• amthat3
  • tranhducphat
  • tinhtoa1
  • phattuvandao1
  • tamthuphattu
  • daytusi
  • amthat1
  • thanhanhniem1
  • huongdantusinh
  • vandao2
  • ttl1
  • lopbatchanhdao
  • thanhanhniem2
  • toduongtuyetson
  • vandaptusinh
  • ttl3
  • quetsan
  • tinhtoa2
  • phattuvandao3
  • chanhungphatgiao
  • benthayhocdao
  • khatthuc1
  • amthat2
  • lailamtoduong1
  • thanhanhniem3
  • ThayTL
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc
In bài này

Pháp Tu Cư Sĩ - Tứ Vô Lượng Tâm (Bài 5)

Lượt xem: 7675

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT


 

II.- PHÁP TU CƯ SĨ

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM (Bài 5)

E.- TRAU DỒI TÂM XẢ VÔ LƯỢNG (Bài 2/2)

3.- XẢ TÂM DANH

Bây giờ đến xả vô lượng tâm danh để chúng ta biết không phải chỉ có một cái danh, cái danh có rất nhiều. Hồi nãy là mình xả tiền của, bây giờ tới cái danh. Sắc, rồi tiền của, rồi danh, có 5 thứ dục lạc, bây giờ mình tới được phần thứ 3 là xả cái danh.

 

Danh là gì? Là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tiếng tán thán, tiếng tốt đẹp, vinh quang, hiển hách, chứng ngộ, chứng đạo, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ, đại đức, thượng tọa, hòa thượng, sư bà, sư trưởng, giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, viện chủ, trưởng ban, phó ban, giáo chủ, pháp chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần, thánh, tiên, Phật... đều là những danh từ chỉ cho danh.

Các thầy thấy rõ cái danh, nó làm cho chúng ta mê thích lắm. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai mà không muốn làm viện trưởng? Ai không muốn làm viện chủ? Người nào mà được gán cho mình là giáo chủ, viện chủ, rồi thiền chủ, pháp chủ, rồi cao tăng, rồi giới đức… thích lắm. Coi như là bậc vĩ đại rồi, hơn thiên hạ rồi, ngồi trên thiên hạ rồi. Đó là cái danh mà. Cho nên thần, thánh, tiên người ta cũng ca ngợi vì vậy mà những cái danh đó làm cho con người thích lắm. Mà khi được cái danh như vậy thì người ta khoái vô cùng tận. Người ta thấy mình trên hết rồi. Do cái danh như vậy nên chúng sanh mê muội, bị cám dỗ, bị lôi cuốn, bị thu hút như đá nam châm. Khiến cho con người chạy theo danh quá nỗi mệt mỏi, cuồng loạn trong tâm của mình. Vì vậy có người thất vọng, tự tử, quyên sinh. Chạy theo cái danh mà không đạt được, cho nên có nhiều người thi cử rớt thì thôi thôi đi tìm cách tự tử cho rồi. Có phải ngu si không? Đi cầu cái danh giả hão như vậy không được mà lại đi quyên sinh cái thân mạng này. Có người thì mệt mỏi thất bại danh lợi rồi vô chùa để tu, thiệt là điên khùng. Chạy theo danh giả đó là những sự cám dỗ của nó làm cho chúng ta quá u mờ, không có thấy được cái ngu đó.

Danh nhỏ là thầy thợ, nghĩa là mình làm người tôi tớ thì thấy nó xấu xa quá cho nên mình học, để làm ông thầy, mình dở dở thôi làm ông thợ cũng ngon hơn là làm thằng đầy tớ. Đó là cái danh nhỏ đó, nó cũng là cái danh. Danh lớn là ông này bà kia, danh nhỏ là thầy thợ, thầy ký, thầy thông, thầy này thầy kia nghe cũng thơm. Thầy giáo cô giáo thì nghe cũng khoái còn hơn người ta nói là con đầy tớ hay là thằng ở thì nghe nó nhục nhã quá. Phải không?

Cho nên chúng ta đều bị ở trong cái danh lôi cuốn chúng ta. Rồi từ cái danh nhỏ lần lần đi tới cái danh lớn. Để thành ông này bà kia, rồi người cai quản cái này, người cai quản cái kia để coi như mình có chủ động điều khiển được một số người dưới tay của mình. Như thí dụ về quân đội thì có ông phó đội trưởng, rồi đội trưởng, rồi ông trung đội trưởng, rồi đại đội trưởng, … Đó, các con thấy tất cả những cái đó là cái danh để cho thấy cái quyền hạn của người ta ở trong cái danh đó làm được những gì đó, cho nên người ta ham lắm. Từ ông tiểu đội phó mà lên cho được ông đại tá, mà khi được làm ông đại tá thì mặt họ nghênh nghênh ở trên trời, họ coi nhưở dưới đất này không còn ai hết. Đó là cái danh. Cái danh làm cho cái ngã họ lớn lên, điên khùng, chớ họ cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, cũng đau cũng khổ, cũng buồn cũng khổ cũng nhức nhối như mình, chứ khác gì đâu. Thế mà gán cho cái danh thì họ thấy họ hơn hết. Cho nên khi gán cho họ cái danh rồi thì có nhiều người thấy họ bèn khúm núm, khúm núm. Họ là cái gì mà phải khúm núm? Họ cũng như mình, có gì đâu mà phải sợ. Chỉ có cái danh không mà chúng ta đã quá sợ rồi.

