật, có bộ thì yêu cầu giảm bớt giới luật làm cho nhẹ nhàng. Nếu đọc giới luật mà cho bộ này phải, bộ kia phải, hoặc bộ này trái bộ kia trái thì người đọc sách luật là vô ích, không lợi ích cho đường tu mà bị ảnh hưởng của người xưa không hiểu giới luật của đạo Phật mà viết ra, họ xem giới luật của Phật như là bản hiến pháp của quốc gia chứ không phải là pháp môn tu hành của Phật nữa. Do thế giới bổn Patimokkha trở thành pháp chế, vì vậy tất cả các tu sĩ bị pháp chế gò bó khổ sở, khiến đời sống tu hành mất sự an lạc thanh thản. Cho nên chúng ta phải biết giới luật của Phật không phải là bản hiến pháp. Tất cả các bộ giới luật hiện hành trong các chùa, tu viện đều do các người không chứng giới pháp của Phật mà soạn hoặc viết ra rồi tự thêm tự bớt làm cho giới pháp mang đầy tính chất Khổng giáo, Lão giáo, và còn có tính chất thần quyền mê tín nữa.

Như trong giới luật có một vị hỏi ông thần hộ giới tôi giữ gìn giới luật như vậy tôi có còn phạm giới nào không? Ông thần hộ giới nói ông ăn cơm rồi không tráng nước bát nên còn hột bựa trong đó nên ông còn phạm giới. Mình là người tu mà hỏi thần. Đó là sự mê tín thần quyền rồi. Trong kinh giới có những chuyện mơ hồ như vậy.

Đơn giản, mọi người chỉ biết giới luật tối thiểu là 5 điều, tối đa là 348 giới. Đây chỉ là điều văn mà thôi. Một người học thuộc lòng điều văn thì chẳng thành chuyên gia giới luật, bởi vì trong mỗi điều giới có tướng, tánh, thể của nó, phần nhiều đều có sự phân biệt khai, vá, tùy, phạm. Mỗi điều giới đều có đẳng cấp khinh trọng cho nên đồng phạm một điều giới mà động cơ phương tiện phạm tội chẳng đồng, cho nên sự kết tội chẳng đồng; do thế phạm tội khinh, trọng mà phương thức sám hối chẳng đồng.

Giới luật của Phật giúp chúng ta xả tâm để li dục li bất thiện pháp để tiến tới con đường giải thoát hoàn toàn. Cho nên giới luật của Phật giúp tâm ta nhẹ nhàng thảnh thơi, giúp cho con người chúng ta mỗi ngày một giới luật thêm thì đó là một bước giải thoát trong tâm hồn. Như vậy mới gọi là giới luật của Phật, giới luật mới là ông thầy của mình, chứ có đâu đến với thầy mà bị đánh đập la mắng hoài thì  làm sao chịu được, bỏ đi còn hay hơn. Giới bổn hiện hành của Phật giáo đang dùng cũng giống như ông thầy nghiêm khắc này. Tuy nhiên trong giới bổn có những điều không ghi, nhưng điều gì làm trái với nguyên tắc Phật giáo đều coi là phạm giới. Nghĩa là trong giới bổn có những điều sơ sót không ghi, lại có những điều được ghi ra nhưng làm trái với Phật pháp.

Người nắm vận mạng giới pháp phải biết chỗ phạm giới, phải biết có những biện pháp nào để trừng trị sự phạm giới đó, người nắm vận mạng giới pháp phải rõ ràng những điều đó như chỉ trong lòng bàn tay, có vậy thì người đó mới được xem là người thông hiểu giới luật. Nghĩa là một vị tu sĩ Phật giáo muốn làm vị thầy hướng dẫn người ta thì phải rõ ràng được tất cả những tướng khinh, tướng trọng của giới luật, phải biết về sự phạm các giới đó và phải biết phương hướng sám hối khi phạm giới.

