
Phần thứ ba: Giới Tuệ Của Người Tu Sĩ
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC
GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA
(Tỳ khưu Từ Quang biên tập lời Trưởng Lão giảng trong mùa an cư 1997, được ghi âm trong 61 cassettes)
Phần thứ ba: GIỚI TUỆ CỦA NGƯỜI TU SĨ
Trước khi đi vào phần giới tuệ, Thầy sẽ thuật lại vài mẫu chuyện của Thánh Tăng, nếu không có những gương hạnh này thì quý thầy sẽ ko biết giới tuệ như thế nào. Quý thầy học giới luật nhưng quý thầy chưa được nghe những lời giảng do từ kinh nghiệm bản thân của Thầy tu tập, cho nên Thầy nêu lên những kinh nghiệm tu hành của các vị Thánh Tăng trong thời Đức Phật, quý thầy lấy những gương hạnh này làm gương hạnh tu tập cho quý thầy và qua các mẫu chuyện này, quý thầy biết đó là giới tuệ của các bậc Thánh Tăng. Quý thầy sẽ thấy giới tuệ không giống như giới hạnh hay giới đức nữa.
1.- Ngài Gavampati theo Phật xuất gia và chứng quả Alahán. Một hôm đức Thế tôn và một số đông tỳ kheo trên đường du hành và khi đến sông Sarabhu thì trời tối nên các vị tỳ kheo nằm nghỉ trên bờ cát sông. Đến nửa đêm nước sông dâng lên nên các thầy tỳ kheo trẻ tuổi la ồn náo, Thế tôn bảo Gavampati can thiệp. Vị Trưởng lão Gavampati dùng giới tuệ thần túc thông của mình làm theo lời Phật dạy dừng dòng nước lại từ xa khiến cho dòng nước dựng đứng lên như ngọn núi mà không tràn vào bải cát được. Hôm sau chúng tỳ kheo và Thế tôn được ngài đưa sang sông an lành. Do vậy mọi người biết ngài có thần thông siêu việt. Sau khi sang sông, mọi người không còn thấy ngài nữa. Ngài đã ẩn bóng. Do vậy, bậc đạo sư dùng kệ tán thán công đức của ngài:
Giới tuệ thần túc thông,
Dựng đứng nước Sara,
Chính Gavampati
Không ỷ lại, không động
Ẩn bóng dấu tung tích
Vượt qua mọi trói buộc
Chư thiên đều đãnh lễ
Bậc đạo sĩ mâu ni
Đã vượt qua sanh hữu
Qua câu chuyện này, quý thầy thấy như thế nào là sức thần thông của giới tuệ. Nước sông tràn như vậy mà ngài dùng thần thông giới tuệ chận dòng nước dựng cao như núi mà nước không tràn xuống được. Như vậy ý muốn của ngài như thế nào thì ngài làm được như vậy. Đó gọi là tuệ giải thoát, chứ không phải tri kiến giải thoát đâu. Chúng ta cần biết tuệ do định sanh ra không phải là tuệ tầm thường của phàm phu.
Trong kinh sách thường nói khi chúng ta niệm hương có 5 loại hương: Giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương; thì huệ hương nằm trong giới định tuệ; còn giải thoát, giải thoát tri kiến hương không phải là tuệ. Giải thoát tri kiến hương thuộc giới tuệ thứ nhất. Khi quý thầy học tới giới tuệ thứ nhất sẽ biết đó là tri kiến giải thoát. Còn tri kiến mà hiện chúng ta dùng đây không phải là tuệ mà chỉ là tri kiến phàm phu, là những kết tập các hiểu biết văn tư tu. Tri kiến mà quý thầy biết qua các bài giảng của các học giả chỉ là kiến giải của các học giả, không phải là tuệ của các bậc tu hành chứng đạo, cho nên họ (học giả) không biết tri kiến như thế nào và tri kiến giải thoát như thế nào, vì thế họ gồm các tri kiến này cho đó là trí tuệ của họ. Sự thật họ chưa hiểu tuệ của các bậc tu hành chứng đạo.
Bởi giới tuệ của đạo Phật do từ định sanh ra vô cùng tuyệt, vô cùng siêu việt chứ không phải tầm thường. Tri kiến giải thoát nằm trong 13 giới tuệ của đạo Phật, mà giới tuệ đầu tiên là tri kiến giải thoát, còn tất cả các tuệ kia đều do từ định sanh ra.
Chúng ta kết tập tích hợp lại các sự hiểu biết trong các kinh điển kim cỗ, các hiểu biết của các bậc thánh hiền rồi lấy đó làm tri kiến của mình thì cái đó chỉ là tri kiến chứ không thể gọi là trí tuệ trong đạo Phật, mà cũng không được gọi là tri kiến giải thoát.
Vị trưởng lão Gavampati này đạt được giới tuệ thần túc thông, ở đây ngài dùng giới tuệ thần túc thông:
Giới tuệ thần túc thông,
Dựng đứng Sarabhu
Chính Gavampati
Chính ngài Gavampati dừng nước dòng sông Sarabhu, không cho nước sông tràn vào bờ để chúng tỳ kheo ngủ yên ổn đến sáng mai lên đường đi. Khi làm được việc đó ngài không ỷ lại, không ngã mạn, ngài không thấy ngài hơn ai hết, tâm ngài bình thường như mọi ngày. Khi chúng tỳ kheo đi rồi thì ngài ẩn bóng, dấu tung tích, chẳng ai thấy lại ngài.
Vượt qua mọi trói buộc
Trói buộc có nghĩa các sự khen tặng của các tỳ kheo trong Tăng Đoàn
Chư thiên đều đãnh lễ
Chư thiên thấy sự ẩn bóng và hành động của ngài Gavampati mà tâm không có ngã, không ỷ lại cho nên chư thiên ở trong các cõi trời đều đến đãnh lễ ngài
Bậc đạo sĩ mâu ni
Những người như vậy được gọi là Bậc đạo sĩ mâu ni
Đã vượt qua sanh hữu
Tức là không còn dính mắc các sự khen chê này kia.
Qua bài kệ này chúng ta thấy giới tuệ thần túc thông của họ như vậy không thể tưởng tượng được. Khi chúng ta tu hành tới giới tuệ thì chúng ta cũng như vậy nghĩa là ý chúng ta muốn như thế nào thì đạt được như vậy, chứ không phải như khi chúng ta còn phàm phu mà muốn ăn, muốn ngủ... lúc đó chúng ta sẽ muốn cho tất cả thế gian được hưởng hạnh phúc, muốn sao cho mọi người đều thực hiện thiện pháp để đem lại quả lành cho mọi người được an lành trong cuộc sống. Đó là cáiý muốn của những bậc có giới tuệ. Còn khi chưa có giới tuệ thì họ chỉ muốn danh, muốn lợi của thế gian.
2.- Ngài Uttara sanh ra tại thành Ràjagaha. Ngài thông minh và thông suốt 3 bộ kinh Vệ đà. Ngài có danh tiếng tốt, có đức hạnh và dung sắc đẹp đẽ. Ngài được một vị tộc trưởng ở thành Magadha muốn gả con gái cho, nhưng ngài từ chối và xuất gia với ngài Sàriputta. Ngài thường làm bổn phận của một sa di hầu thầy. Một hôm tôn giả Sàriputta bị bịnh, ngài Uttara ôm bình bát ra bờ hồ lấy nước cho ngài Sàriputta, khi lấy nước xong, ngài để bình bát trên bờ rồi lội xuống hồ để tắm. Cùng lúc ấy có một tên trộm bị lính đuổi chạy ra khỏi thành; khi tên trộm chạy ngang qua chỗ ngài đang để bình bát trên bờ hồ liền ném của báu đã ăn cắp vào bình bát. Khi lính đuổi theo tên trộm, thấy trong bình bát của ngài có của báu ăn cắp nên bắt ngài về giao cho tộc trưởng Vassakàra, là người muốn gả con gái cho ngài. Ngài bị hành hạ cực hình, chết đi sống lại. Thế tôn, bậc đạo sư, liền hiện đến,cho ngài biết đây là do nghiệp quả đời trước của ngài, ngài cần phải chấp nhận và nhờ sức mạnh tư duy về khổ thọ tu tập định vô lậu thì mới thoát khỏi nghiệp khổ này. Bậc đạo sư nói xong đặt tay nhẹ lên đầu ngài rồi biến mất, nhờ thế mà tâm tưngài phấn khởi, trong lúc ngài bị trói vào cột rất to. Sau đó ngài lấy đề mục khổ thọ để thực hiện thiền định vô lậu, nhờ vậy ngài đoạn tận các lậu hoặc và uế nhiễm, chứng sáu thắng trí quả Alahán. Lúc bấy giờ ngài đang bị cột trói vào cột rất to. Khi chứng quả xong, ngài dùng giới tuệ thần túc thông vươn mình lên khỏi trụ cột, ngài đứng trên hư không và hiện thần thông. Vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác, ngài không làm hại một ai. Mọi vết thương trên thân ngài do sự tra tấn quá tàn ác đều được lành hẳn trước sự ngạc nhiên của mọi người. Có người hỏi ngài trong cảnh đau khổ ấy làm sao ngài còn bình tỉnh mà tu tập được. Ngài trả lời tôi nhờ bậc đạo sư nhắc nhở và an ủi, khi tôi thấy rõ sự đau khổ là nhân quả kiếp trước của tôi và tánh nhân duyên sanh của sự vật và sự nguy hiểm của sự đau khổ trước kia nhiều hơn hiện tại, vì thế tôi không còn dao động, tôi phát triển thiền quán vô lậu và chứng được kết quả. Sau khi chứng quả tôi có làm bài kệ.
Ở đây quý thầy thấy rõ khi được Phật nhắc thì ông thấy rõ nhân quả kiếp trước là ông đã tạo cho người khác khổ gấp mấy lần hơn cái khổ trong hiện tại của ông. Nhờ thấu rõ nhân quả như vậy nên tâm ông không còn giao động và ông phát triển thiền quán và cuối cùng chứng quả. Chúng ta rút kinh nghiệm của ngài qua bài kệ để chúng ta tu tập:
Không có gì có mặt
Lại thường còn mãi mãi
Không có ác hành gì
Lại thường hằng thường trú
Các uẩn được khởi lên
Đó là pháp hướng đề mục của ông mà ông đã đặt thành một niệm tu định vô lậu.
