![phattuvandao3](/images/slideshow/phattuvandao3.jpg)
Pháp Tu Cư Sĩ - Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC
GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
II.- PHÁP TU CƯ SĨ
ĐỊNH CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC
Sau khi tu tập Tứ Chánh Cần xong các thầy nên tiếp tục tu tập Định Chánh Niệm Tỉnh Thức.
Ở lộ trình Định Chánh Niệm Tỉnh Thức này các cư sĩ phải tu tập theo từng hành động việc làm của mình. Hằng ngày làm bất cứ việc gì các cư sĩchú ý việc ấy, không được sao nhãng hoặc nghĩ đến chuyện khác, phải luôn luôn chú ý hành động làm; tu trong tất cả việc làm. Đó là người cư sĩ hiện đang thực tập để bước qua một giai đoạn mới, qua một lộ trình mới, lộ trình của người tu sĩ, thì người cư sĩ luôn luôn tu tập để cho có sức tỉnh thức ở trong các việc làm của mình, cho có Chánh Niệm Tỉnh Thức ở trong việc làm đó. Điều này rất khó nhưng Thầy dạy quý vị tu hành cũng không khó đâu. Nghĩa là bây giờ mình cứ tu tập tỉnh thức theo hành động của mình, chú ý theo hành động của mình, tu sao mà đừng chút có vọng tưởng, chút có vọng tưởng. Thầy dạy cho quý thầy sẽ làm được điều đó, mà có thể giúp cho quý thầy tỉnh thức suốt ngày này sang đến ngày khác, trong mọi công việc mà không cần phải có sự tập trung quá cao độ, quá tập trung trong các hành động.
Từ trước tới giờ, người ta cũng dạy tỉnh thức nhưng không có ai tỉnh thức suốt ngày này sang đến ngày khác được, vì người ta không có cách thức tu. Cho nên từ lâu tới giờ có nhiều người dạy tu tỉnh thức trong mọi công việc, nhưng kết quả cho người ta tu mà được kéo dài từ ngày này tới ngày khác không bị vọng tưởng, không có vô ký trong đó, thì ít có ai mà làm được hết.
Quý vị nên lưu ý tu trong hành động có 2 điều cần tránh: Một là tránh suy tư chuyện khác, nghĩa là trong hành động đó mình tránh suy tư vọng tưởng ở trong đó. Đừng để vọng tưởng xen vào trong công việc đang làm. Nghĩa là vừa làm việc mà vừa nghĩ chuyện khác, tức là thiếu sự tỉnh thức trong hành động. Hành động mình vừa làm vừa nghĩ chuyện này chuyện kia thì đó là thiếu tỉnh thức rồi. Phải lưu ý phần thứ nhứt này. Thứ hai là tránh vô ký,tức là đang làm mà không nhớ cử chỉ đang làm. Lúc bấy giờ đang rơi vào trạng thái không nghĩ tưởng, đó là thiếu tỉnh thức, thiếu tỉnh giác trong việc làm.
Tu Chánh Niệm Tỉnh Thức phải biết dùng 2 pháp. Trước Thầy nêu lên 2 cái lỗi ở trong sự tu tập đó: cái thứ nhất là vọng tưởng ở trong hành động, cái thứ 2 là vô ký ở trong hành động. Hai cái đó phải tiệt trừ, phải tiêu diệt nó, không được để có trong sự tu tập. Không phải bây giờ tôi giữ tỉnh thức được năm, ba phút rồi kế đến có vọng tưởng, rồi tôi tu năm, ba phút nữa kế đến có vọng tưởng nữa. Hàng ngày tu trong công việc mà nó có vọng tưởng xen vào, thì người đó dậm chân tại chỗ, tu ngàn đời không tỉnh thức được. Tức là chúng ta phải biết tu như thế nào để làm chủ thời gian.Chúng ta tăng dần, tăng dần thời gian lên khi không có vọng tưởng xen vào, chứ không phải ngày nào cũng tu trong hành động mà lúc nào cũngđể có vọng tưởng ra vô ra vô hoài. Tu Chánh Niệm Tỉnh Thức kiểu đó là tu dậm chân tại chỗ.
Bây giờ chúng ta cho một thời gian nhất định là chúng ta tu 30 phút ở trong hành động làm, hoặc là quét sân, hoặc làm gì đó. Đúng giờ chúng ta tu, hết giờ chúng ta xả ra. Trong khi nghỉ xả, chúng ta có suy nghĩ gì thì kệ nó, nhưng khi nghỉ xong thì chúng ta tu lại.
Nhưng lúc đầu, chúng ta chỉ tu chừng 5 phút hay 10 phút mà chúng ta đạt kết quả chất lượng của tỉnh thức ở trong 5 phút hoặc 10 phút đó thôi, rồi hoàn toàn chúng ta xả nghỉ. Chứ sức của chúng ta không thể tỉnh thức suốt ngày, chúng ta không thể giữ tỉnh thức trong công việc suốt ngày được. Phải biết sức của mình. Đừng nói tôi tu trong hành động, rồi điên khùng tu suốt ngày mà lúc nào cũng có vọng tưởng ra vô. Tu như vậy mà nói là tỉnh thức là tỉnh thức gì.
Chúng ta tỉnh thức không có vọng tưởng được 5 phút, 10 phút là may lắm rồi. Lúc đầu chỉ có chừng đó thời gian với chất lượng cao như thế, rồi chúng ta tập tăng dần lên khi trong thời gian đó chúng ta vẫn có chất lượng cao và sau đó chúng ta sẽ tu siết, tỉnh thức tất cả thời gian trong mọi hành động. Suốt ngày tỉnh thức.
Bởi vì tu phải biết chứ, còn tu mà không biết, cứ tu điên tu khùng, thì tu ngàn đời, cũng nói là tu trong công việc làm, nhưng cuối cùng thì chẳng có tỉnh thức gì hết, bởi vì lúc nào cũng có vọng tưởng xen kẽ ra vô, làm sao tỉnh thức được.
Hôm nay Thầy dạy để quý cư sĩ biết cách tu tập pháp tỉnh thức. Cũng như nghe Thầy nói tu pháp Chánh Niệm Tỉnh Thức trong đi kinh hành rồi đi kinh hành lung tung, đi suốt ngày thấy chăm chăm vào bước chân. Thôi tu kiểu này là tu ngu. Tu như vậy không bao giờ có tỉnh thức. Cho nên Thầy nhìn thấy quý thầy cuối cùng tu càng ngày càng sai. Càng sai là không có sống được trong độc cư, mà nó lại xuyên qua những cái khác, cho nên Thầy nhận ra rất rõ cái điều quý thầy sai.
Bây giờ tiếp tục bài học. Tu Chánh Niệm Tỉnh Giác, vậy phải tu như thế nào? Như Thầy đã dạy là tu trong giới hạn sức của mình. Sức của mình ở mức thời gian nào thì mình chỉ nên tu tập ở trong mức thời gian đó, chớ không phải là luôn lúc nào cũng ở trong mọi hành động, mọi công việc mà mình tập tỉnh thức được liền.
Ngay trong thời gian đầu tiên mới tu, phải chọn thời gian ngắn nhất hợp với sức của mình, rồi tập làm sao cho có chất lượng cao trong thời gian đó, giữ gìn sức tỉnh thức trong mọi hành động của mình, giữ gìn sức tập trung của mình ở trong hành động đó thì sức tỉnh thức mới có.
Muốn như vậy thì chúng ta phải nương vào 2 pháp: là pháp tùy và pháp hướng. Tùy pháp là nương theo hành động. Hành động của chúng ta gọi là pháp. Hàng ngày, chúng ta lấy hành động của chúng ta làm đối tượng của pháp hành. Hằng ngày chúng ta lấy hành động đi đứng hoặc công việc đang làm làm đối tượng tu tập tỉnh thức. Đó là pháp tùy theo hành động, nghĩa là khi cái tâm chú ý vào hành động đang làm đó, gọi là tùy pháp. Về tùy pháp: ví dụ chúng ta làm công việc đó nhanh nhẹn thì chúng ta tùy theo sự nhanh nhẹn đó mà tập luyện; hay chúng ta làm công việc đó chậm chạp thì chúng ta cũng tùy theo sự chậm chạp đómà tập luyện. Như vậy là tùy pháp tự nhiên. Chứ không phải thay đổi cách làm thì cái đó làm mất tự nhiên, mình làm sai pháp hành của mình đi. Như chúng ta chú ý hành động thân của mình thì bắt đầu mình làm chậm cho thật chậm mới chú ý được, hoặc làm cho nhanh mới chú ý được. Thân hành có người thì làm nhanh, có người thì làm chậm. Như có người đi nhanh, có người đi chậm. Nhưng người đi chậm thì tùy theo pháp hành đi chậm của mình, mà tập tỉnh thức theo cách đi đó. Người đi nhanh thì cũng tùy theo chỗ đi nhanh đó mà tu tỉnh thức. Chớ không phải bắt buộc thân hành của mình thường đi nhanh mà khi tu tập phải đi cho chậm. Đi chậm như vậy thì không thể đúng cách tự nhiên của thân hành. Cho nên nhiều khi chúng ta tu mà người ta không biết chúng ta đang tu. Có người đi nhanh nhẹn thanh thoát mà khi tu riết rồi đi chậm như con rùa, thấy coi không được. Đó là những cái sai. Hay có người thấy mình đi chậm quá, cho nên lại chạy nhảy nhanh nhẹn để nương theo cái chỗ nhanh nhẹn như vượn đó để tu tập, thì đó cũng trật. Tùy theo thân hành của chúng ta, nhanh thì chúng ta tu nhanh, chậm thì chúng ta tu chậm, chớ không phải bắt buộc nó vào khuôn khổ chậm nhanh theo ý của mình được. Bởi vì đây là pháp tự nó có cái pháp của nó cho nên mình chỉ hướng theo mà thôi, nương theo mà thôi, tùy theo thân hành mà tu tập. Đó là tùy pháp theo hành động công việc làm sống hằng ngày mà tu tập sức tỉnh thức.