Ở đây Thầy xác định để cho chúng ta thấy cái danh cám dỗ chúng ta rất mạnh như vậy, làm cho chúng ta phải sợ hãi như vậy. Từ những cái danh này mà người ta điên khùng, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, ton hót để cầu cho được cái danh. Có nhiều người đi thi phải đem tiền bạc, lo lót tiền bạc để cho đậu. Đó không phải đem tiền để mua danh sao? Đó là những cái sai, cái không đúng mà người ta lầm chấp, vì cái danh nó cuốn hút họ quá. Họ muốn có cái tên tuổi như thế này nhưthế khác. Cũng như Thầy nói như thế này: có nhiều người không ai biết đến hết, bây giờ đùng ra cái họ tập trung một số người đi làm từ thiện, kêu gọi nhau đóng góp. Để làm gì? Đó chẳng qua cũng là cầu danh từ thiện chứ chưa chắc là họ đã thương yêu người khác thật. Làm những việc bố thí đó, người ta nhận giấy tờ này giấy tờ kia đầy ắp lên để làm gì? Để mai mốt đem ra khoe tôi bố thí chỗ này chỗ kia. Đó không phải là danh sao? Danh từ thiện, danh tôi biết thương người. Nhưng mà thật sự ra hở ra một chút thì mắng người không nhịn. Các thầy có xét thấy không, có nhiều người làm từ thiện, họ có nhịn ai không? Họ chửi người ta như tát nước. Vậy mà họ thương người à? Hơi hơi chạm đến họ một tí là coi như họ muốn giết mình! Mà là họ làm từ thiện.

Bởi vì đời nó giả dối, đủ thứ giả dối hết. Người tu mà đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, đầy đường chật xá để chứng tỏ có nhiều người hầu hạ theo mình. Một ông thầy tu mà đi rần rần rộ rộ, năm mười chiếc xe để làm gì? Để tỏ cái danh chứ gì, để có người hầu kẻ hạ chứ gì. Đi đâu cũng tổ chức Phật tử rần rần rộ rộ. Một bậc chơn tu mà đi như vậy! Làm ra cái vẻ như là vua chúa, chứ đâu phải là người tu. Thầy nói ra thì đụng chạm hết cả đám nhưng phải nói, tu phải ra tu, mà không tu thì không tu, chứ đừng làm cái trò trống bệ vệ trong cái danh của mình, để khoe khoang cái giàu sang, cái tài ba của mình. Với sự tài ba của con người có nhằm nhò gì mà khoe khoang. Khoe tài sản của cải là khoe danh giàu sang.

Tóm lại, danh là một thứ dục lạc cám dỗ và nuôi lớn bản ngã con người. Các thầy thấy bản ngã con người lớn theo cái danh của nó chớ không phải nó nhỏ đâu. Cho nên mới làm một người đầy tớ hôm qua mà bữa nay lên làm quan rồi thì cái mặt cái thằng đầy tớ nó ngước lên. Thầy nghe nói câu chuyện như thế này: Có một thằng đánh xe ngựa cho Yến Anh, (Yến Anh làm thừa tướng cho vua Tề), ông ta chỉ là thằng đánh xe ngựa thôi mà ổng đi ra đường ổng hét la người ta tùm lum hết, ổng coi nhưổng là Yến Anh vậy. Các thầy nghĩ như thế nào? Mượn cái oai danh của Yến Anh mà làm oai với thiên hạ, coi như mình là thằng ngon rồi. Đó là mượn danh, chứ chưa phải là cái danh thật của mình mà còn làm như vậy. Bà vợ nẹt ổng, sau đó ổng mới rút đầu lại. Thiệt ra thì cũng có bà vợ có trí, chớ nếu không, vợ chồng cùng vênh váo. Đó là chuyện thằng đánh xe của quan Thừa tướng Yến Anh. Hôm nay Thầy nhắc lại những câu chuyện người xưa, cho thấy điều đó là vì cái danh đó chứ đâu phải cái gì khác.

Cho nên người tu hành mà biết xả tâm vô lượng danh này thì phải dùng pháp hướng Như lý tác ý. Các con phải nhắc pháp hướng để cho nó biết cái danh là thứ gì, không khéo cái ngã của chúng ta bừng lên theo cái danh đó. Chúng ta phải đánh sập nó xuống, đánh nhẹp nó xuống, không để nó ngóc đầu lên. Cái ngã ham danh lắm, mỗi mỗi chút chút là nó ham danh. Do ham danh đó mới có những anh hùng cá nhân, cho nên người ta không có làm việc lớn cho xã hội được. Từ lâu đến giờ vì anh hùng cá nhân đó mà con người chém giết nhau. Trên thế giới này, nước này yên thì nước kia chém giết, nước kia chiến tranh. Không bao giờ có một nước nào yên, cũng bởi vì anh hùng cá nhân này, nếu anh hùng tập thể thì không bao giờ có sự giết chóc.