Đến đời khác diệt vong
Biết được nguy hiểm này
Tôi chấm dứt sanh hữu
Từ bỏ tất cả dục
Tôi chứng lậu hoặc tận
Khi quán vô thường đặt niệm thọ khổ ông quán thấy lúc có đau lúc không đau, cho nên ông thấy
Không có gì có mặt
nghĩa là trong thế gian này không có gì có mặt hết
Lại thường còn mãi mãi
nghĩa là vật này có thì nó không kéo dài được trường tồn, cũng như bây giờ chúng ta có chưa chắc nó kéo dài mãi mãi được, sẽ bị hoại diệt đi. Đó là sức quán của ông thấy nó vô thường như vậy.
Không có các hành gì
nghĩa là các hành động
Lại thường hằng thường trú
không có hành động nào thường hoài, không có pháp nào trên thế gian này thường trú được, nó luôn luôn thay đổi và hoại diệt, tức là ông thấy các pháp vô thường.
Các uẩn được sanh khởi
5 uẩn sanh khởi thì thành cái thân, nó không sanh khởi hay nó hoại diệt thì đâu có thân.
Đến đời khác diệt vong
Hiện giờ hợp nhau sanh khởi thì có mình, đến đời khác thì nó mất đi, cho nên đến đời khác thì diệt vong, đâu còn nữa.
Biết được nguy hiểm này
nghĩa là thấy sự sanh khởi, sự vô thường, sự vô ngã của nó, sự thọ khổ của nó như vậy thì biết nó là sự nguy hiểm.
Tôi chấm dứt sanh hữu
Sanh hữu là những trói buộc như nhà cửa, của cải tài sản, anh em cha mẹ... tất cả vật nhỏ vật lớn gọi là sanh hữu. Ông thấy như vậy bèn buông hết, không còn trong trí, buông sạch chỉ còn 3 y một bát. Từ lâu đi theo làm sa di hầu ông Sariputta, nhưng ông vẫn còn sanh hữu cho nên lúc này quán sanh hữu như vậy ông mới dứt sạch.
Từ bỏ tất cả dục
Tất cả lòng ham muốn ông đều bỏ xuống hết. Dứt bỏ sanh hữu tức là dứt bỏ dục bởi vì không có vật nào nữa thì làm sao có dục, cho nên ông không còn ham muốn gì nữa:
Tôi chứng lậu hoặc tận
nghĩa là lậu hoặc được quét sạch cho nên ông thành tựu. Từ đó ông thực hiện tam minh tức là giới đức trí tuệ. Từ chỗ chứng đạt ngài thực hiện thần thông giới tuệ vô lậu, biến ra một con người đứng giữa hư không mặc dù ngay trước đó ông đang bị cột trói, làm mọi người quá sợ hãi không còn ai dám hành hạ ông nữa, nhưng ông không trả thù ai hết.
Chúng ta thấy những cái đó là những giới tuệ, mà chỉ khi có thiền định mới có giới tuệ, không có thiền định thì không có giới tuệ. Có thiền định là sao? Chúng ta bảo các hành phải ngưng. Các hành trong thân ngưng tức là thân định, mà tâm chúng ta diệt tầm tứ là tâm định rồi, lúc bấy giờ tâm định trên thân và thân định trên tâm. Cho nên Phật nói khi thân đã định trên tâm và tâm định trên thân thì chúng ta câu hữu dục như ý túc, chúng ta muốn như thế nào thì sẽ thực hiện như vậy.
Khi chúng ta bảo hơi thở ngưng mà nó ngưng được thì chúng ta phải biết lực tinh thần của chúng ta trong pháp hướng mạnh đến mức độ nào để ra lịnh cho hơi thở ngưng thì nó mới ngưng. Còn chúng ta có ý ngưng thở thì đó không phải là lực tinh thần mà đó là chúng ta dùng cơ để nín thở, nên chắc chắn không đạt được kết quả; chúng ta phải dùng pháp hướng mới đúng cách. Cho nên Thầy thường nhắc quý thầy người tu chỉ dùng pháp hướng để tu định vô lậu quét sạch lậu hoặc, mà khi lậu hoặc sạch thì pháp hướng đó trở thành hiệu quả để điều khiển các hành trong thân ngưng hoạt động, chứ không phải chúng ta vận dụng tập thở chậm. Chúng ta có vận dụng cho hơi thở chậm thật nhưng không quá sức của nó vì quá sức thì bị rối loạn cơ thể làm chúng ta bị bịnh. Còn lực tinh thần của chúng ta điều khiển thì rất vi tế. Nó ra lịnh cho hơi thở chậm nhẹ lần lần mà không bị rối loạn cơ thể chúng ta, cho đến khi hơi thở ngưng mà chúng ta không chết. Con đường tu tập theo đạo Phật như vậy mới đúng cách cho nên chúng ta cần làm sao li dục li bất thiện pháp mà thôi. Khi li dục li bất thiện pháp được rồi thì sự điều khiển các hành này theo ý muốn không khó khăn. Bởi trong thời gian li dục li bất thiện pháp, chúng ta phải tu tập định vô lậu và chánh niệm tỉnh thức định cho sức tỉnh của chúng ta rất cao độ để trí chúng ta phóng ra một tri kiến làm cho sự quán xét tất cả lậu hoặc đều bị quét ra được. Chúng ta quét các lậu hoặc cho ra khỏi tâm mà khi tâm không còn lậu hoặc thì tâm chúng ta tịnh rồi.
Pháp hướng dùng quét các lậu hoặc trở thành lực của tinh thần, gọi là định lực. Trong đạo Phật có ngũ lực (tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực), nếu chúng ta tu tập đúng thì có 5 lực này. Khi chúng ta tu định vô lậu thì đã có niệm lực, mà niệm lực đó là lực tinh thần của chúng ta, đó là pháp hướng. Khi chúng ta ra lịnh cho các hành trong thân ngưng thì sức làm các hành ngưng được là định lực. Khi điều động thân định rồi thì chúng ta dùng huệ lực để thấy đây là khổ thật; đây là nguyên nhân của khổ; đây là con đường diệt khổ; đây là sự hết khổ hay cảnh giới niết bàn. Tức chứng được lí của khổ tập diệt đạo. Khi chúng ta hiểu Tứ Diệu Đế thì đó là chúng ta ngộ chứ chưa chứng lí Tứ Diệu Đế, chỉ khi nào lậu tận minh hiện ra tức là trí tuệ của giới tuệ hiện ra thì lúc đó chúng ta mới chứng được cái lí của khổ tập diệt đạo rõ ràng.
Trên bước đường tu tập, quý thầy phải thấy sự tu tập của quý thầy như thế nào đúng, như thế nào sai. Qua bài giảng này của Thầy thì quý thầy tự biết từ lâu nay quý thầy tu đúng hay sai. Quý thầy tu định vô lậu và chánh niệm tỉnh thức cho đến khi li được dục và li được ác pháp rồi, thì quý thầy lấy những câu pháp hướng mà quý thầy đã từng tập luyện có hiệu quả đó, bây giờ quý thầy chỉ trạch pháp thay đổi câu đó như thế nào cho hợp ý muốn của quý thầy. Như muốn nhập Nhị Thiền thì quý thầy ra lịnh "Tầm tứ phải tịnh chỉ, phải ngưng, không được hoạt động nữa" quý thầy chỉ ra lịnh bằng pháp hướng như thế vài lần là tầm tứ diệt liền, chứ không phải ức chế nó. Như chúng ta muốn li 18 loại tưởng thì chúng ta chỉ cần ra lịnh "18 loại tưởng phải ra khỏi tâm ta" tức là li hỉ trú xả, sau đó 18 loại tưởng ra khỏi tâm chúng ta liền tức khắc, từ đó ta nhập vào Tam Thiền, đâu còn ma chướng nữa.
Nhưng khi chúng ta chưa có hiệu quả của pháp hướng tâm, tức lực tinh thần chưa có mà chúng ta thực hiện thì không bao giờ đạt kết quả. Chúng ta phải có lực tinh thần, tức là niệm lực. Niệm lực là do câu pháp hướng trở thành cái niệm. Nếu không có câu pháp hướng thì không sao có niệm lực; chẳng hạn như bây giờ chúng ta bảo tầm tứ phải diệt mà không có tên tầm tứ trong câu pháp hướng thì không tạo ra cái niệm. Một đoạn văn, một câu văn nào đó là cái niệm, mà cái niệm đó để chúng ta ra lịnh cho đối tượng của hành động đó phải làm, phải ngưng, mà nó làm được, nó ngưng đượcthì gọi nó là niệm lực.
Niệm lực là Tứ Niệm Xứ, mà Tứ Niệm Xứ là thân thọ tâm pháp ở trong thân của chúng ta chứ đâu phải ngoài thân, cho nên chúng ta ra lịnh để làm chủ trong thân của chúng ta.
Chừng nào học tới Tứ Niệm Xứ Thầy sẽ giảng rất rõ cho quý thầy biết để sử dụng Tứ Niệm Xứ. Nếu chưa tu Tứ Niệm Xứ mà vội tu bốn thiền thì chỉ hoài công; bởi niệm rồi mới tới định, chứ lẻ nào định (bốn thiền) đi trước niệm (Tứ Niệm Xứ) được, cũng như chưa có định thì làm sao có trí tuệ Tam Minh, làm sao có trí tuệ thần thông được. Cho nên chúng ta phải tu tập tuần tự từng bước trên con đường tu của đạo Phật để chúng ta không bị lạc lối.