Cho nên sau khi Thầy tu hành xong rồi thì Thầy phải nghiên cứu giới luật rất nhiều. Mặc dù thầy Thanh Từ bảo Thầy đọc kinh sánh Đại thừa, Tiểu thừa nhưng phần nhiều Thầy chỉ nghiên cứu về giới luật. Bởi Thầy đã giữ gìn trọn vẹn giới luật suốt 10 năm trong thất cho nên Thầy biết giới luật giúp tu hành như thế nào, Thầy biết là Thầy đã đạt được pháp nào trong khi Thầy tu hành đều do nhờ giữ gìn giới luật. Cho nên khi ra thất, mặc dù thầy Thanh Từ bảo Thầy đọc sử và hành trạng của các vị tổ Trúc Lâm Việt Nam, các vị tổ thiền Trung Hoa, đọc lại kinh sách Đại thừa A Hàm, Nguyên thủy để giúp thầy Thanh Từ, nhưng Thầy dành hầu hết thì giờ đọc các bộ luật của Phật, Thầy nghiên cứu hết các bộ luật này vì Thầy biết con đường giải thoát của đạo Phật là giới luật chứ không phải ở các sách nhảm nhí của Thiền tông.

Thầy viết bộ sách Đường Về Xứ Phật, bộ sách này là lí luận của Thầy bác cái sai trong đạo Phật dựa vào giới luật chứ Thầy không thêm cái gì cả. Nhưng Thầy thấy không phù hợp nên Thầy bỏ như đống giấy loại và dẹp qua một bên. Không phù hợp là không phù hợp với thời đại này vì lúc đó đưa bộ sách Đường Về Xứ Phật ra thì đụng chạm với các bậc tôn túc, các bậc trong giáo hội của thời đại này (1995). Đạo Phật dạy không nên làm khổ người, mà người ta đang có kiến giải nghĩ cái đó đúng mà mình cho cái kiến giải đó sai là làm người ta đau khổ, mà người ta nhận là sai thì cũng làm đau khổ người ta, nên Thầy chỉ âm thầm tìm mọi cách làm sao chấn hưng được Phật pháp, làm sao cho người ta tự thấy cái đúng cái sai mà thôi.

Vì Thầy nghiên cứu kỹ giới luật nên thấy các người sau nghiên cứu và viết về giới luật chỉ nhẫm lại lối mòn của người trước, mà còn nhẫm trật nữa.

Người nghiên cứu giới luật của đạo Phật hiện giờ mà không thông hiểu giới luật cả Đại thừa và Tiểu thừa thì họ khiếm khuyết quá nhiều, nghĩa là họ không chịu nghiên cứu để kết hợp giới luật của Đại thừa và Tiểu thừa lại là một sự khiếm khuyết. Như các sư nguyên thủy chỉ nghiên cứu giới luật tiểu thừa của họ thôi, còn bên Đại thừa cũng vậy chỉ nghiên cứu 6 bộ luật của Đại thừa thôi, thì cả hai bên đều thiếu khuyết rất nhiều. Cho nên cần nghiên cứu cả hai bộ luật Đại và Tiểu thừa để xem các tổ giới luật đã đúng sai chỗ nào.

Thầy nương vào giới kinh để xét xem họ đúng hay sai, bởi khi tu hành rồi người ta thấy giới kinh rõ ràng lắm. Mặc dù trong kinh nguyên thủy có thêm bớt một hai bài kinh, nhưng giới kinh chỉ cho chúng ta thấy rất cụ thể rõ ràng vì trong giới kinh có đủ giới hạnh, giới đức, giới tuệ cho nên nó là bậc thầy của mình, mình lấy giới kinh làm chuẩn để xét qua kinh giới tức giới bổn của các bậc Tổ giới luật này đã viết sai hay đúng. Giới luật là thầy của mình mà giới bổn là giới luật mà viết sai như vậy thì có xứng đáng làm thầy mình không?

Quý thầy nên biết khi một người đã thành tựu sự giải thoát thì người này có sự thông minh kinh khủng lắm, không lường được trí tuệ thông minh người đó, cho nên người đónghiên cứu biết được cái sai cái đúng của giới luật.