Còn hướng pháp là chúng ta nhắc tâm. Chúng ta tu tập thế nào cho tự nhiên, chớ không phải là tu tập theo cái kiểu thiếu tự nhiên. Muốn đạt sức tỉnh thức này người tu sĩ phải dùng pháp hướng tâm Như Lý Tác Ý. Bây giờ mình kèm theo pháp hướng tâm, mình nhắc để cái tâm của mình luôn luôn nhớ được hành động việc làm của mình. Như mình nhắc: "tôi đang làm việc gì thì tâm tôi chú ý vào việc đó", nghĩa là mình đang làm việc gì thì mình nhắc tâm chú ý theo việc đó. Ví dụ như bây giờ mình đang quét nhà, thì chú ý vào hành động đang quét nhà và hướng tâm vào việc đang quét nhà. Hay mình dùng câu pháp hướng: "tôi đang quét nhà" bây giờ mình đang quét nhà nên nhắc tôi đang quét nhà như vậy. Nghĩa là nhắc cái tâm nhớ hành động đang quét. Như đang nấu cơm thì nhắc "tôi đang nấu cơm." Đó là những thân hành mình cần hướng theo để giúp cho ý thức của mình tỉnh thức trong hành động của thân, không bị thất niệm, lúc nào cũng ở trong chánh niệm của thân. Cho nên chánh niệm là hành động của thân. Vì chúng ta lấy hành động của thân để làm cho sức tỉnh giác của chúng ta có. Cho nên lúc này, chánh niệm không phải là cái niệm nào mà tâm thông suốt, mà chính hành động đang làm là chánh niệm đã đặt ở trước mắt của chúng ta, trước ý của chúng ta. Cái đó gọi là chánh niệm. Mà chánh niệm luôn luôn lúc nào cũng biết hành động của thân thì nó là tỉnh giác hay là tỉnh thức.
Hiểu như vậy thì chúng ta biết chánh niệm là cái niệm gì. Cái niệm hành động, cái niệm đang làm cái gì đó, đang làm công việc gì đó. Đó là cái niệm. Cái niệm đang hiện tiền trước mặt mình, đó gọi là chánh niệm, chớ không phải mình đặt cái niệm khác vào chỗ đó được, hay là mình đặt hơi thở vào chỗ đó được. Chánh niệm ở trên hành động thì phải là cái hành động chớ không phải hơi thở. Nếu chúng ta đặt cái niệm đi kinh hành, thì không được vừa biết chân đi mà cũng vừa biết hơi thở. Như vậy là chúng ta đã đặt hai cái niệm một lượt, làm như vậy là sai. Đó không phải là chánh niệm, mà đó là niệm đôi, có một lúc hai cái niệm, thì trật. Cho nên khi đi, chúng ta chỉ có biết mình đi kinh hành mà thôi, như vậy mới có chánh niệm. Lúc bấy giờ nó tỉnh giác ở trong chánh niệm đi đó, cho nên mới gọi định này là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Hiểu như vậy thì chúng ta không có đi hàng hai, không có đặt sai cái niệm. Nếu trong khi đi kinh hành mà có niệm nhớ gì nghĩ ở trong đầu thì cái đó là sai, tại vì khi nhớ nghĩ là có cái niệm khác chứ không phải chỉ có niệm hành động của chúng ta, cho nên lúc đó đâu có chánh niệm, bởi vì cái niệm nhớ nghĩ đó không phải là niệm mình đặt, nên nó là tà niệm. Đi trên hè phố thì nhắc: tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó là khi mình đang đi trên hè phố thì mình nhắc tôi biết tôi đang đi trên hè phố. Đó là pháp hướng để cho nhớ chánh niệm là mình đang đi trên hè phố.
Đó là chúng ta hướng tâm để cho cái tâm, cái ý chúng ta lúc nào cũng tỉnh thức trên hành động chúng ta đang làm. Hành động đang làm đó là chánh niệm. Mình nghe chánh niệm rồi mình đem cái chánh niệm nào đó vô chỗ này thì sai. Như nghe chánh niệm mà chúng ta nói: đời là khổ là cái niệm chơn chánh của chúng ta. Nói như vậy là sai đi, nó thuộc về cái loại khác, nó thuộc về cái loại định khác chứ không phải là định chánh niệm tỉnh thức ở đây. Mình phải hiểu được cái chánh niệm trong khi đi kinh hành là cái niệm nào.
Mà thất niệm, tức là mất cái niệm đó đi, là thất niệm. Thí dụ mình đang đi kinh hành mà mình quên mình đang đi kinh hành là bị thất niệm. Thầy giải thích như vậy để quý thầy thấy rõ chỗ thất niệm, để chúng ta biết chỗ chúng ta tu đúng hay là sai. Thí dụ như một người đang tu định vô lậu, đang quán thân bất tịnh, bỗng dưng nhớ chuyện gì khác, như quán câu kinh ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm, suy nghĩ về câu đó, như vậy là thất niệm. Trong khi đang quán bất tịnh của cái thân này mà lại có cái niệm nói về tâm của mình như thế này như thế khác ở trong kinh điển; đang có cái chánh niệm là quán thân bất tịnh mà quên quán thân, lại nhớ một câu kinh nào đó thì việc nhớ câu kinh là thất niệm quán thân bất tịnh. Nó là cái tà niệm chứ không phải chánh niệm của người đang tu pháp môn vô lậu. Phải hiểu mặc dù niệm đó không phải là niệm thế gian, nhưng nó vẫn là niệm không đúng vị trí nó đứng mà mình đặt niệm đó ngay chỗ mình đang tu pháp vô lậu, nó không đúng cái pháp, do đó niệm đó thuộc về tà niệm chớ không phải là chánh niệm. Khi niệm như vậy xen vào thì đương nhiên người tu hành đó bị thất niệm vô lậu lúc đó.
Đang súc miệng thì nhắc: tôi biết tôi đang súc miệng. Đang ăn cơm thì nhắc: tôi biết tôi đang ăn cơm. Đang nhai thực phẩm: tôi biết tôi đang nhai thực phẩm. Như vậy là lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức ở trong cái chánh niệm của hành động đang làm. Đang mặc áo thì cũng nhắc: tôi biết tôi đang mặc áo. Nhắc như vậy tức là pháp hướng của mình kèm theo để cho mình biết hành động của mình đang xỏ tay vô cái tay áo, rồi đang gài nút. Đó là nhắc cho chúng ta biết chúng ta đang làm cái việc đó trong hiện tại. Cho nên ý chúng ta luôn luôn bị pháp hướng nhắc nhở khiến nó không chạy ra khỏi cái chánh niệm đang làm của thân nó, luôn luôn lúc nào nó cũng ở trong cái chánh niệm của nó.
Như vậy hôm nay quý cư sĩ đã biết chánh niệm là cái niệm gì khi chúng ta đã đặt nó trước mặt của chúng ta. Cho nên Phật bảo mình đang ngồi tu cái định nào thì mình cứ đặt cái niệm đó trước mặt. Như bây giờ mình đặt niệm chánh niệm tỉnh thức về hành động, thì mình phải đặt cái hành động đó trước mặt của mình. Luôn luôn phải biết giữ niệm hành động đó, đừng cho thất niệm, như vậy chúng ta mới có sức tỉnh thức, tỉnh giác cao. Còn nếu bị thất niệm thì không có sức tỉnh giác cao đâu.
Đó là người tu định Chánh Niệm Tỉnh Giác luôn luôn dùng pháp tùy và pháp hướng để giúp cho tâm kéo dài thời gian tỉnh giác ra. Quý cư sĩ cứ nhắc vậy thì nó kéo dài thời gian tỉnh thức ra. Nhưng như vừa rồi Thầy nhắc quý cư sĩ là chúng ta phải khéo, vậy phải khéo như thế nào? Vì cái sức tỉnh thức của chúng ta không thể kéo dài từ giờ này đến giờ khác đâu, cho nên chúng ta chỉ tập chừng 5 phút rồi nghỉ xả 30 phút hoặc là 15 phút. Sau đó chúng ta tu lại 5 phút khác. Chúng ta tu lại thấy sức tỉnh rất cao, chúng ta hoàn toàn an trú trong chánh niệm của hành động, không thất niệm, chánh niệm không mất. Còn chúng ta tu nhiều quá, chánh niệm lờ mờ, mặc dù chúng ta có cái chánh niệm, tức là niệm hành động của chúng ta không mất, nhưng nó không rõ, do đó sức tỉnh không cao. Vì vậy mà chúng ta tu mất thì giờ rất lớn. Lưu ý phần này thì các thầy tu ít nhưng đạt chất lượng cao. Rồi từ sức tỉnh ngày càng cao này thì chúng ta lại tăng dần thời gian tu lên, thì chúng ta sẽ thấy rất là tỉnh. Thà là mình tu ít mà sức tỉnh mình rất cao, thì khi mình tập trung vào cái gì đó, với sức tỉnh rất cao thì tri kiến giải thoát mới phóng ra, mới tu định vô lậu, nó mới quét sạch những lậu hoặc. Còn sức tỉnh mình thấp quá, ngồi lại mình dùng niệm vô lậu để quán xét thì mình ngồi hoài mà tri kiến giải thoát không phóng ra được, đó là do sức tỉnh mình không có, nên tri kiến giải thoát không phóng ra được. Khi chưa có đủ sức tỉnh thì mình dùng cái tri kiến, tức là sự hiểu biết vay mượn của người khác để suy xét, quán xét từ đầu đến chân của mình bằng cách này bằng cách khác. Còn khi chúng ta đã có sức tỉnh thức rồi thì chúng ta không cần vay mượn của ai hết mà chúng ta chỉ cần đặt cái niệm trước mặt, chẳng hạn niệm thân bất tịnh hay niệm thân vô thường vô ngã. Chúng ta đặt niệm đó trước mặt, ngồi im lặng một chút xíu, thì tự ở trong tâm chúng ta, trong đầu chúng ta phóng ra tri kiến giải thoát, từ đó nó quán xét thấy rất rõ tất cả những cái bất tịnh như thế nào, tự nó nó quán sát không vay mượn của ai hết. Nó thông suốt như vậy gọi là tri kiến giải thoát.