3.- Bây giờ Thầy nói tới ngài Gangàtiriya, ngài cất chòi lá ở bên bờ sông và theo Phật tu, chọn đời sống khổ hạnh, người ta gọi tên ngài là Gangàtiriya. Gangàtiriya có nghĩa là người sống ở trên bờ sông Hằng. Ngài nguyện không nói với một ai một lời nói nào, đi khất thực ai cho gì thì ngài nhận chứ không nói. Ngài giữ được nguyện đó trong suốt năm đầu, sang năm thứ hai có một nữ nhân trong làng thường mang thực phẩm đến cúng dường cho ngài, cô thử để biết ngài thật câm không. Thay vì đổ sữa vừa đầy bát thôi, cô lại đổ cho sữa đầy tràn ra ngoài, buộc lòng ngài phải nói: "Thôi vừa rồi, bà chị". Đến năm thứ ba thì ngài chứng quả Alahán, ngài có làm bài kệ tán thán hạnh cũ của mình. Quý thầy thấy hạnh độc cư của ngài thật kiên cố.
Trên bờ sông Hằng Hà
Dùng ba lá thốt nốt
Ta dựng lên cho ta
Một chòi lá nho nhỏ
Bát ta là cái ghè
Dùng cúng sữa người chết
Còn y áo của ta
Lượm chắp từ đống rác
Suốt hai năm sống vậy
Ta chỉ nói một chữ
Trong khoảng năm thứ ba
Khối si ám tan tành
Qua bài kệ này chúng ta thấy trong thời Đức Phật có những bậc thật là vĩ đại. Chúng ta quy y Tăng là phải theo gương các vị tăng này.
Thầy cũng đưa thêm gương của vài vị Ni trong thời Đức Phật, vì trong chúng của chúng ta cũng có một số nữ.
4.- Bà Sìha được cha mẹ cho xuất gia tu hành theo Phật. Bà tu thiền quán nhưng không thế chận đứng tâm tư chạy theo ngoại vật. Bảy năm bị dày vò, không làm sao thoát khỏi nếp sống tích nhiễm, (tích nhiễm là thương ghét, tham muốn...) Bà tự bảo hãy chết là tốt. Bà cột dây thòng lọng trên nhánh cây, trong giờ phút cuối cùng, bà triển khai thiền quán. Bà được trí tuệ viên mãn, nội tâm thiền quán được tràn đầy. Mở thòng lọng, bà trở về tịnh xá với tri kiến phấn khởi nói lên bài kệ:
Không như lí tác ý
Bà sơ suất chỗ không như lí tác ý nên
Bị dục tham ám ảnh
lòng ham muốn này kia ám ảnh hoài mà không dứt được, do bà không như lí tác ý tức bà không dùng pháp hướng. Cho nên hằng ngày khi tâm chúng ta khởi muốn cái gì thì chúng ta dùng pháp hướng đánh bạt nó liền. Đó là chúng ta dùng như lý tác ý.
Ta trước bị giao động
Không chế ngự được tâm
Bị phiền não chi phối
Lạc tưởng ngự trị ta
Tâm ta không thăng bằng
Bị tham tâm chi phối
Bảy năm sống ốm yếu
Da vàng, dung sắc xấu
Đêm ngày không an lạc
Ta sống chịu khổ đau
Do vậy, ta lấy dây
Đi vào giữa khu rừng
Tốt hơn ta treo cổ
Còn hơn sống hạ liệt
nghĩa là bà thấy tâm còn thương ghét giận hờn là hạ liệt, đâu phải là cuộc sống cao thượng, biết như vậy mà bà li không được do bà không dùng pháp hướng. Cho nên khi chứng rồi, bà mới thấy chính phải như lí tác ý, chứ không như lí tác ý thì không dẹp tâm hạ liệt được. Cứ tác ý ám thị như vậy thì tâm vô lậu sẽ đến chứ có gì khác hơn.
Làm chắc dây thòng lọng
Ta cột ở cành cây
Quàng thòng lọng quanh cổ
Tâm ta liền giải thoát
Bài kệ đã ghi lại trong kinh rõ ràng như vầy mà không được ai khai triển cho chúng ta học pháp tu hành. Còn bây giờ nhờ kinh nghiệm tu tập qua pháp hướng, Thầy biết pháp tác ý là pháp ám thị, do đó Thầy khai triển pháp của Thầy đã tu ra, thì nó hoàn toàn đúng với pháp Phật đã dạy cho các bậc Thánh Tăng ngày xưa. Các bậc Thánh đã đạt kết quả là do pháp hướng.
5.- Bây giờ Thầy nhắc lại gương của bà Patàcàrà (Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc). Khi bà đến với Đức Phật với tâm trạng đau buồn vì hai đã con chết, chồng cũng chết, cha mẹ và người em trai cũng chết, nghĩa làđồng thời chỉ trong một ngày cả gia đình của bà chết tan nát, riêng mình bà còn sống. Đức Thế Tôn dùng kệ khuyên bà:
Nước bốn biển ít hơn
Nước mắt của loài người
Khóc than vì đau khổ
Vậy sao nàng hủy hoại
Sanh mạng của chính mình,
Trong khóc than sầu khổ!
nghĩa là bà đang ở trong cảnh đau khổ, hai đứa con chết, chồng chết, cha mẹ và em trai đều chết thì làm sao ba không khổ, vì vậy Đức Phật trách bà sao quá ngu si khóc than như vậy là tự giết mình. Nghe kệ xong, bà nguôi được cơn đau buồn, bậc đạo sư dạy tiếp:
Các con, cha, bà con
Không phải chỗ nương tựa
Khi thân hoại mạng chung
Bà con huyết thống ngươi
Không thể che chở ngươi
Thấy được sự thật này
Kẻ trí sống giới đức
Và mau chóng thành tựu
Con đường hướng Niết bàn
Đức đạo sư lại dạy tiếp:
Người sống một trăm năm
Không thấy pháp sanh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt
Nghĩa là Ngài an ủi và khuyên cho bà bớt buồn được rồi, bà hiểu được rồi, thì Ngài bảo lấy giới mà sống, khi đã sống với giới đức được rồi thì người đó phải dùng định vô lậu quán xét sự vô thường, sự sanh diệt của các pháp nên Đức Phật dạy 4 câu kệ cuối trên.
Tuy biết thân này vô thường sanh diệt liên tục, mà chúng ta không sợ hãi, không lắng tu hành, coi như là dù sống 100 tuổi mà không biết pháp sanh diệt, như vậy chúng ta chưa phải là người biết pháp sanh diệt vì chúng ta chưa dám bỏ của cải, chưa dám li gia đình, hôm nay là của mình nhưng ngày mai là của người khác, thế mà chấp là của mình ôm giữ nó hoài, nó đâu phải là pháp thường còn. Cho nên có ông Trang Tử đánh trống vổ bụng ca hôm nay là vợ của mình nhưng khi mình chết thì vợ của người khác. Tài sản hôm nay mình làm ra chưa chắc mình tiêu xài nó mà còn chuốt hại vào thân, cho nên Đức Phật dạy:
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt
Khi một người hiểu được Phật pháp rồi thì rất sợ pháp sanh diệt. Các pháp sanh diệt là tất cả các pháp chung quanh chúng ta, cho nên chúng ta phải ra khỏi cho mau vì còn một phút giây nào là đau khổ, cho nên bỏ thân là giải thoát hết đau khổ vì thân là pháp sanh diệt. Khi nghe kệ của Đức Phật xong, bà đặt các pháp vô thường thành pháp hướng và quán pháp hướng đó tu tập định vô lậu, chứng quả Alahán. Quý thầy thấy khi nghe Phật cho mấy câu kệ sau cùng thì bà biết đó là pháp hướng của bà, còn chúng ta nghe, chúng ta chưa biết là pháp hướng đâu, nhưng Thầy giải thích ra thì quý thầy mới biết quả thật đó là pháp hướng, cho nên hằng ngày bà tu định vô lậu quét sạch tâm của bà, nên chứng quả Alahán. Sau khi chứng quả, bà có làm bài kệ nói lên chỗ tu tập của mình:
Với cày, cày ruộng đất,
Gieo hột giống trên đất,
Loài Người được tài sản,
Nuôi dưỡng vợ và con.
Sao ta, giới đầy đủ
Làm theo Ðạo Sư dạy,
Lại không chứng Niết-bàn,
Không nhác, không dao động.
Khi ta đang rửa chân,
Làm cho dòng nước chảy,
Thấy được nước rửa chân
Từ cao chảy xuống thấp,
Nhờ vậy, tâm được định,
Như ngựa hiền khéo luyện.
Khi để bà không buồn khổ, Đức Phật khuyên bà nên thấy các pháp thế gian không phải là chỗ nương tựa, như cha mẹ anh em... nhưng bà tu hoài theo lời Phật dạy mà sao bàkhông thấy giải thoát. Bởi giới luật Phật đã dạy sao thì bà giữ giới luật như vậy, bà đã giữ giới luật nghiêm túc như lời Phật dạy, giới nào bà cũng giữ nghiêm chỉnh nhưng sao không thấy chứng niết bàn. Nhưng một hôm rửa chân xong bà đổ nước ra khỏi chậu, thấy được nước từ chỗ cao chảy xuống chỗ thấp, bà nghĩ dòng nước sẽ chảy hoài tức là vô thường, là pháp sanh diệt, do đó bà ngộ nghĩa của bài kệ trên, nên đặt thành câu thiền quán vô lậu để quét sạch các lậu hoặc. Khi nghe Đức Phật nói nhưng bà chưa hiểu, chưa thấu đạt lí vô thường, mãi đến khi thấy dòng nước chảy bà mới hiểu dòng nước là pháp pháp sanh diệt. Khi ngộ được thì tâm bà được định tỉnh từ đó bà tiếp tục tu thêm:
Rồi ta cầm cây đèn,
Bước vào ngôi tịnh xá,
Nằm trên chiếc giường nhỏ,
Ta nhìn quán ngọn đèn.
Rồi lấy cây kim nhỏ,
Dìm tim đèn xuống dần,
Thấy cây đèn Niết-bàn,
Tâm ta được giải thoát.
Ngọn đèn đang cháy, bà lấy cây kim dìm tim đèn xuống dần trong dầu cho đến khi ngọn đèn tắt thì bà thấy ngay đó là dòng sanh diệt đã hết.