Nếu có một người tu chứng như Thầy thì hình ảnh đức Phật Thích Ca không phải như chúng ta thấy bây giờ đâu, nghĩa là người tu chứng dẫn tâm về quá khứ thấy mặt đức Phật Thích Ca thật sự. Còn như chỉ có mình Thầy nói thì người ta cho Thầy nói láo, cho Thầy nói chuyện mơ hồ. Nhưng nếu có 10 người hay 100 người tu chứng như Thầy xác nhận thì tất cả các hình ảnh đức Phật Thích Ca bây giờ đều không đúng, phải dẹp bỏ hết. Hình ảnh thật sự của đức Phật Thích Ca vẫn còn trong quá khứ đó, chứ đâu mất. Cho nên Thầy mong quý thầy nỗ lực tu đúng theo lời Thầy dạy để chứng đạt. Ngày trước 10 năm trong thất Thầy không có người hướng dẫn mà Thầy còn làm được, huống nay quý thầy được Thầy hướng dẫn thì làm sao quý thầy làm không được. Chỉ có chuyên cần siêng năng giữ gìn giới hạnh cho đúng, xa lìa tâm dục, tâm ham muốn của mình thì quý thầy chứng đạt. Chúng ta hiện giờ có pháp hành cụ thể để tạo ra lực tinh thần rất mạnh, sai bảo nó làm cái gì cũng được hết.

Giới luật của Đại thừa và giới luật của Tiểu thừa là những giới luật phát triển theo các bộ phái, không còn nguyên chất cho nên bị thêm bớt lung tung. Đọc giới kinh nguyên thủy chúng ta thấy điều này rất rõ, cho nên không thể nào lấy giới luật khô khan như vậy mà áp dụng vào đời sống tu sĩ đem lại kết quả giải thoát được. Giới bổn chỉ nhắc nhở cho chúng ta ở phần giới hạnh mà thôi, nghĩa là giới bổn bổ túc cho phần giới hạnh rõ nét để người tu sĩ nhận ra oai nghi tế hạnh của mình mà tránh được các hành động nhỏ nhặt sai lầm. Bởi các giới bổn do các bộ phái đặt ra theo sở thích riêng tư của từng bộ phái nên người giảng dạy giới luật ít có người theo tu hành được.

Các thầy thấy bộ môn Thiền định cũng như Kinh thì họ đều phát triển được lắm, nhưng bộ môn giới luật không phát triển được. Tại sao?

1.- Patimokkha khô cằn cổi, gò bó, trói buộc, câu thúc, không thoái mái, khó chịu.

2.- Người dạy giới luật phải trì giới nghiêm chỉnh, không vi phạm một lổi nhỏ. Thế mà người dạy giới luật vi phạm giới luật tức là người dạy giới luật tri hành không hợp nhất thì làm sao người ta theo mình tu được.

Vì giới bổn Patimokkha khô cằn nên người dạy giới luật không trì giới nổi, mà người dạy giới luật vi phạm giới luật thì mọi người đều nhận thấy rõ, nên dạy giới luật không hứng thú bằng giảng kinh luận thiền. Do đó Thiền tông và kinh dễ phát triển. Pháp sư học giáo lí có thể lên tòa giảng dễ dàng, có thể thu đồ chúng nhiều, có thể được cả danh lẫn lợi, nên càng ngày danh càng vang thì chùa càng to lớn. Còn người dạy giới luật chỉ ở trong chòi tranh, chòi lá, cho nên không mấy ai muốn làm luật sư, họ chỉ muốn làm pháp sư, thiền sư thôi.

Mặt khác, ai tu chứng hay không, dường như các vị giảng kinh luận thiền không trách nhiệm, chỉ đỗ thừa tại căn cơ thấp kém nên tu lâu, và nếu người đệ tử tu thiền có chợt ngộ một trạng thái nào do tưởng dục lưu xuất thì vội ấn chứng cho người đó là ngộ Phật tánh. Nếu người đệ tử đó còn tâm tham sân si thì bảo là còn tạp khí. Đó chỉ là một lối đỗ thừa dễ dàng.