Khi sức tỉnh thức của chúng ta không có, cho nên chúng ta ngồi ỳ lại đó mà nó không phóng tri kiến giải thoát ra được, bởi vì tỉnh thức không cao. Vì vậy mà khi sức tỉnh thức cao rồi thì chúng ta ngồi im lặng chừng 5 phút hay 10 phút là tự nó phóng ra liền. Bởi vì Phật nói Định thì sinh Tuệ. Mà mình chưa có Định, tức là chưa có tỉnh thức, sức tỉnh thức chưa cao, mà sức tỉnh thức là định chứ đâu phải là cái gì, nó là cái sức nhiếp tâm của chúng ta. Cho nên khi chúng ta chưa có sức tỉnh thức cao thì cái Tuệ không phóng ra được, mà nó không phóng ra được thì tri kiến giải thoát không có, mà tri kiến giải thoát không có thì tâm chúng ta còn biết bao nhiêu cái ràng buộc dính mắc. Cho nên chúng ta muốn giải quyết sự ràng buộc dính mắc của lậu hoặc này thì chúng ta phải dùng cái tri kiến, tức là vay mượn cái hiểu biết của kinh điển, của quý thầy dạy bảo, để chúng ta hiểu được cái bất tịnh như thế nào, cái vô thường như thế nào để chúng ta quán xét theo sự hiểu biết vay mượn đó, chứ không thể có tri kiến giải thoát được.
Đó, phải biết sự tu tập rõ như vậy, chứ nếu không biết thì chúng ta ngồi ỳ đó hoài mà tri kiến giải thoát không phóng ra, rồi lúc đó mình cứ nương theo hơi thở, tưởng đó là thiền định, chứ thực ra mình bị thất niệm, vì định Chánh Niệm Tỉnh Giác này không thể nào ở trong hơi thở được mà mình cứ nương vào hơi thở, tưởng ở trong hơi thở không có vọng tưởng cho là mình không bị thất niệm rồi cứ ngồi hoài; nhưng thật sự là mình tu lầm lạc, tu sang một pháp khác. Mình không chủ động điều khiển tâm tỉnh giác được, tức là thiếu sự làm chủ.
Ngoài ra, quý vị cần chú ý, ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng. Chúng ta phải rõ là chúng ta hướng tâm, chứ không phải là niệm, để không rồi chúng ta cứ niệm liên miên, thì nó cũng lại trật. Ở đây hướng tâm chứ không phải niệm câu pháp hướng, vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia phải có khoảng cách thời gian. Ví dụ bây giờ chúng ta hướng câu này: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân, rồi chúng ta cứ tự nhiên quét sân, để cho sức ý thức của chúng ta tập trung nơi hành động chánh niệm của nó đang quét. Chúng ta chỉ nhắc một lần câu: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân, rồi một khoảng cách độ chừng 3 phút, 5 phút chúng ta lại nhắc câu hướng tâm một lần nữa, sau đó lại yên lặng để cho tâm theo hành động tập trung không rời hành động quét, cũng không cần tác ý ra lời, do đó gọi là pháp hướng. Còn nếu cứ liên tục niệm câu tôi quét sân, tôi biết tôi quét sân thì đó là niệm pháp hướng chứ không phải là hướng tâm. Không thể nào chúng ta lặp lại một lần thứ 2 kế tiếp nữa: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân. Rồi nói: tôi quét sân tôi biết tôi quét sân… Mình lặp lia lịa như vậy gọi là niệm câu pháp hướng. Không phải là hướng tâm.
Ở đây chúng ta cũng phải hiểu điều này. Người mới tu không biết cho nên cứ liên tục lúc nào cũng nhắc. Thí dụ đi kinh hành thì họ cứ nhắc: tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành, rồi một lát nữa họ cũng nhắc nữa. Nhắc liên tục như vậy là sai.Không phải là hướng tâm. Khi mình nhắc rồi thì phải để cho có thời gian tâm lắng vào trong Chánh niệm, trong hành động đi của chúng ta. Trong khoảng thời gian đó, khi tâm lắng vào chánh niệm thì sức tỉnh nó tăng lên. Chừng khi sự lắng tâm đó nó bị vơi đi, tức vì sức tập trung của ý thức chúng ta chưa quen cho nên nó không bám chặt vào hành động đó được, nó lơi lỏng. Nó lơi lỏng thì chúng ta lại dùng câu pháp hướng nữa, lại nhắc nó một lần nữa: "tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành". Nhờ vậy, nó lại tập trung vào hành động đi nữa, nó lại tỉnh thức cao hơn nữa. Chúng ta cứ tiếp tục tác ý như vậy thì sức tỉnh ngày càng cao. Đó là hướng tâm vào việc đang làm.
Nhưng có trường hợp tại vì quý thầy đã tu tập hơi thở nhiều quá, mà lẻ ra chưa nên tập hơi thở trong lúc này, phải tu các định khác. Bây giờ tâm quen tập trung trong hơi thở, tâm quý thầy quen tập trung trong hơi thở cho nên vừa đi mà lại vừa biết hơi thở. Vì vậy, Phật dạy tất cả các pháp đều có thể nương hơi thở mà tu tập được, do đó chúng ta nhắc câu ám thị, vừa có hơi thở mà cũng vừa có chánh niệm tỉnh thức của hành động chúng ta đi nữa. Thí dụ tác ý: hơi thở vô tôi biết tôi thở vô, hơi thở ra tôi biết hơi thở ra. Hơi thở vô tôi biết tôi đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đi kinh hành. Đó là câu tác ý đầu tiên tập trung tâm vào hơi thở, sau đó dùng hơi thở làm cho tâm tập trung xuống hành động đi, chớ không phải tập trung trong hơi thở. Nhưng tác ý như vậy vì cái tâm của mình đã quen với hơi thở, nó hay tập trung trong hơi thở, nên vừa biết bước đi mà vừa biết hơi thở, vì vậy mà mình nhắc: hơi thở vô tôi biết tôi đang đi kinh hành, hơi thở ra tôi biết tôi đang đi kinh hành. Khi tác ý như vậy thì không phải mình tập trung vào hơi thở, mà tập trung xuống hành động đi liền, nó làm cho mình tỉnh thức ngay trong bước đi liền và đồng thời bỏ hơi thởra. Đó là cách nương vào hơi thở mà tu Chánh niệm tỉnh thức vào bước đi, để cho chúng ta càng tỉnh thức vào bước đi hơn.
Đó là những cách thức tu tập để chúng ta tu chánh niệm tỉnh thức cho đạt được mức tỉnh thức cao. Vì hướng tâm phải có cách khoảng thời gian, ít ra câu hướng này với câu hướng kia phải có khoảng cách xa nhau. Nghĩa là người mới tu thì họ phải hướng 1 phút 1 lần, hoặc 2 phút 1 lần. Còn người tu lâu thì có thể khoảng chừng 5 phút hay 10 phút mới hướng 1 lần. Người tu lâu khi thấy sức tỉnh thức của mình luôn luôn tập trung ở hành động đi, thì lúc bấy giờ không tác ý, mà chỉ tác ý hướng tâm khi nào thấy sức tập trung lờ mờ, tâm phân ra biết hàng hai: nó biết hơi thở và nó cũng biết bước chân đi, hay nó bị âm thanh tác động, thì ngay đó phải hướng tâm liền, phải tác ý liền, cho tâm gom vào bước đi lại, chớ không khéo nó lờ mờ, nó đi hàng hai là nó không tập trung được rồi, nó không tỉnh thức đâu. Cho nên khi đó người tu phải thật thiện xảo, phải khéo léo ở trong sự tu tập. Người tu biết cái tâm của mình lúc nào nó lờ mờ, người tu biết lúc nào cái tâm của mình rất tỉnh. Khi tâm lờ mờthì người tu dùng pháp hướng ở cái chỗ lờ mờ này để phá liền, còn chỗ tỉnh thì người tu không dùng pháp hướng mà để cho tâm tập trung ở trong sức tỉnh. Biết rõ như vậy thì chúng ta tu rất là có kết quả.
Ở đây không được nhắc liền miệng câu pháp hướng, vì nhắc liền miệng là niệm câu pháp hướng, sẽ tu sai, sau này sẽ rơi vào định tưởng, lạc đường tu giải thoát của đạo Phật. Nghĩa là niệm riết rồi nó sẽ rơi vào những định tưởng, làm cho chúng ta có cảm giác sự an lạc trong khi niệm,như vậy sử dụng pháp hướng không đúng.