Quý thầy thấy người ta tu hành quán xét từng chút để thấy tâm của họ thay đổi trong sự quán. Người ta rất vi tế trong sự tu tập. Đó là gương hạnh vi tế trong khi tu tập định vô lậu. Nếu chúng ta đặt một câu rồi quán thông thường thì không ăn thua gì đâu. Cho nên khi còn ở trên Hòn Sơn, Thầy ngồi quan sát sanh hoạt của loài chúng sanh làm cho tâm Thầy khởi lên lòng thương yêu chúng sanh sâu sắc. Còn quý thầy không ngồi quan sát sanh hoạt của loài chúng sanh thì làm sao khởi lên lòng thương yêu chúng sanh được. Nêu muốn quan sát vô lậu thì phải quan sát những sự kiện thay đổi. Sự thay đổi làm chúng ta hiểu sâu các pháp, nhờ vậy chúng ta chứng cái lí vô thường. Nếu quý thầy chỉ lập lại những gì ghi chép thì làm sao chứng lí vô thường. Cho nên Thầy thấy bà Patàcàrà thật là hay, trong hành động bình thường mà phá vở lậu hoặc. Khi Thầy giảng bài kệ này cho quý thầy thì quý thầy cũng chỉ nhai bả mía thôi, nghĩa là quý thầy vẫn còn lậu hoặc nhớ nhà cửa anh em cha mẹ.
Đến đây chúng ta đã học được những gương hạnh của các bậc thánh tăng và thánh ni trong thời Đức Phật.
Để bổ túc phần giới hạnh và giới đức, quý thầy hãy lắng nghe kỹ phần này để biết mà trau dồi thân tâm đầy đủ giới hạnh và giới đức giúp cho quý thầy không còn vi phạm lổi lầm nhỏ nhặt nữa, để tâm trọn vẹn lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp thế gian, để tâm sống thanh thản trong cảnh giới an lạc mà các bậc thánh đang thọ hưởng, đang sống thầm lặng trong cảnh giới của giới hạnh và giới đức đã viên mãn đó.
Bây giờ quý thầy hãy lắng nghe những câu hỏi và các câu trả lời để truy tìm cái gốc tội lổi, ngỏ hầu dùng giới hạnh và giới đức diệt trừ gốc khổ của loài người. Mặc dù trong kinh có nói lòng tham muốn do tâm dục là gốc khổ, nhưng chúng ta cần truy tìm sâu xa hơn để biết những chi tiết rất nhỏ, nếu không, chúng ta không biết cách diệt trừ khổ hay lòng ham muốn của chúng ta.
1.- Thương ghét do đâu sanh ra? - Thương ghét là do tham dục mà sanh ra. Chúng ta có thương thì cũng do tham dục, mà có ghét thì cũng do tham dục. Mà có thương có ghét thì mới có tham lam và ganh ghét, có tham lam và ganh ghét mới có đánh đập và oán thù.
2.- Tham dục do đâu sanh ra? - Do tưởng sanh ra. Mình tưởng chứ đâu có thật. Tưởng đẹp, tưởng xấu,... tất cả đều do tưởng. Người hết tưởng thì không còn tham dục, cho nên người tu thiền định phải dẹp tưởng, dẹp tưởng xong thì hết dục.
3.- Tưởng do đâu sanh ra? Phật trả lời: Tưởng do điệu hí sanh. Quý thầy có biết "điệu hí" là gì không? Hí là thích vui. Điệu hí là các kiểu cách làm cho vui, như thấy người ta đá bóng tròn, thấy người ta đánh cờ tướng rồi mình cũng nhào vô; thấy người ta đánh bạc rồi mình cũng nhào vô; thấy người ta uống rượu rồi mình cũng nhào vô,... đủ cách làm chúng ta vui, gợi cho chúng ta vui thích, cho nên gọi là điệu hí. Tưởng các cái đó là vui.
4.- Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hí, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng, hay không từ bỏ điệu hí vẫn có thể an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Đức Phật nói: Tu sĩ không trừ hết điệu hí mà an trú trong cảnh tịch diệt thì sao được. Nghĩa là mình còn ham vui thì làm sao an trú trong cảnh tịch diệt được. Vì thế gian có nhiều cõi, chúng sanh được y cứ theo cảnh ấy và giữ gìn chắc chắn không thể rời bỏ, họ cho đây là thật, ngoài ra là hư dối. Nghĩa là người thế gian chấp cứng trong những cái vui đó, những điệu hí đó, cho nên người ta cho những điệu hí đó là hạnh phúc của họ, ngoài ra thì không thật, hư dối hết. Cảnh giới đó là dục lạc của họ, thích thú của họ mà thôi, cho nên người muốn được an trú trong cảnh tịch diệt thì phải ngưng trừ hết các điệu hí. Tu sĩ không trừ hết điệu hí, thì không sao an trú trong cảnh tịch diệt được.
5.- Vậy có bao nhiêu điệu hí? Đức Phật trả lời: có 3 điệu hí: điệu hí về khẩu; điệu hí về tưởng; điệu hí về mong cầu. Một người còn vui theo còn thích nghe nói chuyện là điệu hí về khẩu. Thích nghe người khác kể chuyện đông chuyện tây, nghe kể chuyện cổ tích: đó là điệu hí về tưởng; là điệu hí về mong cầu.
Điệu hí về khẩu một là hại mình, hai là hại người, ba là hại cả hai. Trong điệu hí có những cái hại, khi nói ra có thể hại mình, hai là nói ra hại người, ba là nói ra bị hại cả mình lẫn người. Nếu xả bỏ lời nói hại mình, hại người, hại cả hai; nói lời chân chánh, ngay thật không hại mình không hại người không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn, thành vô lậu. Khi nói ra mà lời nói của mình hại mình, hại người, hại cả hai thì không được nói, nói làm sao cho lời nói đúng như thật không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì chuyên niệm, tâm không tán loạn thành vô lậu. Lời nói mà không hại ai hết là không nói, là độc cư cho nên tâm không tán loạn thành ra vô lậu. Nói ra là làm tâm bị tán loạn. Đó là diệt trừ điệu hí về khẩu. Diệt điệu hí là diệt lòng tham. Vậy chúng ta sống độc cư thì không hại mình, không hại người, không hại ai hết nên tâm không tán loạn thành ra vô lậu.
Điệu hí về tưởng cũng có ba: một là tưởng mà hại mình, hai là tưởng mà hại người, ba là tưởng mà hại cả hai. Nếu xả bỏ tưởng ấy và dùng tưởng như thật không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì chuyên chú, nhớ mãi không quên, sáng suốt thành vô lậu. Đức Phật dạy ta ngồi đừng tưởng tầm bậy. Không tưởng tầm bậy thì có hại ai đâu. Ngồi mà không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì lúc đó làm gì có tưởng, mà không tưởng thì chuyên chú nhớ mãi chứ gì. Nhớ mãi cái gì? Nhớ cái tâm thanh tịnh yên lặng thanh thản đó thôi, cho nên sáng suốt vô cùng, thành vô lậu. Đúng không? Như vậy là mình phá cái tâm tham dục của mình dễ dàng, đâu khó gì. Biết chắc như vậy thì ngồi đừng tưởng. Ngồi mà tưởng nhớ nhà là điệu hí rồi, nhớ cái này nhớ cái kia là điệu hí rồi. Đức Phật dạy cho chúng ta biết rõ những tâm niệm của ta thuộc loại nào. Nếu Thầy không giảng cái này ra thì thật là phí lời của Phật đã dạy, Phật đã giảng như vậy mà ngày nay người ta bỏ hết, nói mênh mông ở đâu thôi, mà người ta không dạy cho chúng ta biết các cái này để chúng ta được tâm vô lậu. Mà chúng ta thấy cái này rồi thì chúng ta biết tâm tư của mình đang ở đâu, nó đang ở tưởng điệu hí, đang nói gì thì biết nó đang ở khẩu điệu hí. Tâm mình không hại mình, hại người, hại cả hai, như vậy là tâm mình phải đang ở trong chánh niệm của mình, tức là nó thành vô lậu. Tưởng cũng như vậy, cho nên tâm cũng thành vô lậu.
Điệu hí về mong cầu cũng có ba điệu hí: hại mình, hại người, và hại cả hai. Nếu xả bỏ sự mong cầu ấy và mong cầu đúng cho thật, không hại mình, không hại người, không hại cả hai; sự mong cầu đúng như thế sẽ chuyên chú nhớ mãi không quên, thành vô lậu. Sự mong cầu mà không hại mình, không hại người, không hại ai hết thì sự mong cầu đó là mong cầu gì, quý thầy biết không? Đó là mong cầu sự giải thoát nơi tâm của mình, không có ai dính vào trong tâm của mình, thành ra vô lậu, có gì đâu. Khi tâm có mong cầu gì thì mình biết liền, mà nó không mong cầu gì thì tâm ở trong sự thanh thản, ở trong sự an ổn thì đó là vô lậu.
Như vậy chúng ta đã thấy được nguồn gốc những điệu hí để chúng ta tu về định vô lậu, quét sạch tâm tham dục của chúng ta.
6.- Bậc thánh hiền xả thân có ba: 1/ hỉ thân. 2/ ưu thân. 3/ xả thân. Bây giờ là giai đoạn của các bậc thánh hiền tu tập. Hồi nãy là giai đoạn của phàm phu là chúng ta có những điệu hí. Bậc thánh hiền không còn vui điệu hí như chúng ta nữa, nhưng có ba cái xả: hỉ thân, ưu thân và xả thân.
Hỉ thân cũng có ba: hại mình, hại người, và hại cả hai. Bởi khi mình đã đứng vào trong những bậc thánh hiền rồi thì hãy coi chừng cái thân của mình, nó cũng có thể hại mình, hại người, và hại cả hai. Nếu xả bỏ hỉ ấy, chỉ dùng hỉ đúng như thật không hại mình, hại người, và hại cả hai, nhờ đó chuyên chú mãi không quên. Đây là thọ cụ túc giới. Bây giờ mới thọ cụ túc giới là giới tròn đủ của vị tu sĩ. Hỉ của Tứ Vô Lượng Tâm là vui theo với mọi chúng sanh nên hỉ đó giúp ta không hại ai hết, do đó thực hiện hỉ của Tứ Vô Lượng Tâm là cần thiết cho sự tu tập, do lòng hỉ này chúng ta nhớ mãi lòng hỉ này thì đó là chúng ta thọ cụ túc giới.