Hầu hết các vị tu theo kinh giáo và thiền thời nay không có kinh nghiệm của bậc chơn tu, nên các vị tu theo kinh giáo và thiền đều còn tâm tham sân si như thế tục, tuy cường độ có giảm nhẹ hơn một chút. Các bậc thầy giảng sư, thiền sư vẫn còn tạp khí nên họ che dậy bằng lối lí luận "Bồ tát còn tạp khí". Thật ra họ chưa tu đúng theo pháp môn của Phật. Họ chỉ tu theo chữ nghĩa tưởng tượng sai của các vị đi trước, người trước đã sai, người sau kế tục cũng sai nữa và cứ tiếp tục sai mãi. Từ đó Phật giáo tuy có người tu mà mất gốc, không còn ai tu chứng nữa.

Còn bên nguyên thủy do li dục li bất thiện pháp nên ngay từ sơ thiền đã không còn tâm tham sân si, nghĩa là chỉ mới có giới đức đã không còn tâm tham sân si.

Thời nay dạy giới bổn Patimokkha không thích hợp với trào lưu hiện tại, vì mọi người đang chạy theo dục vọng, thiền sư và kinh sư dễ kinh doanh làm ăn hơn, giới sư khó kinh doanh nên lặn mất, chỉ dạy giới cho có mà thôi. Kinh sách thuộc về giới cũng ít người đọc, bán ế ẩm, còn kinh sách thiền và luận kinh thì bán chạy như tôm tươi. Hễ tưởng giải ra một loại thiền nào hợp lí một chút thì dễ bán sách, dễ dạy người. Cho nên có những thiền sư mượn khoa học để khuếch đại thiền tông, kinh doanh lợi dưỡng cho mình mà chính bản thân họ không có kinh nghiệm tu pháp mà họ xiểng dương.

Trong giai đoạn hiện tại kinh sư và thiền sư là những người mượn Phật pháp làm ăn lớn nhất; các hàng phật tử u mê nghe sao làm vậy, chẳng có trí phán đoán đúng sai của đạo Phật, nên dễ bị lừa gạt. Thật là đáng thương. Họ đã bỏ vợ con nhà cửa vào chùa tu mà mãi 20, 30 năm vẫn chưa giải thoát, hai tay trắng vẫn hoàn trắng tay.

Xưa nay đạo Phật không dối người, nhưng người dạy đạo hôm nay dối người. Thầy nói chỉ giới luật của đạo Phật giúp ta vượt thoát ra mọi mê muội, không theo lời nói của người dối gạt kể trên, bởi mình thấy ai phá giới thì họ là tà sư, không phải là chánh thiền sư.

Giới hạnh không đúng là tà sư dẫn mình vào tà pháp. Cho nên muốn chọn một bậc thầy phải chọn bậc có giới hạnh. Đây quý thầy nghe giới sư Thánh Nhiên nói: "Người học giới trì giới chẳng dám lạm thu đồ chúng, bằng không tức là phạm giới. Do đó lập chí hoằng giới trước tiên cần phải chuẩn bị chịu cam khổ bản thân là một người hoằng giới, sinh hoạt của người ấy chắc phải là một vị tỳ kheo khắc khổ, vật dụng nuôi thân chẳng dám quá tốt, bằng không sẽ thành phạm giới".