ĐỊNH VÔ LẬU
Bây giờ quý vị tu ĐỊNH VÔ LẬU.
Ban đêm quý vị chọn giờ nào yên tịnh nhất, ngồi kiết già lưng thẳng, rồi đặt niệm trước mặt quán xét cha mẹ, anh em, bà con ruột thịt, vợ chồng con cái, xét qua nhân quả khổ vui, giận hờn, thương ghét, đầy rẫy một cuộc sống đau khổ bằng nước mắt do nghiệp nhân quả tạo nên.
Bây giờ còn là người cư sĩ trong sống trong gia đình có cha mẹ anh em ruột thịt, có con cái của mình, có của cải tài sản của mình thì mình đặt niệm gì? - Đặt niệm nhân quả của mình với mọi người đó, với của cải đó, mình quán xét nhân quả. Mình suy tư từ ngày mình mới lập gia đình cho đến khi mình sống có con cái như thế này, sự vui sự khổ như thế nào, mình phơi bày ra tất cả cuộc sống của mình để thấy cuộc sống đó là bằng mồ hôi nước mắt của mình, bằng sự đau khổ của mình. Do nhân quả nghiệp báo đưa đẩy chúng ta có quá nhiều sự khổ đau, vui thì ít mà khổ thì nhiều.
Khi chúng ta đặt niệm nhân quả mà quán xét như vậy, thì càng ngày chúng ta càng hướng về lối đi giải thoát, càng ngày tâm của chúng ta càng rõ nét ở trên hướng giải thoát. Còn nếu không chịu đặtniệm nhân quả như vậy thì chúng ta bị sự vô minh che mờ, làm cho chúng ta tưởng cuộc sống của chúng ta là hạnh phúc, nhưng thật sự nó là hạnh phúc giả, rồi tiếp tục trên con đường nghiệp báo nhân quả, chúng ta cũng trôi lăn ở trong 6 nẻo, những người thân của chúng ta chẳng còn là người thân mà chỉ còn là những người nhân quả, những người vay nợ với nhau, chớ không có nghĩa lý gì ở trong cuộc đời của chúng ta nữa.
Như vậy người cư sĩ muốn bước qua giai đoạn của người tu sĩ thì nên đặt niệm nhân quả để quán xét cuộc sống sinh hoạt của gia đình, của tất cả những người thân để xem coi có phải là thân thiết thật hay là thân thiết giả, có phải là nợ vay hay là không nợ vay, có phải là do nghiệp báo gặp nhau để trả nghiệp báo hay không? Nhờ quán xét như vậy nên thấy rõ dây nhân quả, và cuối cùng thấy tâm chúng ta dửng dưng không còn bị trói buộc những dây thương, dây ghét nữa, cho nên chúng ta được xa lìa để tìm con đường giải thoát của Phật. Đó là người cư sĩ khi còn ở trong lộ trình thứ nhất này, khi người cư sĩ chuẩn bị cho mình bước qua giai đoạn tu tập trong lộ trình thứ 2 của người tu sĩ thì nên đặt các niệm đó ở trước mặt để tu tập Định vô lậu.
Đầu tiên Thầy dạy Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, bây giờ Thầy dạy Định Vô Lậu, người cư sĩ phải tu tập 2 định này ở giai đoạn đầu.
Để tu Định Vô Lậu, phật tử khuya thức dậy, buổi tối, buổi sáng, buổi chiều cũng thế, ngồi kiết già, đặt niệm trước mặt quán xét về nhân quả. Cứ mỗi lần quán xét là nó lại rõ thêm về nhân quả. Nghĩa là mỗi lần mình ngồi tu quán xét về nhân quả, thì càng ngày mình thấy đường đi nhân quả càng rõ ràng thêm. Mình có đặt được cái nhân quả đó và quán xét về cuộc đời mình, quán xét về cuộc đời của mọi người thân, cho nên càng ngày sự quán xét làm cho mình thấu rõ được đường đi của nhân quả.
Tại sao mà Thầy biết như vậy? Tại vì trước kia Thầy cũng có tu Định Vô Lậu quán xét về nhân quả này rất nhiều, cho nên Thầy biết được đường đi lối về của nhân quả. Vì vậy bây giờ viết ra giáo án của nhân quả tức là đạo đức nhân quả thì Thầy viết ra rất dễ dàng, bởi vì Thầy đã thấu suốt đường đi của nó rồi. Mỗi một hành động mà chúng ta làm thì nó sẽ có cái quả nào, Thầy đã biết rồi; còn quý thầy không chịu quán xét về đường đi của nhân quả, nên hành động của quý thầy làm đây nhưng quý thầy chưa biết cái quả nó ra sao hết. Người đã thông suốt luật nhân quả thì ngồi lại người ta biết mình hành động làm điều đó thì sẽ có cái quả gì đến, nó không sai chỗ nào hết, nó không có trật bởi vì đó là nhân quả. Cứ nhiều lần quán xét về nhân quả như vậy thì tri kiến giải thoát của chúng ta sẽ thấu suốt được cái lý của nhân quả, Khi đã thông suốt được đường đi của nhân quả thì sự hiểu biết về nhân quả không sai. Còn nếu không chịu tu Định Vô Lậu về nhân quả thì chúng ta khó lòng thấy được đường đi nước bước của nhân quả.
Đến đây Thầy cho thêm vài đề mục thiền vô lậu, nghĩa là Thầy cho thêm một số niệm để đặt niệm đó trước mặt tu Định Vô Lậu.
Đặt niệm tài sản của cải nghĩa là đem niệm của cải tài sản của mình đặt trước mặt, để quán xét xem của cải tài sản của mình nó vô lậu như thế nào. Quán xét xem cho thấu lý của của cải tài sản đã làm cho ta bất an, đã làm cho ta phải lo lắng bảo vệ và còn phải liên tục chạy theo để tạo nó ra nữa. Ở đây Thầy chỉ nói đại khái để người cư sĩ hiểu rằng khi đặt niệm tài sản của cải trước mặt để quán xét, thì người cư sĩ quán xét thấy họ đã quá vất vả như thế nào để làm ra của cải tài sản kia, mà khi có nó rồi thì phải bảo vệ giữ gìn nó như thế nào. Đủ mọi mặt, đủ cách thức làm cho người cư sĩ đau khổ ở trong cuộc đời đối với của cải tài sản của mình. Quán xét rằng: phỏng khi chết có mang theo tài sản đó được không, có mang theo các vật trân quý như tiền bạc, vòng vàng được không? Nghĩa là khi mình chết rồi, có mang theo được vật gì không? Tức là những cái bây giờ mình quý nhất có thể mang theo được cái gì không. Đó, người cư sĩ quán xét thấy vật chất, tiền bạc, châu báu mà mình đã làm ra được, thì khi mình chết đi rồi, đâu có mang theo được vật gì, để cho người cư sĩ thấy nó không phải là những vật trân quýluôn luôn ở bên mình được. Quý thầy phải thấy được điều này là do quý thầy đã đặt cái niệm đó mà quán xét, quý thầy mới xả ly nó ra được, mới vô lậu được với những đối tượng này.
Đặt niệm thân bất tịnh để quán xét. Vì mình thường chấp cái thân của mình, cho nên phải đặt cái niệm thân bất tịnh để cho thấy nó thật sự là bất tịnh. Vì vậy mà mình ngao ngán, không còn dính vào cái thân này, không còn chấp cái thân này nữa.
Đặt niệm thân vô ngã. Nghĩa là quý thầy đặt niệm thân vô ngã trước mặt của mình để quý thầy quán xét coi cái ngã của mình ở đâu. Khi thấu được lý vô ngã của nó, do thấu suốt được lý vô ngã nên trong thân của mình không có cái gì gọi là ngã ở trong đó.
Đặt niệm thân vô thường quán xét. Nghĩa là quý thầy đặt niệm thân vô thường rồi quán xét.
Đặt niệm thân khổ quán xét. Quý thầy đặt cái niệm có thân là khổ, quý thầy quán xét.
Đặt niệm thực phẩm quán xét bất tịnh. Quý thầy cũng đặt cái niệm những thực phẩm ăn hằng ngày của mình rồi quán xét nó, dùng pháp quán mà quán xét để thấy thực phẩm quý thầy ăn có bất tịnh đúng hay sai. Từ đó quý thầy thấu suốt được thực phẩm là bất tịnh cho nên không có tham ăn tham uống nữa.
Đặt niệm vợ con quán xét vợ con có phải là nhân quả vay nợ nhau không? Đó, quý cư sĩ đặt cái niệm vợ con, bởi vì vợ con là những người gần gũi với mình nhất và dễ làm cho mình dính chặt trong cuộc đời của mình. Cho nên quý cư sĩ đặt niệm đó để quán xét xem có phải là cái nhân quả vay nợ nhau hay đó là một tình cảm thiêng liêng nào để thành vợ thành chồng với nhau. Đó là đặt cái niệm để quý cư sĩ quán xét. Vì vậy quý cư sĩ phá được lậu hoặc đó.
Đặt niệm danh. Ai cũng ham danh này,danh kia, do đó quý thầy đặt niệm danh quán xét cái danh, xem danh đó có thật hay giả. Do đó phải đặt niệm danh để quý thầy quán xét nó.
Đặt niệm sắc dục quán xét. Sắc dục gợi cho mình lòng ham thích tình dục. Quán xét những hành động sắc dục là bất tịnh, những hành động sắc dục không có sạch sẽ. Do đó đặt cái niệm đó để quý cư sĩ quán xét xem coi niệm đó có thật sự là hạnh phúc không, hay đó chỉ là một cái giả để tạo cho quý cư sĩ cái nhân tái sanh luân hồi.