Về ưu thân cũng có ba: Hại minh, hại người, hại cả hai. Ưu là sự buồn khổ trong thân của mình: thân mình đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia, lói chỗ nọ. Nếu xả bỏ ưu thân này, dùng ưu thân đúng như thật không hại mình, không hại người, không hại cả hai, đây gọi là thọ cụ túc giới. Nghĩa là chúng ta dùng cái ưu thật, tức là lấy cái đau khổ của thân mình làm cho mình khổ sở là cái sai, mà lấy cái đau khổ phiền toái của chúng sanh làm chỗ thương xót thì đó là chúng ta đã thọ cụ túc giới. Khi Thầy dạy Từ Bi Hỉ Xả quý thầy học về lòng thương yêu của mình là chỗ về ưu thân có ba không hại mình, không hại người, không hại cả hai là thực hiện tâm từ bi của mình, đó gọi là xả về ưu thân của mình, đây gọi là thọ cụ túc giới thứ hai.
Về xả thân cũng có ba: có cái mình xả mà hại mình, có cái mình xả mà hại người, có cái mình xả mà hại cả hai, cho nên mình xét mình bỏ ra mà hại người khác, thí dụ mình xả bỏ tài sản, vợ con để đi tu, lúc bấy giờ vợ con không ai nuôi không ai làm cho họ sống họ bị khổ sở. Đó là mình xả kiểu làm hại người. Con mình sanh ra còn nhỏ, chưa ai lo lắng săn sóc mà xả bỏ con đi tu thì ai nuôi nó, xả như vậy là sai, cho nên khi xả cái gì ở trong thân của chúng ta thì phải sáng suốt khéo léo, thí dụ mình chặt đầu mình cho chết đi vì nó là vô thường thì xả như vậy là xả ngu vì hại mình. Đức Phật nói kiểu xả thân mà hại mình thì đừng làm. Có một thời tỳ kheo quán thân bất tịnh thấy thân này bẩn thỉu quá nên các tỳ kheo bảo người khác đâm cho họ chết, một lúc sau Đức Phật hay được nên cấm không cho làm chuyện đó. Như vậy về xả thì chúng ta phải sáng suốt, xả không hại mình, không hại người, không hại cả hai. Đây gọi là thọ cụ túc giới.
7.- Về các căn đầy đủ trong luật nghi của hiền thánh có chừng bao nhiêu căn? Đức Phật giải thích mắt thấy sắc ta nói có hai, nghĩa là khi mắt thấy các pháp thì có hai để cho luật nghi của thánh hiền cho đúng trong chỗ căn đó. Có hai: một là đáng thân cận, hai là không đáng thân cận, nghĩa là khi con mắt thấy vật đó mà đáng thân cận hay khi con mắt thấy vật đó mà không đáng thân cận. Đó là luật nghi của Phật, khi thấy một vật gì mà vật đó gợi tâm dục của mình lên thì không đáng thân cận, còn khi thấy vật đó mà tâm dục của mình không gợi lên thì vật đó là đáng thân cận. Thí dụ trong Tu viện không ăn phi thời, chỉ ăn ngày một bữa, là đáng thân cận, thấy không còn thèm ăn phi thời là đáng thân cận, còn quý thầy thấy thèm ăn phi thời thì không đáng thân cận vì chỗ đó không phải chỗ tu. Cho đến tai nghe cũng vậy; mũi ngửi mùi cũng vậy; lưỡi nếm vị cũng vậy; thân xúc chạm cũng vậy, ý với pháp cũng vậy, nghĩa là khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận các pháp cũng có hai: gợi tâm dục hay không gợi tâm dục. Như khi nghe tiếng ca hát gợi làm cho ta tình cảm ủy mị; mũi ngửi hương; lưỡi nếm vị gợi cho ta về pháp thế gian thì không được ngửi nếm mà chỉ ngửi nếm vị cam lồ của pháp xuất thế gian.
8.- Thế nào mắt thấy sắc mà thiện pháp tổn giảm? nghĩa là khi mắt thấy sắc mà thiện pháp bị giảm xuống mà bất thiện pháp tăng trưởng lên thì không nên thân cận. Trái lại khi mắt thấy pháp nào mà thiện pháp tăng trưởng, thí dụ thấy người đói khổ mình thương, mình tìm cách giúp đở gì cho họ thì mình thân cận lòng thương đó. Còn như thấy người uống rượu rồi mình cũng uống rượu theo thì không nên thân cận lòng ham thích uống rượu đó, vì đó là áp pháp làm tổn giảm thiện pháp.
9.- Mắt thấy sắc mà thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp tổn giảm thì nên đáng thân cận. Đây là các căn đầy đủ luật nghi thánh hiền. Như vậy muốn cho luật nghi của bậc thánh hiền đầy đủ thì mình có mắt tai mũi lưỡi thân ý đầy đủ thì nên thân cận thiện pháp, không nên thân cận bất thiện pháp. Đức Phật dạy cho mình từng chút để giữ oai nghi tế hạnh trong luật nghi ở những chỗ mình phải tiếp xúc, chứ nếu không thì quý thầy bị phạm hết sao. Trong vấn đề giới luật, Thầy dạy rất kỹ trong vấn đề này để quý thầy thấy được chỗ tu tập trong giới hạnh cho nghiêm chỉnh, biết được thế nào đúng, thế nào sai trong oai nghi chánh hạnh của bậc thánh hiền.
10.- Có bao nhiêu cứu cánh? Đức Phật trả lời: Bị ái làm khổ thân tâm mà diệt được thì gọi là cứu cánh. Ái là những lòng thương ghét ham muốn. Khi thân tâm không còn khổ nữa thì gọi là cứu cánh
11.- Vậy cứu cánh có bao nhiêu? Có ba: một là cứu cánh phạm hạnh, tức là giới hạnh. Khi một người còn làm nghề nông, thầy thuốc... họ còn bận lo nhiều công việc trong các nghề đó, họ không giải thoát cho nên đó không phải là phạm hạnh. Cứu cánh thứ hai là cứu cánh an ổn, tức là giới đức. Người tu nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền, quý thầy nghĩ có an ổn không? Rất an ổn, an lạc; lúc đó họ ngồi như ngồi trên cảnh giới thiên đàng vì vậy gọi đó là giới đức. Cứu cánh thứ ba là cứu cánh vô vi, tức là giới tuệ. Ba cứu cánh này ứng với ba giới chúng ta đang học: giới hạnh, giới đức, giới tuệ.
Qua bài học này chúng ta biết được con đường chúng ta tu tập phải đi theo từng bậc nào để đi vào trong giới luật mà chúng ta đã học.
Thầy giảng thêm để quý thầy thấy con đường tu tập giới luật phải đi theo con đường nào để biết rõ ràng hơn, quý thầy phải hiểu thông suốt, chứ nếu không thì quý thầy thấy như đang ở trên mây xanh khi quý thầy bước qua con đường giới tuệ.
12.- Có bao nhiêu pháp làm cho dục lạc tăng trưởng? - Có năm. Người tu sĩ Phật giáo phải xem năm pháp này là dây xiềng xích, dây lòi tói trói chặt người tu sĩ không vẫy vùng ra khỏi. Đây là năm pháp làm tăng thịnh bất thiện pháp dục lạc trong tâm chúng ta, vậy năm pháp đó là gì? Những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mĩ miều, thích thú, hấp dẩn câu hữu với dục lạc và ái lạc. Đó là những pháp làm cho dục lạc tăng trưởng. Những tiếng do tai cảm nhận; những hương do mũi cảm nhận; những vị do lưỡi cảm nhận; những xúc do thân cảm nhận. Năm pháp này khiến cho con người mê đắm, chấp trước bị trói buộc, không nhận ra sự nguy hiểm của chúng, không nhận thức phải thoát li khỏi chúng. Ở đây Đức Phật chỉ nêu ra 5 pháp lôi cuốn trói chặt tâm ta, nhưng chúng ta đừng quên pháp này: ý. Ý trở thành kiến chấp nguy hiểm vô cùng, trói chặt chúng ta. Biết pháp đó là sai nhưng chưa dám bỏ đâu. Thí dụ mình nghĩ con đường thiền mình theo là đúng của Phật, thật sự nó sai hoàn toàn, không đúng, nhưng không bỏ được. Hay họ tu thiền xuất hồn, họ nói họ xuất hồn được rồi, cho nên từ đó họ không bỏ được. Đó là pháp làm cho họ dính mắc. Hay khi đọc sách của Krishnamurti, thấy ông ta lý luận tuyệt quá, cho nên khi họ mở miệng nói gì thì cũng có Krishnamurti, nhưng ông Krishnamurti chỉ lập luận thôi chứ không có giải thoát gì cả. Đó gọi là kiến chấp về pháp thuộc ý, cho nên lúc nào cũng nói về các kiến chấp pháp của mình. Chúng ta gọi là tà kiến, họ chấp chặt tà kiến hoàn toàn sai đó mà lý luận thì nghe siêu việt lắm. Tại vì họ thấy tà kiến đó hay nên họ bị dính nó, nó cũng làm cho họ thích thú, say mê cho nên họ bị nó trói buộc rất chặc. Mặc dù trong kinh chỉ nói có năm nhưng thật sự phải là sáu: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
13.- Có năm triền cái được gọi là màn che, là triền phược trong giới luật của bậc thánh, nghĩa là năm cái này che mất luật nghi của các bậc thánh, làm cho chúng ta không giữ trọn được giới luật của bậc thánh. Cho nên người học giới luật phải thông hiểu năm điều này. "Cái" là màn che, nó ngăn che không cho chúng ta thấy nên chúng ta phạm giới, khi chúng ta thấy được thì chúng ta không phạm. Cho nên trong luật của bậc thánh hiền khi chúng ta rõ biết 5 triền cái này thì chúng ta không bị nó che mất luật làm chúng ta phạm giới. 1.- Dục cái hay tham cái, 2.- Sân cái, 3.- Hôn trầm thùy miên cái, 4.- Trạo hối cái, 5.- Nghi cái.