Phật giáo ở Việt nam hiện giờ vốn đã đánh mất tập quán quý chuộng giới luật, họ chỉ quý chuộng thiền, quý chuộng bằng cấp Phật pháp học. Vì thế chúng ta hoằng dương giới luật thì gặp sự chống đối của Giáo Hội Phật giáo, của cư sĩ phật tửvì họ sợ người ta đem giới luật ra để phê bình hay đả kích họ cho nên nghe giới luật là họ đã không an tâm. Đó là sự trở ngại lớn nhất trong sự hoằng dương giới luật. Đại sư Hoằng Nhất nói: "Khi dạy luật, rất nhiều nơi chẳng hoan nghinh Ngài, thậm chí thấy Ngài ăn mặc là một giới sư thiểu dục tri túc thì người ta coi Ngài như là một quái vật". Trong kinh giới có thuật lại mẫu chuyện khi ngài Hoằng Nhất đi dạy giới luật chỉ có vài vị đến nghe, hoặc lúc đầu thì đông nhưng sau một lúc thì chỉ còn vài người ngũ gục. Thật vậy, sinh hoạt của vị tỳ kheo giới luật không phải là kỳ quái sao. Nhưng Thầy nghĩ sự hoằng dương giới luật của Thầy không khó vì lúc nào cũng có giới hành theo giới luật hay giới hạnh, cho nên khi một người hành giới luật thì bắt buộc họ phải thực hành giới hành cho nên họ cảm thấy mát lạnh an ổn trong tinh thần của họ. Họ thấy mỗi giới là một sự sung sướng của họ chứ không còn khô cằn khô cổi trong cuộc sống tu hành của họ, cho nên Thầy luôn luôn ca tụng giới hành của Phật, ca tụng giới đức của Phật.

Nhưng nói thế nào thì cuộc sống giới luật trong các chùa hiện nay là một chướng ngại rất lớn cho sự sinh hoạt giới, bởi tu sĩ giới luật thì phải ở trong chòi tranh vách lá chứ không thể sống trong phòng ốc sang trọng với đầy đủ tiện nghi hiện đại.

Nếu giới kinh và giới bổn là những bản kinh được in ấn hẳn hòi thì sự hoằng dương giới luật không ai có thể phản đối được, chẳng lấy lí do nào để phỉ báng công khai được, mà cũng không thể nào thủ tiêu được giới luật.Họ chỉ có cách ngăn chận không cho người khác hợp tác, không cho theo học, không cho cúng dường in ấn các bài giảng giới luật của giới sư, không cho giới cư sĩ học giới luật.

Một người biết giảng giới luật linh động thì càng tuyệt diệu khiến cho mỗi thời đại và mỗi xã hội đều thích nghi, và người tu theo giới luật đạt được kết quả sở nguyện thiết thực hiện tại.

Còn ngược lại đem giới bổn mà dạy theo kiểu văn điều giới luật khô cằn chết cứng, thì không thích nghi khi áp dụng vào sự diễn biến linh động của mỗi thời đại và mỗi xã hội sống động đang tiến lên. Cho nên giới bổn phải bị chết non, không thể phát triển được, nghĩa là đem giới bổn dạy trong thời đại chúng ta hôm nay thì không phù hợp.Mà đem giới kinh dạy thì rất phù hợp bởi vì giới kinh có giới hành như pháp hướng, pháp tùy, pháp quán, nên phù hợp thời nay, mỗi giới kinh được học rồi và áp dụng thì người ta thấy giải thoát nên khoái vô cùng.

Muốn đem những văn điều giới luật Patimokkha chết cứng đặt lên đầu của mọi đệ tử Phật của mỗi thời đại một cách sống động thật là khó khăn, cũng là một việc làm chẳng hợp lí, nghĩa là đem giới bổn Patimokkha bảo mọi đệ tử của Phật phải chấp hành cho đúng mà không có giới hành thì đó là điều khó khăn mà cũng không hợp lí vì giới luật của Phật đâu phải làm cho người ta khổ. Đạo Phật không làm khổ mình, không làm khổ người. Nên ông Hoằng Nhất đi giảng luật thiểu dục tri túc thấy khổ quá nên chẳng ai dám theo. Đó là những kẻ giảng dạy chết cứng trong những giáo điều giới luật. Đó là những kẻ không hiểu giới luật là pháp môn hành thiện, không phải là hành luật.