Những cái như vậy chúng ta phải đặt niệm để quán xét, có quán xét thì chúng ta mới thấu triệt được tất cả những cái này, và do đó chúng ta phá được những lậu hoặc ở trong tâm của mình.
Đặt niệm ngủ, mình cũng đặt niệm ngủ để quán xét cái ngủ từ đâu đến, cái ngủ đưa đến những cái gì, tai hại của ngủ ra sao. Tức là mình thấu suốt được cái ngủ thì mình không còn ham ngủ nữa.
Đặt niệm ăn, đặt niệm về ăn tức là mình quán xét về cái ăn của mình coi nó ngon chỗ nào, rồi nó hết ngon chỗ nào, rồi nó bất tịnh chỗ nào. Hay nó dở chỗ nào, nó như thế nào, cho nên mình thấu suốt được cái ăn của mình.
Đặt niệm thân của người phụ nữ để quán xét. Vì hầu hết thấy thân của người phụ nữ là đẹp, là tốt, là cám dỗ, là mềm mại, là thích thú, cho nên mình đặt cái niệm phụ nữ ra xem coi nó như thế nào. Do mình thấu suốt được, thân người phụ nữ không có gì hấp dẫn, không có gì quyến rủ, mình thấy sợ và ghê gớm và mình xem như là thân của một con rắn độc, mình quá sợ hãi.
Đây là một số chánh niệm để chúng ta tu Định Vô Lậu. Hôm nay quý thầy thấy rằng trên bước đường tu tập, chúng ta phải biết cách để đặt cái niệm cho đúng cách để quán vô lậu, để diệt trừ tâm lậu hoặc của chúng ta.
Đến đây quý vị cư sĩ chỉ có siêng năng thì quý vị mới vượt qua lộ trình thứ nhất. Và quý vị phải tu tập hết sức thì mới thoát ra khỏi lộ trình này. Vì lộ trình này biết bao nhiêu dây mơ, rễ má chằng chịt buộc chặt quý vị, khó cho quý vị thoát ra được. Nếu không có lộ trình trong giáo án này thì quý vị khó lòng thoát khỏi nhà lửa đang hừng hực cháy. Nghĩa là quý vị cư sĩ không có được giáo án này thì cứ tưởng mình đang sống trong lộ trình thứ nhất này là hạnh phúc, là chân thật.
Nhiều khi chúng ta đi tu rồi, xuất gia rồi, chúng ta vẫn còn ở trong lộ trình thứ nhất này. Nào là của cải tài sản, nào là chùa to tháp lớn, nào là những vật chất xung quanh vây quanh chúng ta, rồi trong đó anh em dòng họ, phật tử đủ loại đủ cách ở trong đó nó vây quanh còn hơn là một người ở ngoài đời, đang sống có một vợ hai ba con.
Người tu có khi còn nhiều ràng buộc hơn người cư sĩ nữa: nào là Phật tử nhiều không biết là bao nhiêu mà kể, đệ tử cũng nhiều không biết là bao nhiêu. Tất cả trói chặt mình còn hơn hoàn cảnh của người cư sĩ nữa. Do chỗ tu hành nên chúng ta không thấy càng ngày càng bị xiết chặt hơn trong lộ trình thứ nhất này. Người ta có một hai con thôi, còn mình là ông thầy, mình có cả trăm, cả ngàn đứa con. Bây giờ quý thầy có phật tử nói thế này, có phật tử nói thế khác, có phật tử hỏi pháp này, có phật tử hỏi pháp kia. Dạy hoài nên ông thầy tu không giải thoát, mà trong khi đó có phật tử đem thứ này, thứ kia vào cúng dường cho chùa. Hầu hết là nó trói chặt ông thầy thêm. Chẳng hạn là bây giờ có một số đệ tử cư sĩ, vì mình là ông thầy mà, đệ tử cư sĩ họ đem tiền cúng, ông thầy này có tiền nhiều thì chi xài cho cái kia cái nọ, tạo ra đủ thứ tội lỗi. Rồi phật tử đem máy móc này kia cúng dường, vì thương ông thầy, nó cúng dường, thì cũng như đứa con mà, do đó nó đem của cải tài sản cúng dường riết ông thầy quá nhiều. Rồi nó thấy cái nhà ông thầy, cái thất ông thầy xấu, nó bỏ tiền ra cất thất cho ông thầy cho tốt. Rồi nó thấy ông thầy sao mà mệt nhọc quá, không có khỏe, cho nên nó đặt máy điều hòa không khí, rồi quạt máy, rồi tủ lạnh, đủ thứ gì cho ông thầy chết. Cuối cùng thì ông thầy bị phật tử đem bao nhiêu sự trói buộc ngày càng chặt thêm. Còn ở ngoài đời người ta có 1 vợ, 2 con, 3 con thôi, không có tiền nhiều như ông thầy vậy đâu, bởi vì có ít cho nên ông cha nó bị trói buộc ít. Còn cái ông thầy coi vậy bị trói buộc nhiều. Do vì vậy mà càng ngày ông thầy càng bị trói buộc mà giải thoát thì không có. Từ đó ông thầy càng ngày càng sa lầy xuống cuộc đời mà không thấy giải thoát được.
Cho nên ở lộ trình thứ nhất người cư sĩ chúng ta phải thấy cho được rõ ràng để chúng ta dứt khoát bước qua lộ trình thứ 2 là không có còn một cái gì trói buộc chúng ta được hết, trắng bạch như vỏ ốc, ba y một bát, cho nên có còn gì đâu mà trói buộc mình, đó là giải thoát hoàn toàn. Không có chùa, cũng không có đệ tử. Người ta đến hỏi đạo thì dạy người ta tu thôi, chứ phật tử đừng có bày cúng dường cái này, cúng dường cái kia.Ông thầy y áo cả đống đủ thứ mà phật tử còn cúng dường nữa, thì cái đó là cái trật. Thầy thấy các phật tử họ thương ông thầy lắm, họ mua cái này cái kia, từ cây kem, từ bàn chải đánh răng, họ mua toàn đồ tốt, từ cái khăn tốt cho ông thầy. Họ sắm cho ông thầy đủ thứ hết, họ coi từ cái đôi dép nữa, cho đến mua cái mền, cái mùng cho ông thầy họ cũng sắm đồ tốt nữa chứ không sắm đồ xấu. Sắm đủ thứ hết. Và cũng từ đó ông thầy bị nhiễm. Nhiễm cứng ngắc, không có thoát ra được.
Đã đến lúc kết thúc bài này, kết thúc lộ trình thứ nhất của người cư sĩ nên Thầy sẽ tóm tắt lại toàn bộ bài Thập thiện để kết luận buổi giảng hôm nay.
Chúng ta đi từ tu Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Chánh Cần rồi đến Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Vô Lậu thì đây chỉ là dạy đơn sơ thôi, tuy đơn sơ nhưng các thầy có được phương pháp tu tập.
Còn về phần lộ trình của người tu sĩ, thì Thầy sẽ dạy kỹ hơn về các pháp này. Vì ở đây Thầy giảng sơ lược để cho người cư sĩ biết cách hành của họ một cách đơn giản trong lộ trình thứ nhất mà đạt được chất lượng tu tập để cho họ tìm mọi cách dứt ra được cái lộ trình thứ nhất này để tiến bước vào lộ trình thứ 2. Trong lộ trình thứ hai, tâm người cư sĩ phải hoàn toàn trắng bạch như cái vỏ ốc, không còn bị sợi dây nào trói buộc tâm họ nữa, để sau này họ đi vào con đường giải thoát chơn thật của đạo Phật, khép mình ở trong những khuôn khổ giới luật của Phật, để thực hiện được sự giải thoát hoàn toàn. Thầy tiếp tục để kết luận về lộ trình thứ nhất này.
KẾT LUẬN LỘ TRÌNH THỨ NHẤT
Để kết luận lộ trình thứ nhất.
Chúng ta biết Phật dạy: "phải thông hiểu những gì cần thông hiểu." Bây giờ chúng ta đã thông hiểu những gì cần phải thông hiểu, tức là thông hiểu lộ trình thứ nhất của người cư sĩ cũng như người tỳ kheo hữu học. Họ là những người phải học, phải hiểu biết, họ phải thường xuyên quán xét vạn pháp, tâm họ phải rõ biết nguồn gốc vô minh để phá trừ những tư tưởng dính mắc chấp trước. Hằng ngày họ phải tinh tấn tiến bước trên đường nội tâm của mình để đập tan những màn vô minh đen tối.
Như Phật đã dạy chúng ta trong lộ trình thứ nhất này là phải thông hiểu. Đó là điều kiện thứ nhất. Chúng ta là những bậc hữu học, nghĩa là chúng ta có học thì mới thông hiểu, còn nếu không chịu học hành, không chịu nghe, không chịu hiểu thì làm sao chúng ta thông hiểu. Ở đây quý thầy đã qua giai đoạn được nghe Thầy giảng thì đó là những chỗ quý thầy cần thông hiểu để rõ tất cả những điều chúng ta phải thông hiểu trên lộ trình tu tập. Khi thông hiểu như vậy là chúng ta đã tập tan màn vô minh đen tối mà từ lâu nó đang phủ dày ở trong tâm tư của chúng ta.
Qua lộ trình tu tập thì quý cư sĩ hãy lấy thập thiện làm vũ khí tu tập. Lộ trình của người cư sĩ là phải lấy thập thiện làm điều kiện chiến đấu chống lại những sự si mê của mình. Cho nên ở đây quý cư sĩ phải lấy thập thiện làm vũ khí phá trừ si mê, thành tựu 10 công đức mà kinh thập thiện đã dạy, tức là kinh 10 điều lành đã dạy.