Dục cái hay tham cái tức là lòng tham muốn của chúng ta ngăn che làm chúng ta phạm giới. Thí dụ khi thấy cái kẹo hay cục đường lòng tham muốn sinh ra thèm ăn khiến mình lấy bỏ vào miệng do đó phạm giới ăn phi thời. Khi có lòng ham muốn thì nó ngăn che giới luật nên mình bị phạm.
Sân cái là tâm sân hận của chúng ta giận hờn, lời nói thô lỗ, chửi mắng người là phạm giới về khẩu nghiệp.
Hôn trầm thùy miên cái khi bị triền cái này là bị ngủ phi thời, trong hôn trầm thùy miên có cái si là trạng thái của người ngu si, mà ngu si làm cho người ta vô minh, không thấy cái đúng cái sai chơn lí, cái hại cái không hại.
Khi chúng ta chấp một pháp nào đó cho là đúng là vì cái si mê của mình bị kiến chấp, như lầm chấp thân có cái ngã trong đó, có cái Phật trong đó, là lầm chấp do si mê. Si mê hiện tướng ra hôn trầm thùy miên, cho nên người ngu si là người ham ngủ. Những người thường ngủ gà ngủ gật thì đối với Phật pháp tu hành họ là người ham ngủ, không thông minh, họ là người ngu si, họ không thấy đúng chơn lí giải thoát mà họ thường chạy theo dục lạc.
Trạo hối cái là những loạn tưởng, vọng tưởng liên tục từ chuyện này đến chuyện khác không dứt, nó che mờ tâm họ khiến cho họ không thấy họ đang bị dày vò trong đau khổ.
Nghi cái là lòng nghi ngờ, như đến học với ông thầy mà nghi ông thầy của mình chưa tu chứng. Nghi cái che mờ làm mình không thấy nên phạm giới. Người tu sĩ bị năm triền cái này che khuất, bị trói buộc, bị triền phược, bị chướng ngại khiến cho họ phạm giới.
14.- Năm hạ phần kiết sử: 1/ Tham, 2/ Sân, 3/ Si, 4/ Mạn, 5/ Nghi. Khi nó làm thành màn ngăn che khiến ta không thấy thì gọi là triền cái, còn khi nó làm cho chúng ta bị trói buộc, bị dính mắc thì gọi là kiết sử.
Kiết sử có nghĩa là nó trói chúng ta rồi nó sai chúng ta, nó làm cho chúng ta chạy theo nó. Khi tâm tham trói chúng ta rồi nó sai chúng ta thì chúng ta bị kiết sử. Khi tâm tham làm cho chúng ta bị mờ ám, làm cho chúng ta phạm giới thì đó là dục cái. Vì tâm ham muốn nên chúng ta không rõ, làm chúng ta phạm giới. Chẳng hạn mình thấy một phụ nữ đi ngang qua rồi trong tâm mình khởi lên tâm dục, do đó mình bị tâm tham dục của mình che đi nên ý mình khởi lên thấy cô ấy đẹp. Ý đó là phạm giới. Kiết sử thì nó lôi chúng ta chạy theo cười cợt nói chuyện với cô ta. Kiết sử là nó trói mình, sai mình. Si ở năm hạ phần kiết sử, Phật còn gọi tên khác là giới cấm thủ, nghĩa là cái si làm cho mình dính mắc giữ gìn cái đó trở lại, làm cho mình không thấy, không li ra, không buông xuống được, chạy theo nó hoài mà không biết mệt mõi. Mạn ở 5 triền hạ phần kiết sử, Phật còn gọi tên khác là thân kiến nghĩa là chấp cái thân của mình có thật, trong thân có cái thật trong đó. Cho nên ở 5 triền hạ phần kiết sử, mạn không phải là ngã mạn, cao mạn cao ngạo. Những vật chất chung quanh là năng sởcủa nó, nó trói buộc mình làm cho mình bị cái mạn này. Nghi cũng giống như ở triền cái, cái nghi này theo dõi đủ cách, lôi cuốn mình thì gọi là nghi; mà kiết sử thì nó lôi mình đi theo sự nghi đó không bao giờ rời.
15.- Năm thượng phần kiết sử: 1/ Sắc tham, 2/ Vô sắc tham, 3/ Mạn, 4/ Trạo cử, 5/ Vô minh. Vô minh phải hiểu là si. Hôn trầm thùy miên ở hạ phần liết sử là giới cấm thủ tức là bị dính mắc không rời được, bị si dính chặt trong giới đó, cho nên cái si này bi vô minh làm mờ mịt không thấy cứ cho đó là sắc của mình, như Thân kiến bị giới cấm thủ của cái si cho nên mình coi nó là thật, ai nói gì cũng chẳng nghe là mình bị si là bị giới cấm thủ. Còn ở 5 thượng phần kiết sử Sắc tham nghĩa là có một hình ảnh sắc tướng nào đó làm cho mình chạy theo sắc đó, trói buộc mình chạy theo sắc đó tức là tham; vô sắc tham tức là ngồi mình tưởng tượng ra hình sắc này kia và thích thú trong đó, đó là kiết sử vô sắc tham. Mạn là cao ngạo, coi mình là trên hết, kiêu mạn, chứ không chỉ là thân kiến như trong hạ phần kiết sử. Mạn có nghĩa là cao ngạo, không chấp nhận; trạo cử là lăng xăng nghĩ chuyện này chuyện kia lung tung trói buộc nhau trong cái tùy miên các suy nghĩ thì gọi là trạo cử của kiết sử (hạ hay thượng phần kiết sử); vô minh là si, si vô minh thì cũng giống như các si kia, vô minh ở 5 thượng phần kiết sử này thể hiện qua chỗ vô minh mê mờ không thấy rõ chơn lí giải thoát của đạo Phật, còn cái si ở hạ phần kiết sử là hôn trầm thùy miên, là sự ngu si của mất tỉnh thức, không sáng suốt. Còn si ở đây không phải là vô minh, có thể có minh kiểu của nhà bác học, kiểu của tiến sĩ,... thông minh về mọi mặt của thế gian, chạy theo cái danh cái lợi của thế gian, nhưng không thông minh về con đường giải thoát của đạo Phật, không có trí tuệ hiểu biết 4 chơn lí khổ tập diệt đạo của Phật cho nên họ không giải thoát được họ. Vô minh ở 5 thượng phần kiết sử gọi là si, không phải si là ham ngủ, làm biếng của triền cái.
Về phần kiết sử gọi chung thì Đức Phật cho có 7 kiết sử: 1/ Ái kiết sử, 2/ Sân kiết sử, 3/ Kiến kiết sử, 4/ Nghi kiết sử, 5/ Mạn kiết sử, 6/ Ngũ tham kiết sử, 7/ Vô minh kiết sử. Như vậy 7 kiết sử này gồm chung của 5 hạ phần kiết sử và 5 thượng phần kiết sử (Ái kiết sử là dục tham kiết sử, hữu tham kiết sử là có khởi một lòng ham muốn).
16.- Bảy tùy miên: 1/ Dục ái tùy miên là lòng thích thú miên man trong đó, nó kéo dài thời gian miên miên trong đó. Người có tâm dục ái miên man trong hình ảnh các cô gái khiêu gợi họ, họ không bao giờ rời khỏi các hình ảnh đó, làm cho họ bị miên man trong xúc dục. 2/ Sân tùy miên: sân liên tục, kéo dài thời gian miên miên trong đó, khiến cho bị phiền não hoài hoài. 3/ Kiến tùy miên: chấp cái gì mình cho là đúng, luôn luôn cho ý kiến của mình luôn luôn là đúng, không thoát ra khỏi tà kiến đó, cho chỉ có mình là đúng thôi. 4/ Nghi tùy miên cũng vậy, nghi ai là giữ cái nghi đó cho tới chết không rời. 5/ Mạn tùy miên: cũng vậy, ngã mạn cống cao, lúc nào cũng nghênh mặt khinh đời, coi thiên hạ không ra gì. 6/ Hữu tham tùy miên: là lòng ham muốn liên tục, thấy cái gì cũng tham. 7/ Vô minh tùy miên: là luôn luôn lúc nào cũng không hiểu biết gì hết, cái gì cũng chấp, cái gì cũng dính, cái gì cũng mắc hết trong đầu.
Đó là phần chúng ta học các từ để chúng ta biết tâm chúng ta rơi vào trạng thái nào của 5 triền cái, của 5 hạ phần kiết sử hay 5 thượng phần kiết sử, hay của 7 tùy miên nhờ vậy chúng ta diệt trừ.
1/ Thánh Định Vô Lậu, làm cho lậu hoặc chúng ta hết sạch cho nên gọi Thánh Định Vô Lậu.
2/ Thánh Định Sơ Thiền còn gọi là Định Chói Sáng hay Định Sáng Suốt. Thầy thường bảo các thầy ngồi giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự Sơ Thiền vì có li dục li bất thiện pháp mới nhập được Sơ Thiền, mà có nhập được Sơ Thiền thì ngồi mới thanh thản, không thì làm sao thanh thản được cho nên Định Chói Sáng hay Định Sáng Suốt là cái Định Sơ Thiền mà ở đây Phật gọi là Thánh Định Sơ Thiền chứ không phải phàm phu mà nhập được định này đâu.
3/ Thánh Định Nhị Thiền nghĩa là diệt tầm tứ không tác ý không phải là việc dễ làm mà chỉ bậc thánh mới làm được.
4/ Thánh Định Tam Thiền chỉ có bậc thánh mới ngưng tất cả trạng thái của ma tức là 18 trạng thái của tưởng. Mỗi trạng thái của tưởng khởi lên làm cho chúng ta có niềm vui mừng nhưng phải li các trạng thái vui mừng này ra cho nên Phật bảo "Li hỉ trú xả". Mỗi trạng thái của tưởng khởi lên làm cho thân chúng ta đang bị đau khổ (vui mừng) dày vò, do đó chúng ta phải li cho được mới nhập vào trạng thái Tam Thiền, mà li 18 trạng thái tưởng này cho nên mới gọi là Thánh Định. Thậm chí như giấc mộng chiêm bao cũng phải li sạch ra, còn có mộng thì chưa nhập Tam Thiền được, cho nên dù trong giấc ngủ người đó cũng phải tỉnh, khi không tỉnh sẽ có chiêm bao như vậy chưa li được trạng thái tưởng cho nên không thể nhập được Tam Thiền. Người tu diệt được 18 loại tưởng này thì không còn mộng mị, mà muốn không còn mộng mị thì ngủ phải tỉnh thức chứ không còn ngủ mê như người phàm phu. Cho nên người này không có sự sai khác giữa lúc ngủ và lúc tỉnh thức, nghĩa là lúc nào cũng phải tỉnh thức.