Giới luật là một pháp cứu cánh giải thoát cho con người ra khỏi biển khổ sông mê cuộc đời. Người dạy giới luật mà không hiểu giới luật thì biến pháp môn siêu việt này thành những sợi dây trói buộc người tu hành nhiều hơn. Người dạy giới luật mà không hiểu được toàn bộ giới kinh, chỉ đứng trong góc độ giới bổn mà dạy thì khiến cho người tu hành cảm thấy quá khổ sở, cho nên không làm sao tu tập được. Hầu hết các giới sư không hiểu lời của tôn giả Kassapa đã đề xuất nguyên tắc: "Điều Phật đã chế chẳng được phép bỏ, dù là những giới nhỏ; điều Phật chưa chế chẳng được thêm vào". Các giới sư và người dịch thuật đều chẳng hiểu câu nói này. Nếu hiểu lời nói của ngài Kassapa theo như các giới sư giảng thì giới luật khô cằn cổi, không linh động, không đáp ứng với thời đại tiến hóa của con người. Còn Thầy hiểu nguyên tắc của ngài Kassapa khác với các giới sư đã giảng. Thầy hiểu giới luật làm thầy cho các tỳ kheo thì phải linh động như đức Phật đang sống tại thế, cho nên không được thêm cũng không được bớt gì cả, nghĩa là chúng ta linh động được mà không thêm điều khoảng nào vào giới luật. Thí dụ với cà phê, thuốc lá tuy trong giới luật đức Phật không cấm, nhưng ở giới thứ năm đức Phật có cấm uống rượu vì rượu làm cho nghiện ngập, mất minh mẫn của trí tuệ thì cà phê, thuốc lá cũng làm nghiện, làm mất minh mẫn thì lấy điều giới thứ năm đó mà liệt các chất làm nghiện vào đó. Như vậy ta không thêm điều luật nào mà lại làm cho giới luật trở nên linh động kịp theo thời đại, làm cho các tỳ kheo tránh xa các cám dỗ của dục lạc, giữ được giới luật, đi đến đích giải thoát.

Rồi đây khi giảng 37 phẩm trợ đạo tức các giới hành của Phật giáo thì Thầy sẽ nói hết làm sao để giữ giới. Bởi vậy giới luật mới là ông thầy của chúng ta, chứ khiếm khuyết thì làm sao làm thầy được. Nếu ông thầy không đủ 3 oai lực thì không thể dạy chúng tỳ kheo. Muốn đủ 3 oai lực thì chỉ có giới luật mà đức Phật đã di chúc lại làm thầy. Thầy đâu có đủ 3 oai lực đó cho nên Thầy đâu làm thầy quý thầy được, mặc dù các pháp Thầy làm được nhưng không phải sở trường của Thầy, thí dụ Thầy dùng Dục Như Ý Túc trong Tứ Như Ý Túc để biến một thân thành nhiều thân được nhưng không phải là chuyện của Thầy, tuy Thầy làm được. Người chuyên môn thì chỉ trong tích tắc đã thực hiện xong, người không chuyên môn thì phải cần có thời gian dài hơn.

Phật nói "Giới luật còn là đạo ta còn, giới luật mất là đạo ta mất", cho nên giới luật là đức Phật, chỉ có giới luật mới làm thầy chúng ta thôi. Thầy chúng ta là giới kinh mà hôm nay Thầy giảng cho quý thầy thấy đó, chứ không phải là giới bổn Patimokkha của các sư kết tập. Thầy xem hết các bộ luật do các giới sư soạn ra và dịch thuật đều chẳng hiểu câu nói của ngài Kassapa . Nếu đọc kinh giới mà hiểu lời Phật chế giới ra, thì cho dù bất cứ con người ở thời đại nào,ở hoàn cảnh xã hội và sự thay đổi nào, dù tiến hay lùi tới đâu cũng đều phù hợp, cũng đều ăn khớp và rất linh động, không cần chế giới thêm mà cũng không cần giảm bớt. Bởi vậy đức Phật mới di chúc lại: "Các thầy tỳ kheo hãy lấy giới luật của ta làm thầy". Nếu giới luật là pháp môn chưa được chỉnh đốn, chưa thành pháp môn bất di bất dịch, còn cần có sự chỉnh đốn, cần thay đổi thêm bớt thì chắc chắn đức Phật không di chúc "Các thầy tỳ kheo hãy lấy giới luật của ta làm thầy". Câu chuyện thuật lại lời ông Ananda nói Phật cho bỏ những giới nhỏ nhặt là câu chuyện bịa đặt của người sau muốn phá giới của Phật.