1.- Không si mê thì được ý vui chân thiện. Nghĩa là mình phải lấy thập thiện tu tập, có vậy mình mới không si mê. Cái ý vui mà thiếu cái thiện ở trong đó là cái vui si mê, nghĩa là mình làm điều ác mà mình vui theo đó là vui si mê, nó không đúng. Cho nên mình phải lấy sự vui chân thiện, không được vui si mê ở trong điều ác, vui phải vui theo cái thiện chứ không phải vui theo cái ác. Thầy đã phân tích cho quý cư sĩ thấu rõ có 4 cái hỷ lạc của ác pháp, và cũng có 4 cái hỷ lạc của pháp xuất thế. Hỷ lạc của ác pháp là có những cái vui, mà những cái vui đó là những cái vui ác. Còn cái vui của đạo là cái vui vượt ra phàm tục, nó là thiện, cho nên ở đây nó ly ác pháp ra. Tất cả các pháp ác đều có cái vui của các pháp ác, nó làm cho chúng ta lầm chấp. Cho nên chúng ta lấy thập thiện để thấy biết cái vui nào chân thật, cái vui nào không chân thật. Chúng ta không được si mê vui theo những cái vui của ác pháp mà hãy vui theo chơn pháp, vui theo thiện pháp. Đó là cái thứ nhất.
2.- Tin sâu nhân quả. Mình phải tin ở nhân quả. Bởi vì nhân quả sẽ trở thành cái nghiệp, trở thành nơi sinh ra mình. Rồi cũng từ cái nghiệp đó mình mới tạo ra những cái nghiệp mới, rồi từ cái nghiệp mới này khi mình bỏ cái thân này mình cũng trở về nghiệp. Rồi từ cái nghiệp đó lại sản sinh ra mình nữa. Đó là mình đi trong cái lòng vòng của nhân quả mà mình không biết. Mình tin sâu nhân quả, mình biết nghiệp sẽ trở thành nơi sản sinh ra mình. Đó là mình tin sâu nhân quả để thực hành cho đúng các nhân thiện, không làm các nhân ác.
3.- Tin sâu ba ngôi Tam Bảo. Phật Pháp Tăng là ba nơi mà chúng ta phải nương tựa để thoát ra khỏi nhân quả. Nếu chúng ta không nương tựa, không tin sâu ba ngôi Tam bảo này thì chúng ta khó mà thoát được nhân quả. Vì ba ngôi Tam Bảo này đều đặt ở trên nền tảng của nhân quả cho nên các hành động của Phật, Pháp và các vị Tăng chỉ có các nhân lành không có nhân ác ở trong đó, không có ác pháp trong đó. Vì vậy khi chúng ta tin sâu ba ngôi nhân quả này tức là chúng ta đã thực hiện được nhân quả tốt, không làm các nhân quả xấu. Ở đây, thứ nhất là chúng ta tin nhân quả, thứ hai chúng ta tin ba ngôi Tam Bảo tức là tin những người, tin vào những pháp dạy cho chúng ta thoát ra nhân quả. Phật và Tăng là những người đã vượt thoát ra nhân quả, và Pháp dạy chúng ta sống vượt thoát ra nhân quả.
4.- Tâm được Chánh kiến. Khi tâm chúng ta tin sâu ba ngôi Tam Bảo thì luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy cái đúng chứ không còn thấy cái sai nữa. Bởi vì tin ba ngôi Tam Bảo thì những cái gì mà ở trong ba ngôi Tam Bảo này dạy thì đó là những chánh kiến của chúng ta. Nghĩa là khi chúng ta dùng Thập Thiện làm vũ khí tu tập thì chúng ta cần phải lưu ý là vui theo sự thiện, tin sâu nhân quả, tin sâu ba ngôi Tam Bảo.
5.- Không đọa ba đường ác. Nghĩa là người có Chánh kiến rồi thì lúc bấy giờ ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) họ không bị rơi vào trong đó. Còn nếu chúng ta chưa có Chánh kiến thì lúc thì sân, lúc thì phiền não, lúc thì tham, nghĩa là chúng ta lúc làm điều này, lúc làm điều kia trong sự tham lam, phiền não, sân hận, thì những việc làm đó đều tạo cho chúng ta có những đau khổ liên tục ở ngay trong hiện tại, chứ không phải là chờ chúng ta chết đi rồi mới đọa vào ba đường ác đâu, ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta nó đã có ba đường ác ở trong đó rõ ràng. Cho nên khi tâm được Chánh kiến rồi thì chúng ta đoạn dứt được ba đường ác này. Và khi chúng ta không có ba đường ác thì phước huệ của chúng ta không lường được, nghĩa là cuộc sống của chúng ta hạnh phúc vô cùng, chúng ta sống rất là an vui.
6.- Thấu rõ đường tà, tiến vào đường chánh. Lúc bấy giờ chúng ta thấy rõ đường nào là tà, đường nào là đường chánh, vì vậy mà chúng ta tiến trên con đường thuộc về nhân lành chứ không bao giờ có nhân ác ở trong đó.
7.- Xả ngã diệt tâm tham, chuyển hết nghiệp ác. Nghĩa là lúc bấy giờ cái tâm của chúng ta lần lượt xả bỏ được cái ngã, diệt được tâm ham muốn, thì nó chuyển được hết các nghiệp ác, nghĩa là chúng ta đã có những nhân ác tích trử từ nhiều đời nhiều kiếp mà hiện giờ nó đã chuyển thành những quả ác. Tất cả những ác quả từ nghiệp ác mà chúng ta đã tích trữ này, khi chúng ta biết được Phật Pháp, biết được nhân quả, thấu suốt được điều này thì chúng ta chuyển được các nghiệp ác đó. Xả được cái ngã, diệt được cái tâm tham sân si thì chuyển được tất cả những nghiệp ác, các quả ác chúng ta đang nhận, đang thọ lãnh ở trong cuộc đời này. Nó chuyển sạch hết, làm cho chúng ta không còn khổ đau nữa, mặc dù đứng trước mọi cảnh nào, mọi tình huống nào chúng ta cũng không còn khổ nữa.
8.- Luôn luôn trụ Chánh kiến. Lúc nào chúng ta cũng ở trong sự hiểu biết chơn chánh, luôn luôn lúc nào cái hiểu biết của chúng ta cũng chơn chánh chứ không bị chấp cái này, chấp cái kia chấp cái nọ.
9.- Cuộc sống người này không còn bị tai nạn nữa. Nghĩa là người khác thì bị nhân quả ác, gặp tai nạn này tai nạn khác hay là chuyện này hoặc chuyện khác thậm chí như bệnh tật thì đó là những cái làm cho con người đau khổ, thì người thực hiện được mười điều lành này, người lấy điều lành này làm vũ khí để chiến thắng thì người ta có được những điều lợi như vậy đó. Kể từ đây cuộc đời của người thực hiện được mười điều lành này chuyển hóa được các nghiệp ác của người ta. Do đó trước những hoàn cảnh nào, trước những đối tượng tai họa, tai nạn nào xảy đến, họ hoàn toàn họ vượt ra được hết, không bao giờ còn có một cái gì bủa vây, làm cho họ khổ sở trong tâm hồn của họ được. Thậm chí họ bị bệnh, họbị đau nhức có thể nói rằng tận cùng sức chịu đựng của thân, họ cũng vẫn thản nhiên, bởi vì họ đã thực hiện được đúng Thập Thiện cho nên họ thấy hoàn toàn tâm họ bất động, họ vẫn nhiên trước những đau khổ nhất của thân của họ. Cho nên họ thoát khỏi tai nạn là như vậy. Họ chuyển hóa nghiệp ác, quả ác của họ cho nên họ không còn thấy đau khổ nữa.
Người tu Thập Thiện thường chế ngự lòng buông lung, phóng dật, bỏ các nghiệp dữ, thành tựu các nghiệp lành, chuyển đời khổ đau bất an bất toại nguyện thành đời sống an vui hạnh phúc, mọi việc đều được toại nguyện như ý, đời sống luôn thuận theo chánh đạo. Chỉ người có trí mới hiểu được sự lợi ích của Thập Thiện đối với cuộc sống, tâm họ thường quyết thực hành sống Thập Thiện cho bằng được. Cho nên khi có quyết tâm sống đúng Thập Thiện, chúng ta mới chuyển được kiếp sống địa ngục lầm than đầy khổ đau phiền muộn của chúng ta, biến nó trở thành cảnh thiên đàng, an lạc, hạnh phúc, an vui.
Quý cư sĩ thấy rằng Thập Thiện thuộc về nhân quả, cho nên nói thực hành nhân quả thiện thì cái nhân quả ác phải bị diệt đi, mà nhân quả ác bị diệt đi thì đem lại đời sống an lạc hạnh phúc cho con người. Do thế điều kiện quan trọng cho con người ở trên hành tinh này là họ phải thực hiện những điều lành từ bàn tay, từ khối óc, từ miệng của họ, từng hành động của họ. Khi họ thực hiện điều lành thì họ mang lại sự an lạc, hạnh phúc cho đời sống của họ. Nếu từ các hành động thân khẩu ý của họ mà thực hiện điều ác thì tự họ đem lại sự đau khổ, sự bất an, sự bất toại nguyện cho họ.