5/ Thánh Định Tứ Thiền là lúc này hơi thở ngưng hoàn toàn. Đây là chỗ thanh tịnh nhất mà chúng ta thực hiện được Tam Minh. Không phải phàm phu có thể nhập được Tứ Thiền nổi, không thể ngưng hơi thở, không thể ngưng các hành đang co bóp, đang hoạt động trong cơ thể mà không chết, chỉ có bậc thánh mới làm được việc này, đó là chỗ làm chủ được sự sống chết của thân. Cho nên muốn bỏ thân này thì người này phải nhập Tứ Thiền.
6/ Thánh Định Diệt Thọ Tưởng, khi quý thầy nhập được định này thì mới giữ được thân của quý thầy ngàn năm không bị hoại diệt, trong khi Thánh Định Tứ Thiền chỉ giữ thân của quý thầy trong thời gian 49 ngày, nếu quá 49 ngày thì cái thân của quý thầy bị hoại diệt vì cái thức còn ở trong thức thức để sử dụng cái biết để trở về trí tuệ tam minh của nó, tức là cái giới tuệ cuối cùng, cái thức chưa li khỏi thân ngũ uẩn, không thể giữ thân lâu ngày mà chỉ 49 ngày thôi. Cho nên khi chúng ta nhập Tứ Thiền được 49 ngày thì tự cái thân của chúng ta phải phục hồi sự sống lại chứ không ở trong Tứ Thiền lâu hơn, chúng ta không sợ bị chết trong khi nhập Tứ Thiền. Còn Diệt Thọ Tưởng Định giúp cho người nhập định này giữ thân cả trăm, cả ngàn năm bất hoại không thối, không hao mòn, không có vật gì phá hoại cơ thể này được, tất cả mọi bộ phận cơ quan trong cơ thể đó ngưng hoạt động, cả ý căn cũng ngưng, còn Tứ Thiền thì bộ óc (ý căn) vẫn còn hoạt động, phần ý thức vẫn còn hoạt động nhưng các phần khác (như phần ý thức, phần tưởng thức của bộ óc) đều đình chỉ. Có phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy Định Tứ Thiền ý căn của chúng ta còn hoạt động trong phần ý thức chứ không hoạt động trong phần tưởng thức. Còn Thánh Định Diệt Thọ Tưởng thì ý căn ngưng hoạt động hoàn toàn cho nên Phật bảo nhập Thánh Định Diệt Thọ Tưởng thì ý hành phải ngưng, phải tịnh chỉ.
Ở đây Phật dạy chúng ta có 10 loại thiền định trong khi mọi người dạy chúng ta chỉ có một loại thiền định. Con đường của đạo Phật không phải chỉ có một loại định mà hoàn tất sự giải thoát của chúng ta, chúng ta phải tu cả 10 loại định chứ không bỏ một loại định nào. Cho nên hiện giờ quý thầy tu hơi thở cũng tốt, mà tu làm mọi công việc biết làm mọi công việc cũng tốt, mà tu phòng hộ sáu căn cũng tốt,... mỗi giới luật quý thầy học được và giữ được cũng đều nằm trong 10 loại định này. Chúng ta chỉ bị tu sai khi bị lạc vào trạng thái của tưởng khiến cho thân bị rối loạn trở thành điên khùng, trở thành bịnh thiền. Chỉ từ Nhị Thiền đến Tam Thiền, đoạn đường này quý thầy mới bị lạc vào thiền ma khiến trở thành thân bịnh, tâm bịnh mà thôi. Nếu đoạn đường Nhị Thiền đến Tam Thiền quý thầy vượt qua 18 loại tưởng của tưởng uẩn thì quý thầy sẽ được an toàn trên đường tu không còn sợ gì hết. Người ta điêu đứng và chết trong đoạn đường Nhị Thiền đến Tam Thiền này mà không đi đến đâu được.
Gồm chung 10 loại định
này gọi là giới đức còn gọi là giới tâm hay thiền định cũng được gọi là trung thiện bởi nó đứng ở vị trí nào thì nó có tên xứng hợp với vị trí đó, nghĩa là chúng ta phải hiểu khi 4 loại định này đứng trong vị trí của định thì được gọi là thiền định, đứng trong giới luật thì gọi là giới đức, đứng trong các pháp thiện nhân quả thì được gọi là trung thiện, nói chung nó có tên chung là đức giới thanh tịnh tâm, nó làm cho tâm chúng ta tịnh và định tỉnh sáng suốt.
8 giới tuệ như trong kinh Sa Môn Quả dạy thì chưa đủ mà phải có 13 giới tuệ, cho nên Thầy phải nói rõ 13 giới tuệ này ra sao: 1- Như ý túc có 4 giới tuệ, 2- Lục thông có 6 giới tuệ, 3- Tam Minh có 3 giới tuệ. Cho nên phải có 13 giới tuệ mới đủ.
Trong kinh Sa Môn Quả nói khi người đạt được thiên nhĩ thông siêu nhân thì nghe tiếng nói của chư thiên và loài người ở xa hay gần rõ ràng như khi ta nghe tiếng trống kèn đang có trước mặt, như vậy Đức Phật chỉ nêu lên một trong 6 lục thông để nói lên giới tuệ cho gọn chứ nếu nói đủ thì phải 6 của lục thông. 13 giới tuệ này được gọi là trí tuệ viên mãn.
Nếu so sánh thì ngoại đạo có lục thông, ta cũng có lục thông mà còn có thêm 4 như ý túc trong khi ngoại đạo không có 4 như ý túc này và cũng không có tam minh nữa. Ngoại đạo luyện tập để có lục thông bằng tưởng pháp chứ không phải bằng chánh pháp, cho nên lục thông của ngoại đạo là lục thông trong trạng thái của tưởng uẩn thực hiện ra còn lục thông của ta là ở tâm thanh tịnh, sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý do li ác pháp và li dục làm cho tâm thanh tịnh như hồ nước trong vì vậy lục thông của ta tự tâm thanh tịnh mà thông suốt ra chứ không phải do chúng ta luyện tập dùng tưởng. Vì vậy mới nói là trí tuệ viên mãn tức là đầy đủ trọn vẹn không thiếu gì nữa, cũng còn gọi là trí tuệ siêu việt nghĩa là trí tuệ này điều khiển những điều mà người ta không thể nghĩ lường được.
Khi nói trí tuệ người ta thường lầm với tri kiến. Tri là biết, kiến là thấy, tri kiến là biết thấy, nhưng không ai hiểu như vậy mà người ta cho tri kiến là trí tuệ. Người ta lấy tri kiến làm trí tuệ, nên người ta phân chia làm 3 trí tuệ, đó là cái hiểu sai của người chưa biết tu đạo Phật, cho nên trong kinh mới nói: Văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ. Ai là người nghe giảng trí tuệ thì họ phân chia làm văn tư tu tuệ; cái đó chỉ là tri kiến của chúng ta chứ không phải là trí tuệ, chỗ văn tư tu cũng chưa đạt được tri kiến giải thoát, nó chỉ ở chỗ tri kiến mà thôi, tức là nơi chúng ta tích trử, hợp lại tất cả mọi hiểu biết của người xưa người nay để thành một hiểu biết của chúng ta, gọi là văn tuệ, nghĩa là chúng ta nghe rồi tích lũy lại, từ chỗ văn tuệ chúng ta suy tư bằng cách này cách khác để làm tâm chúng ta giảm bớt sự buồn khổ, hoặc là chúng ta suy tư để tìm hiểu thêm thì đó gọi là tư tuệ. Tư duy, suy tư là cái suy nghĩ để hiểu thêm hay để thấu suốt cái gì thì chỉ là tư tuệ. Nhưng đó cũng chỉ là tri kiến của chúng ta mà thôi. Còn phần tu tuệ thì ở trong kinh dạy chúng ta lấy một sự hiểu biết như thân ngũ uẩn, thân vô thường, khổ, vô ngã... lấy sự hiểu biết đó mà tu tập làm cho thân chúng ta, tâm chúng ta không còn phiền não, không còn đau khổ nữa vì thấy thân vô thường cho nên không chấp ngã, không sợ đau sợ khổ. Cái hiểu biết về thân như thế mà tu tập làm cho thân chúng ta không sợ đau sợ khổ vì thấy cái thân vô thường,...lấy cái trí tuệ đó mà tu thì gọi là tu tuệ.
Cho nên văn tư tu là tri kiến của thế gian không cần tu tập vẫn có, không phải là trí tuệ siêu việt, trí tuệ viên mãn, nó chỉ là tri kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này mà ai cũng có, không cần tu tập để có, nhưng khi chúng ta tích lũy thì chúng ta ăn nói lưu loát hơn người không tích lũy, lịch lãm hơn người mà thôi. Đó chỉ là tri kiến góp nhặt để làm cho mọi người nghe thấy mà cho chúng ta thông hiểu kim cỗ nhiều. Do tri kiến này mà bản ngã của chúng ta ngày càng to lớn.
Vậy văn tư tu chỉ là tri kiến góp nhặt chớ không thể được liệt vào tam vô lậu học giới định tuệ của đạo Phật. Tuy nói giới định tuệ nhưng thật ra là giới vì giới hạnh là giới, giới đức là định, giới tuệ là tuệ. Người dạy giới luật không hiểu điều này nên cho giới riêng, định riêng, tuệ riêng.