Chúng ta thấy các vị Alahán trong thời đức Phật không vọng ngữ mà trí tuệ ông Ananda đa văn như vậy không hiểu lời Phật nói sao, vậy mà cho mãi tới khi ông Kassapa nhắc mới thấy lổi mình. Họ đánh giá trị thông minh của ông Ananda quá thấp kém. Cho nên lời nói "có những giới nhỏ nhặt sau này cần phải bớt đi" là do người sau này đặt điều, chứ không phải là ông Ananda hay đức Phật nói điều đó. Còn nói giới luật không linh động, chết cứng là tại giới sư chế cứng chớ không phải giới luật của Phật chế cứng. Họ thấy Tứ Diệu Đế, 37 Phẩm Trợ Đạo, Tứ Niệm Xứ, Thất Giác Chi là những pháp tu chứ họ đâu biết đó là giới hành giới luật của tu sĩ. Người am hiểu thì biết đó là những hành động để thực hiện giới. Mà giới là cứu cánh, giới là thiện pháp để giúp ta thoát khỏi sự đau khổ, cho nên người tu chứng biết Tứ Diệu Đế, 37 Phẩm Trợ Đạo, Tứ Niệm Xứ, Thất Giác Chi là những giới hành cho chúng ta đạt được giới cho nên làm tâm chúng ta mát lạnh. Còn người không tu không chứng thì thấy Tứ Diệu Đế, 37 Phẩm Trợ Đạo, Tứ Niệm Xứ, Thất Giác Chi là những pháp môn tu chứ không phải là giới hành. Đó là cái sai lệch của người xưa để lại, vì họ không chứng đạt được sự tu hành của họ, họ không có đầu óc của người tu chứng, họ chỉ kiến giải, tưởng giải ra bằng cách viễn tưởng của nhà học giả.

Giới luật là ông thầy sống động của chúng ta như đức Phật còn tại thế. Lúc Phật còn tại thế giới luật rất sống động, ai hỏi gì đều được Phật trả lời ngay, thì ông thầy giới luật được Phật chỉ định làm thầy chúng ta cũng sống động như vậy. Cho nên giới luật phải là pháp môn rất linh động cho mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh của mỗi con người để thực hiện tu tập có kết quả thiết thực hiện tại ngay, giới luật mới chính là ông thầy của các vị tỳ kheo, đâu như giới luật mà quý vị giới sư đang giảng dạy, các vị này đang dạy giới điều chết cứng cho quý vị. Họ không hiểu gì về giới luật, họ không hiểu ngay cả chữ tam vô lậu học thì làm sao họ dạy pháp môn của Phật. Họ hiểu theo kiểu thế gian thường tình giới là giới điều, là pháp luật bắt buộc mọi người phải tuân theo, phải giữ gìn, dù có khổ đến đâu cũng phải giữ gìn. Đó là cái sai thứ nhất.

Giới luật của Phật là pháp môn vô lậu khiến cho người theo được giải thoát thế mà pháp môn này trở thành kiết sử, triền phược trói chặt người tu hành. Họ bịa chuyện đức Phật cho bỏ những giới nhỏ nhặt để cho phù hợp với dục lạc.