Chính chỗ đem lại hạnh phúc an vui cho con người là vấn đề trọng đại của Đạo Phật, chứ không phải sự trọng đại của Đạo Phật là ngồi thiền, nhập định, làm chủ sự sống chết, chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Chỗ ngồi thiền, nhập định, làm chủ sự sống chết chỉ ích lợi cho thiểu số, cho số ít người, còn chỗ thực hành Thập Thiện này là cái ích lợi cho đông người. Nếu mọi người đều làm mười điều lành này thì sẽ đem lại cho mọi người được hạnh phúc, an vui, thanh bình, đem lại cho xã hội có trật tự, cho con người biết thương nhau, cho con người không xa lìa nhau, đem lại cho con người sống chan hòa cùng nhau một tình thương phủ trùm bên nhau. Đó là Thập Thiện đó.
Cho nên quý cư sĩ đã thấy trong lộ trình thứ nhất này người theo đạo Phật phải thực hiện Tứ Vô Lượng: Tâm Từ Bi Hỉ Xả. Để làm gì? Để thực hiện tình thương chan hòa với nhau, để xây dựng một đời sống biết thương nhau, biết giúp đỡ nhau, biết an ủi nhau. Vì con người sinh ra là do nhân quả cho nên nhân quả là phải có sự khổ đau, mà đã thực hiện được tâm Từ Bi Hỉ Xả thì mới hết khổ đau, con người mới chấm dứt sự khổ đau. Mục đích đó là mục đích chính của Đạo Phật để đem lại sự thoát khổ cho con người chứ Đạo Phật không nhắm vào chỗ tu tập cao siêu đến mức độ dùng Tứ Như Ý Túc để biến hóa thần thông phép tắc. Không phải mục đích đó đâu. Mà mục đích chính của đạo Phật là chỗ Thập Thiện này, chỗ thực hiện nhân quả lành này chớ không phải là chỗ diệt nhân quả ác.
Muốn hưởng được phước báu trời người thì hãy dứt trừ, từ bỏ, xa lìa, viễn ly mười nghiệp ác, mười điều dữ đó. Hàng ngày trau dồi tu tập mười điều lành, cứ mỗi lần bỏ xuống một nghiệp ác thì ngay đó nghiệp lành hiện ra. Thiện nghiệp càng nhiều, thân tâm càng được thanh thản an vui, sống không biết khổ đau, không biết chán chường.
Biết được sự lợi ích và quả giải thoát lớn cho kiếp sống con người và xã hội như vậy, người cư sĩ phải bằng mọi cách quyết tâm nỗ lực thực hiện sống đúng mười điều lành mà đức Phật đã dạy, đã đem hết tâm huyết của mình truyền lại cho đời sau để con người trong cuộc sống của người đời được an vui, hạnh phúc bên nhau.
Kinh Thập Thiện dạy cứ tiếp tục mãi trên đường xây dựng tư tưởng và cuộc sống toàn Thập Thiện không còn một chút Thập Ác thì sẽ được 4 ưu điểm trong cuộc sống:
1.- Thân tâm thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc, thường hiển lộ một niềm vui bất tận. Đó là lợi ích thứ nhất của Thập Thiện, nó làm cho thân tâm của mình nhẹ nhàng, thanh thản, tâm hồn lúc nào cũng an vui với cái sự an vui của 10 điều lành. Hành động thân khẩu ý lúc nào cũng biểu lộ đầy đủ đạo đức nhân quả không làm khổ mình khổ người thì lòng hiếu sát, hung hăng xưa kia biến mất, lòng từ bi bác ái hiện rõ đối với người khác và loài vật, thường lấy câu “lấy ân trả oán thì oán sẽ trở thành ân nghĩa và thương yêu nhau". Nhờ vậy mọi người và loài vật đều thương.
2.- Tâm không còn giận hờn thì dù oán, dù bất cứ sự việc gì cũng tiêu tan, con người đối với con người không còn sự đấu tranh, giết hại lẫn nhau chỉ có một lòng tương thân tương ái, xã hội con người không còn biết ghét nhau, giận nhau, chỉ có một lòng thương yêu duy nhất.
Chúng ta hôm nay có đủ duyên lành mới được nghe lời thuyết giảng của đức Phật dạy để thông hiểu, và trau dồi và dứt bỏ, để tu tập Thập Thiện. Pháp môn Thập Thiện rất cụ thể, thực tế, có thứ lớp trong khi thực hành, rất khoa học, để cho mọi người dễ dàng thực tập sống đúng Thập Thiện đạt được cuộc sống hạnh phúc an lạc đầy đủ. Đã quyết tâm tiến bước lên đường về đất Phật nếu không khởi hành bằng đường Thập Thiện thì đừng mong đến xứ Phật được. Ba đời chư Phật và các bậc Thánh hiền thoát vòng sanh tử chứng quả vô thượng bồ đề, các Ngài đều sống và tu tập đúng Thập Thiện, các Ngài đều lấy Thập Thiện làm nền tảng vững chắc để xây dựng ngôi nhà thiền định của mình.
Thập Thiện có công năng giúp ta ngăn ngừa các hành vi độc ác của mình ở thân khẩu ý, nhờ thế tất cả hoàn cảnh đều được yên vui, an lành và hạnh phúc. Thập Thiện giúp cho 3 nghiệp thân khẩu ý của chúng ta lần lần tiêu tội và được thanh tịnh. Nhờ thân khẩu ý thanh tịnh, thân tâm chúng ta mới thanh tịnh. Nhờ thân tâm thanh tịnh, chúng ta mới tịnh chỉ các hành trong thân. Nhờ tịnh chỉ các hành trong thân, chúng ta mới nhập định. Nhờ nhập định, chúng ta mới khai triển trí tuệ Tam minh. Nhờ Tam minh, chúng ta mới diệt sạch lậu hoặc. Nhờ diệt sạch lậu hoặc, chúng ta mới làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Người biết tu Thập Thiện và sống đúng Thập Thiện là người hạnh phúc nhất trần gian. Nhờ tu Thập Thiện, vạn pháp không còn là chướng ngại của tâm thì sự đau khổ phiền não đoạn dứt, thân tâm thường được an ổn, thanh thản, đời sống hạnh phúc và phước báu rõ ràng. Thập Thiện là cái nhân đoạn dứt ba đường ác trong thân tâm, tuy thân còn ở cõi Ta bà nhưng cuộc sống của chúng ta như ở cõi trời, cõi thiên đàng.
Thông hiểu rõ sự lợi ích lớn của pháp môn này, chúng tôi thành tâm khuyến khích mọi người cư sĩ cũng như tu sĩ đừng thấy pháp môn Thập Thiện mà chê nó là pháp môn thấp, cho nó là những pháp môn của người mới tu hành. Hiểu như vậy rất là lầm lạc. Thập Thiện là pháp môn tu tập rèn luyện đạo đức nhân quả cho mỗi con người trở thành tốt đẹp và xây dựng xã hội thanh bình an lạc. Vì vậy trước tiên quý vị phải tu tập Thập Thiện, đừng ngồi thiền như cây, như đá chẳng ích gì cho mình, cho người, cho xã hội. Ngồi thiền riết không thành Phật mà thành cóc, hễ ai đụng tới thì tham sân si mạn nghi nổi lên ầm ầm như sóng bủa, hở ra một chút thì chướng tâm ngại ý, luôn luôn tâm hồn bất toại nguyện, sống trong cảnh nào cũng bất an.
Quý thầy thấy có nhiều người tu thiền rồi cứ dính mắc cảnh này cảnh kia. "Bây giờ ở trong cảnh này xe cộ rần rần, nhà máy chạy xình xịch như vậy đó thì cảnh này tu hổng được đâu, tui đi tìm rừng rú không tiếng động tui mới tu được". Đó là mình bất an, bất toại nguyện ở trong cảnh của mình rồi, tu thiền thì đâu có động tâm như vậy? Cho nên người thực hiện Thập Thiện không có động tâm vì các điều đó đâu, người ta thực hiện thiền định ở cảnh nào cũng tốt hết. Còn mình thì cứ lo tìm cái cảnh yên tịnh để tu thiền định nhưng cuối cùng thì cảnh nào cũng bị động hết, không có cảnh nào gọi là toại nguyện cho mình. Tu như vậy không giải thoát mà địa ngục mở cửa đón chờ, quỷ sứ hầu hạ quý vị.
Thập Thiện là đường lối, là pháp môn rèn luyện con người sống đạo đức không làm khổ mình khổ người, không làm rối loạn xã hội, đem lại sự an vui cho người, cho mình, cho xã hội. Vậy quý cư sĩ cần phải siêng năng tu tập và rèn luyện thân tâm mình trong pháp môn Thập Thiện này. Nó là pháp môn rất quý báu trong thế gian hiện đại ở thời đại của chúng ta.
Để kết thúc giai đoạn tu Thập Thiện bằng một bài kệ: Phàm Con Người ỞĐời. Đây là bài kệ:
Phàm con người ở đời
Búa rìu từ trong miệng
Sở dĩ giết chết mình
Là do lời nói độc
Người đáng chê thì khen
Người đáng khen thì chê
Đây thuộc nghiệp ác khẩu
Mà thân chịu hành khổ.
Đó là bài kệ trong kinh Thập Thiện.Khi đến kết luận của bài Thập Thiện thì Thầy rút ra một bài kệ trong tất cả các kệ ngôn của Phật nói về những điều làm ác của mình, Phật lấy lời nói của chúng ta cho đó là khẩu nghiệp. Trong Thập Thiện, về hành động của khẩu có 4 hành động ác khẩu chứ không phải một, về thân thì có 3, về ý có 3, cho nên Phật mới nhắm vào khẩu nghiệp. Khẩu nghiệp tạo cho con người đau khổ nhiều nhất, nói ra thì có chuyện này, nói ra thì có chuyện kia đó. Cho nên đức Phật lấy từ chỗ khẩu nghiệp mà nói ra bài kệ đó để chúng ta biết rằng chúng ta khổ sở là do cái nghiệp khẩu của chúng ta rất nhiều.