Cho nên dạy giới luật rất khô khan làm cho người học giới luật thấy chán, thấy như là giáo điều khắc khổ trói buộc con người, cho nên không sống nổi với nó. Trái lại ở đây Thầy dạy giới luật là nó ở trong tam vô lậu học cho nên giới luật là giới định tuệ đem lại sự giải thoát cho con người, từ bước đầu vô giới hạnh chúng ta đã thấy giải thoát, tới giới đức chúng ta thấy cả một sự định tâm vô cùng tuyệt diệu, rồi tới giới tuệ, chúng ta không nghĩ lường được quyền lực của giới tuệ đến mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật như vậy, cho nên Thầy dạy cho quý thầy hiểu biết được giới kinh và hiểu được nhân quả của pháp môn giới định tuệ này thì Thầy phải linh động khéo léo làm cho quý thầy nghe ngày càng thích và ngày càng ham tu giới luật hơn. Còn người không hiểu được như vậy thì không bao giờ phát triển được giới luật. Dạy giới luật như Thầy thì Thầy tin rằng giới luật sẽ phục hồi rất nhanh, và mọi người khép mình trong giới luật, tiến bước trên đường giới luật để thực hiện được đời sống giải thoát, người ta không sợ khổ vì thấy đó là sự giải thoát thật sự. Giới luật hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người giúp họ làm chủ được sự sanh tử. Từ lâu chúng ta bị sanh tử làm chủ, bây giờ chúng ta đòi lại sự làm chủ bằng một cuộc cách mạng tức là thay đổi cuộc sống của chúng ta toàn bộ. Nếu chúng ta không làm một cuộc cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại quyền làm chủ sanh tử được đâu.
Mục đích của tam vô lậu học là như vậy, mà tam vô lậu học là định lực của giới luật làm cho ta thay đổi toàn bộ của cuộc cách mạng đời sống của chúng ta. Cho nên có làm cuộc cách mạng thì chúng ta làm chủ mà không làm cuộc cách mạng thì chúng ta không đạt được sự giải thoát này đâu. Vì giới đức của đạo Phật là ba pháp môn liên hoàn giới sanh định, định sanh tuệ, không thể tách rời chúng ra được, người không hiểu pháp môn này thường tách rời ra từng pháp môn giới riêng, định riêng, tuệ riêng; còn người am hiểu thì đứng trên nền tảng giới luật cả ba pháp môn này hoàn toàn là giới luật thôi. Người chưa có kinh nghiệm tu hành trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu giải nghĩa được, thường họ giải theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của Phật dạy. Họ hiểu tri kiến là trí tuệ thì rất là lầm lạc.
Người phàm phu ai cũng có tri kiến nhưng người tu đã giải thoát có còn tri kiến chăng? Xin trả lời: Không. Họ không có tri kiến phàm phu đó. Tại sao vậy? Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược, không phân biệt được tà kiến hay chánh kiến. Vậy một người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với trí tuệ (siêu việt) hay không? Xin trả lời: Không. Họ không thường xuyên sống với trí tuệ siêu việt mà chỉ khi nào cần thì họ mới sử dụng cái trí tuệ siêu việt đó. Vậy thì như thế nào? Xin trả lời: Hằng ngày họ sống với tri kiến giải thoát. Vì tri kiến giải thoát không dính mắc, không uế trược. Người phàm phu có suy nghĩ thì họ cũng có suy nghĩ nhưng họ không bị dính mắc. Khi một người tu hành xong, họ luôn luôn sống đúng giới hạnh gọi là giới hương, họ sống đúng giới đức gọi là định hương, họ sống đúng giới tuệ thì gọi là tuệ hương, họ sống đúng với tri kiến mà mọi người đang sống đang biết không lầm lẫn còn gọi là tri kiến hương, nghĩa là sống đúng với chánh pháp của Phật dạy, với sự hiểu biết đúng chánh kiến chánh pháp của Phật, thì cái đó được gọi là tri kiến hương. Họ sống đúng với tri kiến giải thoát nên còn gọi là tri kiến giải thoát hương, còn chúng ta không sống đúng với chánh pháp của Phật dạy, không sống đúng giới luật của Phật, nghĩa là chưa thành tựu gì ráo thì mình sống không đúng lời Phật dạy trong kinh thì không được gọi là tri kiến hương.
Thầy phân ra cho quý thầy thấy mùi thơm của các loại trí tuệ, các loại sống trong giới luật, cho nên giới luật đầu tiên là giới hạnh thì gọi là giới hương, giới luật thứ hai gọi là giới đức thì gọi là định hương, còn giới luật thứ ba gọi là giới tuệ còn gọi là tuệ hương, tri kiến mà chúng ta từng sống trong những lời Phật dạy gọi là tri kiến hương, còn tri kiến hằng ngày các bậc viên mãn sống thì gọi là tri kiến giải thoát hương. Hương ở đây không có nghĩa là cây nhang đốt lên có khói mà là mùi thơm của giới hạnh, giới đức, giới tuệ, của tri kiến đúng, của tri kiến giải thoát. Đó là những cây hương của giới luật.
Trong 13 giới tuệ này, giới tuệ thứ nhất dẫn tâm đến chánh trí và chánh kiến. Phải tu tập cho có giới tuệ thứ nhất từ đó mới có chánh tri kiến, là cái tri kiến hương, thì phải đạt tới giới tuệ đầu tiên lúc đó mới dẫn tâm để đạt được tri kiến đó, chứ không phải cái tri kiến tầm thường của thế gian là tri kiến tích tập, tích trử những hiểu biết của người khác là tri kiến phàm phu. Tri kiến ở đây (tri kiến hương) phải có sự tu tập trau dồi cho đến khi trong tuệ vô lậu đạt được giới tuệ đầu tiên thì đó mới gọi là tri kiến hương, Thầy phải giải thích rõ như vậy quý thầy mới biết tri kiến của mình ở chỗ nào.
Hồi nãy Thầy có nói cái tri kiến hương đó phải thông hiểu lí của Phật pháp không được chấp kiến nào hết. Ở đây Thầy giảng thêm khi chúng ta muốn đạt tri kiến hương này để thông suốt được lí Phật pháp thì người đó phải ở trong tuệ vô lậu thứ nhất của giới tuệ. Trong 13 tuệ này thì giới tuệ thứ nhất dẫn tâm đến chánh trí và chánh kiến tức là tri kiến mà hằng ngày người tu hành viên mãn trí tuệ. Khi một người mới tu học thì phải huân học hiểu biết Phật pháp để biết Phật pháp là đúng, là chơn lí, là sự thật, như nói thân là vô thường, là khổ thì đó là sự thật không sai. Nói khổ vì con người sanh ra là khổ là chơn lí không thay đổi được, nói nguyên nhơn sinh ra khổ cũng không thay đổi được, nói cảnh giới niết bàn là trạng thái tâm hồn chúng ta hết khổ, nói tám nẽo đưa chúng ta đến chỗ giải thoát thì chúng ta thấy đó hoàn toàn là chơn lí, không ai có thể thay đổi tám nẽo giải thoát này được.
Cái hiểu biết tích trử những hiểu biết đúng như vậy gọi là tri kiến, cái tri kiến này là cái tri kiến chỉ mới hiểu biết Phật pháp, chỉ mới ngộ được lí của Phật pháp chứ chưa chứng được lí Phật pháp. Còn người tu đến giới tuệ thứ nhất của tuệ vô lậu thì tri kiến này là tri kiến giải thoát, tức là cái tuệ vô lậu thứ nhất mới được gọi là tri kiến giải thoát.
Cho nên người tu viên mãn họ không sống ở trong tất cả các tuệ vô lậu mà họ chỉ sống ở giới tuệ thứ nhất của tuệ vô lậu là cái tri kiến giải thoát. Người tu hành viên mãn hằng ngày chỉ sử dụng tri kiến giải thoát này thôi, chứ không sử dụng tri kiến như tri kiến của kẻ phàm phu. Tri kiến giải thoát được nằm trong giới tuệ gọi là tuệ vô lậu. Người tu hành viên mãn sống trong giới tuệ thứ nhất này cho họ có cuộc sống không bị dính mắc, không bị đau khổ, không bị phiền toái nữa; ai có làm gì họ cũng vẫn thanh thản an nhiên, không động tâm chút nào tức là họ đang sống trong tri kiến giải thoát hay giới tuệ thứ nhất trong 13 giới tuệ.
Con đường tu hành theo đạo Phật đến đây đầy đủ giới định tuệ tức là viên mãn trên đường đi.
Niết bàn là gì? Ở đây chúng tôi không trả lời câu hỏi này.
Tóm lại, buổi học hôm nay chúng ta đã viên mãn giới luật của Phật hay nói cách khác chúng ta đã hoàn thành thiện pháp của đạo Phật và cuối cùng xin quý thầy biết rằng chúng ta chỉ biết sau đời hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống nào khác nữa, nghĩa là chúng ta được viên mãn giới định tuệ như vậy, tức là chúng ta hoàn thành được từ giới hạnh, giới đức, giới tuệ của giới luật rồi, mà có người hỏi chúng ta niết bàn là gì thì chúng ta không trả lời. Nhưng khi giảng về Tứ Diệu Đế, chúng tôi sẽ giảng về Niết bàn, còn ở đây mà hỏi về niết bàn thì không phải là chỗ để chúng tôi trả lời. Ở đây chúng tôi chỉ hoàn thành giới định tuệ, nếu chúng tôi trả lời về niết bàn thì chúng tôi còn chấp kiến niết bàn. Chúng tôi chỉ trả lời đúng như vầy "Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây, không còn có đời sống khác nữa". Người nào trả lời niết bàn như vầy hay như khác là người còn chấp ngã, chỉ mới ngộ lí Tứ Diệu Đế khi mới học Tứ Diệu Đế, chưa phải là người chứng đạt Tứ Diệu Đế. Cũng như người đã chứng quả Alahán mà nói "Tôi chứng quả Alahán" thì người đó chưa chứng quả Alahán đâu, bởi vì mình nói "chứng quả Alahán" thì mình mới ngộ thôi chứ chưa chứng. Khi mình tới đó rồi thì không thấy mình chứng nữa. Nếu còn thấy có chỗ chứng thì còn chấp ngã cho nên mới chỗ để sống, còn nếu không có ngã thì không có cái gì sống nữa.