Định là một pháp môn vô lậu thì thiền sư lại biến nó thành pháp môn ức chế tâm, định vô lậu là muốn tâm hết tham sân si lậu hoặc mà muốn như thế thì phải dùng pháp quán, pháp hướng tâm xả li làm cho tâm tham sân si không còn. Trái lại thiền sư muốn tâm hết vọng tưởng, muốn tâm đừng tham sân si lậu hoặc, cho nên tạo ra định ức chế tâm để dừng vọng tưởng, để đè lậu hoặc, khi đè không được, các lậu hoặc bật lên thì bảo là tạp khí. Đó là người ta không hiểu được định vô lậu trong tam vô lậu học mà người ta đã biến nó thành những pháp môn thiền định theo kiểu nén tâm. Ngồi hít thở nén tâm cho hết vọng tưởng thì mai mốt sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, không tránh được. Còn li dục li bất thiện pháp cho hết thì đó là giới luật, cho nên người ta điều khiển cho các hành ngưng nghỉ thì vô định, làm chủ được sanh tử đâu khó; còn phương pháp thiền định kia dù muốn mà ngưng các hành được không? Người nào siêng năng nỗ lực tu thì bị nén nhiều, mà nén nhiều thì làm cơ thể bị rối loạn thần kinh, sinh bịnh. Còn người tu không tích cực tối đa thì không bị rối loạn thần kinh mà tu cũng chẳng tới đâu. Pháp thiền ức chế tâm kia lúc thì thưởng thức cái này lúc thì thưởng thức cái khác, cho nên các thiền sư khoái lắm nên tạo các định ức chế tâm để ngồi hưởng lạc trong đó, nên chỉ đi về hướng địa ngục là hướng hưởng dục lạc tưởng. Như vậy thiền định của họ không thiết thực hiện tại chỉ là một nguồn an ủi suông cho người tu.

Tuệ là một pháp môn vô lậu thế mà họ lấy tưởng thứ nhất làm tuệ, đây là nói qua ông thầy dạy kinh theo kiến giải, họ lấy tuệ vô lậu của Phật làm tưởng kiến của họ, nên càng tu thì bản ngã càng to, xây dựng đường lối tu hành bằng tập thể bè phái, do đó mới có sự chống đối lẫn nhau làm đại gia đình Phật giáo tan nát.

Đó là sự hiểu biết tam vô lậu học của thời đại Phật giáo hiện nay.

Tóm lại luật sư biến giới luật thành giáo điều pháp luật bằng chứng là các bộ luật đang hiện hành trong Phật giáo trên thế gian này; thiền sư thì biến định vô lậu của đức Phật thành giáo điều định ức chế tâm, nén tâm, bằng chứng là những bộ sách thiền đang tung ra thị trường buôn bán khắp nơi; kinh sư thì biến tuệ vô lậu của Phật thành tưởng kiến, tri kiến làm cho con người góp nhặt tưởng kiến đó trở thành kiến chấp, mà đã có kiến chấp thì ngã chấp càng to, càng huân tập ý kiến nhiều thì sanh ra tranh luận hí luận khiến cho người ta không giải thoát được, bằng chứng kinh sách bán đầy vĩa hè, đường phố, đó là kinh sách của kinh sư. Đó là lổi của các vị tu hành không đến nơi đến chốn mà muốn làm bồ tát độ chúng sanh thì ông bồ tất đui mù này sẽ dẫn một đám đui mù xuống địa ngục hết, thay vì trí tuệ vô lậu diệt ngã xả tâm để được giải thoát.

Trên thế gian này, sự lường gạt và lừa bịp con người không chỗ nào nhiều và khéo léo hơn trong các tôn giáo. Sự lường gạt tinh vi và vi tế cho đến người cầm đầu lường gạt mà họ vẫn tự mình không biết mình lừa gạt mà cứ ngỡ mình là Phật, là bồ tát độ chúng sanh. Nếu muốn thoát ra cảnh lừa gạt bịp bợm này, người tu sĩ phải tu cho đến nơi đến chốn, nghĩa là phải chứng được đạo, phải làm chủ luân hồi, rồi ra dạy đạo mới không còn lường gạt ai hết. Phật giáo ra đời vốn để giải quyết cái khổ của con người, vì thế giáo lí và giới luật của Phật là pháp môn để người tu chứ không phải để người học lấy đó làm cấp bằng danh lợi.

Đến đây là hết phần giới thiệu giới bổn Patimokkha của đạo Phật.

***