Phàm con người ở đời
Búa rìu từ trong miệng.
Đức Phật nói lời nói của mình như búa rìu, không những nó giết chết mình mà nó còn giết chết người khác nữa.
Là do lời nói độc
Người đáng chê thì khen
Người đáng khen thì chê
Đây thuộc nghiệp ác khẩu
Mà thân chịu hành khổ.
Chỉ lấy Thập Thiện mà lấy về khẩu nghiệp, về 4 điều thiện và 4 điều ác của cái miệng. Chính lời nói từ cái miệng tạo cho con người quá khổ, mất hạnh phúc ở trong cuộc đời này, cho nên Phật có đem ví dụ:
Dùng chú thuật đạt lợi
Tội ấy cũng còn nhẹ
Nghĩa là mình dùng bùa chú để lấy của người ta thì đức Phật xem cái tội đó còn nhẹ hơn là cái tội mà mình dùng ác khẩu của mình. Đó là cái thứ nhất.
Cái thứ hai thì đức Phật cũng đem so sánh nữa:
Nếu lấy kinh điển Phật
Hiểu không thấu nghĩa lý
Thành hủy báng Thánh hiền
Tội ấy rất là nặng.
Nếu chỉ đem kinh điển của Phậtrồi cứ dạy thiền định cho người mà tạo ra những cái đau khổ cho con người như thế này, như thế khác, thì đó là người không hiểu được nghĩa lý của những điều dạy trong kinh điển của Phật, họ chính là người đã phỉ báng Phật Pháp. Hầu như người ta cứ lấy kinh điển Phật mà chỉ lo tu thiền, người ta không có tu thiện, do vậy mà con người khổ vẫn hoàn khổ. Cho nên bài kệ này đức Phật đem cho chúng ta thấy để chúng ta nhận cho rõ.
Nếu lấy kinh điển Phật,
Không hiểu thấu nghĩa lý,
Tức là mình không hiểu kinh điển Phật, cho nên mình lấy đó để mà tu thiền, không thấy được cái Thập Thiện vì vậy thành ra hủy báng Phật Pháp. Bởi vì bài kệ này đức Phật thấy cái chỗ hiểu sai của chúng ta là không hiểu Thập Thiện mà lại hiểu về thiền định, hiểu về 4 thiền, 8 định hay hoặc là Tam minh mà không hiểu được cái chỗ căn bản nhất của đạo Phật, cái chỗlợi ích nhất của đạo Phật đối với con người. Đạo Phật ra đời là để giải quyết nỗi khổ của con người, chứ đâu phải giải quyết Tam minh, đâu phải giải quyết sự vi diệu thần thông phép tắc, đâu có giúp con người làm những chuyện đó, mà chỉ muốn giúp cho con người thoát cảnh khổ, biết thương nhau, biết đùm bọc nhau,biết xoa dịu các sự khổ của nhân quả nghiệp báo mà mỗi con người khi sinh ra đều đã có mang theo ở trong thân tâm của mình rồi. Cho nên ở đây nếu hiểu kinh điển của Phật theo cái kiểu chỉ biết thiền, biết định không thì cái đó là hiểu sai, cái đó thành hủy báng Phật Pháp, cái tội đó rất nặng. Cho nên chúng ta phải trở về với Thập Thiện thì chúng ta mới hiểu đúng Phật Pháp, mà không trở về với Thập Thiện thì chúng ta hiểu sai Phật Pháp.
Kế nữa, đức Phật cũng nhấn mạnh chỗ này để chúng ta thấy:
Nếu lấy kinh điển Phật
Không thấu hiểu nghĩa lý
Không thực hành viên mãn
Lại đem dạy người khác
Thành hủy báng Thánh hiền
Tội ấy còn nặng hơn.
Bây giờ mình thực hiện Thập thiện chưa được, mình còn chạy theo ham muốn, mình còn làm những điều ác bằng những cách này bằng những cách khác, mình thực hiện Thập thiện chưa xong rồi mình đem dạy người khác, đó là mình phỉ báng Phật pháp. Thay vì kinh điển của Phật đem ra dạy người để cho người ta được hạnh phúc an vui, được sự thương yêu nhau thì cái đó là cái đúng, mà bây giờ người ta theo đạo Phật mà không thương nhau, người ta giày xéo lên nhau bằng cách này bằng cách khác; đạo Phật là đạo cứu khổ mà bây giờ người theo đạo Phật như vậy thì cứu ai đâu bây giờ? Càng ngày họ học Phật pháp mà họ lại càng huênh hoang nữa thì điều đó là điều càng lúc càng sai. Người đã không hiểu Phật pháp màlại đem kinh điển Phật pháp dạy như vậy đó, thì người đó phải thọ lấy những tội còn nặng hơn.
Đó là bài kệ kết thúc lộ trình thứ nhất tu tập về Thập thiện - mười điều lành để dứt trừ mười điều ác - là lộ trình thứ nhất để chúng ta biết được cái đúng của đạo Phật. Chính chỗ này nói lên mục đích của đạo Phật muốn giúp cho đời thoát khổ chứ không phải giúp cho chúng ta có những thiền định cao siêu làm chủ sống chết, cũng không phải để làm cho người ta thấy nhập định không có thở nữa, hoặc là biến ra nhiều thân, hoặc là hóa lửa, hóa hào quang, cũng như không phải là thực hiện Tam minh nhớ lại nhiều đời nhiều kiếp của mình. Điều đó không phải là mục đích của đạo Phật đâu. Mục đích chính của đạo Phật là chỗ làm sao cho con người ở trên thế gian này, trên hành tinh này không còn khổ nữa.
Cuộc sống không có cần thánh thiện gì hết mà chỉ biết thương nhau, chỉ đừng làm khổ nhaunữa. Khi chính những bàn tay khối óc của mọi người hành đúng ba hành động thân khẩu ý của họ toàn thiện thì họ sẽ gặt được quả tốt của đời sống của họ, từ đó họ chấm dứt được sự đau khổ. Cho nên Phật nói là “tự thắp đuốc lên mà đi”. Đi ở trong con đường thiện để cứu lấy mọi người, chứ đâu phải đi trên con đường thiền định để cứu chỉ có một mình mình.
Bây giờ Thầy nhập định được, thử hỏi quý cư sĩ bây giờ muốn chết như Thầy được không, mà Thầy có làm gì cho quý thầy chết được không? Đâu có được. Thầy bảo hơi thở Thầy ngưng, chứ Thầy đâu có bảo dùm cho các thầy hơi thở của các thầy phải ngưng, đâu có ngưng được phải không? Thầy chỉ ngưng hơi thở một mình Thầy thôi. Còn bao nhiêu người khác muốn chết không có được. Bây giờ nó dở chết dở sống, đau khổ muốn chết mà bảo hơi thở ngưng hoài nó ngưng không được. Thầy cũng đâu có bảo hơi thở của quý thầy ngưng được, Thầy chỉ có bảo một mình Thầy. Cái đó là cái ích kỷ của Thầy chứ không phải là cái thực hiện tốt đâu. Còn Thập Thiện là cái chúng ta đem lại nguồn hạnh phúc chung cho mọi người, mà cái đó cái dễ, đâu có phải là cái khó. Bởi vì chúng ta biết cái ác thì chúng ta đừng làm, chúng ta biết cái thiện thì chúng ta làm, thì điều đó là điều đem đến hạnh phúc cho mọi người, mà người nào cũng có thể thực hiện được hết, không có người nào làm không được. Một trẻ con bây giờ 5-6 tuổi, 7-8 tuổi bảo mà nó "Đừng giết mấy con kiến, những con vật đó nó biết đau lắm, con đừng có giết nó". Những đứa trẻ nó nghe vậy nó thấy vậy nó không bao giờ giết kiến đâu. Cái chuyện đó con nít làm được mà, nó vẫn tu được mà, đâu có gì khó đâu. Đó là những điều chúng ta dạy nó, từ đó nó không giết hại chúng sanh, nó không làm đau khổ chúng sanh, thì hành động đó sẽ đem lại cho nó sau này không bịquả khổ, nó không có cái quả khổ đối với cái hành động làm tốt của nó. Như thế thì tự nó nó đã làm chứ mình đâu có làm cho nó được đâu. Nó không giết hại thì nó không khổ, mà nó giết hại thì nó phải chịu thọ quả khổ đó.
Đó là những điều thực tế và cụ thể như vậy thì con nít bây giờ 5 tuổi 10 tuổi nó vẫn tu tập được theo đạo Phật. Những điều nó làm hôm nay sẽ đem lại hạnh phúc cho nó sau này, đâu có gì khó đâu. Thầy nói Thập thiện không khó đâu, chứ không phải ngồi thiền hít thở như chúng ta bằng cách này hay cách khác thì con nít làm không được, hoặc là bảo ngưng hơi thở thế này thế khác, thì đứa bé làm không được chứ bảo đứa bé đừng giết chúng sanh, đi coi chừng đừng đạp kiến, côn trùng thì nó có thể làm được. Mà nó làm được như vậy, tâm nó còn nhỏ như vậy mà biết thương tất cả chúng sanh thì nó cũng sẽ thương tất cả mọi người khác. Từ đó chúng ta tập luyện đứa bé có những hành động hằng ngày làm như vậy thì nó huân lại những điều đó, đời của đứa bé không có còn khổ nữa, chính cái đó mới là cái tốt.
***