Đạo Phật thì không có anh hùng, cho nên ông Phật đâu có nói rằng ổng là người ngon đâu. Trước ông có 7 đức Phật, sau ông còn có đức Phật Di Lặc. Cho nên một đạo Phật mà có nhiều giáo chủ như vậy tức là sự khiêm nhượng của con người, như vậy mới chính là đạo Phật.

Muốn xả tâm vô lượng danh ta phải dùng pháp hướng Như lý tác ý nhắc tâm:

"Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau khổ, hay tranh cãi, lý luận, giận hờn phiền não. Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, viễn ly, chẳng mong cầu danh gì cả, chỉ biết tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử mà thôi."

Chúng ta chỉ biết giải thoát mà thôi, không cầu ai gọi mình là Phật, là viện chủ, viện trưởng gì hết. Không cần biết ai gọi mình là chơn tu hay không chơn tu nữa. Chỉ biết làm sao làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi của mình mà thôi. Câu ám thị mình như vậy đó. Câu hướng tâm tác ý như lý như vậy để chúng ta xả cho sạch cái danh. Chớ cái danh nó ngầm lắm, nó ngầm ở trong tâm chúng ta, nuôi cái ngã chúng ta dữ lắm. Chúng chưa bộc lộ ra chứ khi chúng ta ngồi lên được một cái ghế danh rồi thì phải biết nó như thế nào. Cho nên hiện giờ Thầy chưa ngồi trên cái ghế danh, Thầy đã sớm xa lìa nó, không cho nó lôi Thầy xuống, không cho nó nhận Thầy xuống cống. Bằng không thì những lời Thầy đang nói ở đây không khác gì Thầy chửi Thầy chứ không ai xa lạ hết, bởi vì Thầy không thực hiện đúng những lời Thầy đã nói ra cho quý thầy nghe, khi ngày nào đó Thầy nhận danh là Viện trưởng thì người ta sẽ nhận Thầy xuống lỗ cống liền.

Câu hướng tâm thứ hai:

"Danh là tên giặc hão huyền không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cao ngạo. Ta hãy xả xuống hết không còn một cái danh gì trong ta. Ta chỉ là một con người như bao con người khác."

Câu ám thị này nhắc nhở mình. Mình chỉ như mọi người khác, bình đẳng như mọi người khác, như những người nhỏ nhất, hạ tiện nhất, giai cấp nhỏ nhất ở trong thế gian này. Mình cũng chỉ là những con người đó. Nhắc như vậy cho nó thấm nhuần, hàng ngày phải đặt niệm trước mặt mà hướng tâm, không khéo hở ra một chút thì bản ngã chúng ta đồ sộ lên, nó chạy theo cái danh đó.

Đó là những câu hướng tâm thực tế và cụ thể giúp quý thầy xả cái tâm danh của quý thầy, cái tâm danh đương đeo đẳng ở trong lòng của quý thầy. Người tu sĩ của đạo Phật chúng ta đã biết mặt 5 thứ dục lạc này, trong đó, cái danh không phải là dễ xả, nó rất mạnh, mạnh hơn tất cả những cái khác. Có ai không muốn danh của mình hơn mọi người? Có ai không muốn mình hơn người? Những cái đó là cái danh chứ không phải cái gì khác. Cho nên biết rõ như vậy thì hàng ngày phải siêng năng tác ý. Dùng tác ý đập cho mạnh những đối tượng danh này cho nó nhẹp, cho nó tiêu, cho nó đoạn tận, cho nó diệt trừ, cho nó không còn ngóc đầu lên được nữa, cho nó chết luôn. Như vậy chúng ta mới có cơ duyên thành được một con người giải thoát hoàn toàn, không còn bị cái danh sai chúng ta làm những điều nô lệ.

Đây, Thầy dùng pháp hướng Như lý tác ý về danh:

"Danh là một thứ dục lạc vô hình thu hút và cám dỗ con người rất mạnh, nuôi lớn ngã mạn, cống cao, do đó sinh ra ngũ triền cái tham sân si mạn nghi. Năm triền cái này trói buộc chúng ta muôn đời muôn kiếp sống đau khổ. Vậy ta hãy lánh xa từ bỏ, từ khước, viễn ly tất cả các loại danh."

Đó là câu hướng tâm, câu trạch pháp để chúng ta như cái lý này mà tác ý ra làm cho chúng ta mãi mãi xa lìa những cái danh, những cái lợi, những cái ăn.

"Danh dục lạc có một ma lực vô hình lôi cuốn và cám dỗ con người vào chỗ sanh tử luân hồi. Ta phải từ giã, từ khước, từ bỏ, lánh xa, viễn ly danh dù bất cứ trường hợp nào."

Nghĩa là bất cứ trường hợp nào dù nhỏ, lớn chúng ta đều phải nhận diện ra nó để xa lánh nó. Nhiều khi nó qua trường hợp khác, nó làm cho chúng ta không thấy đó là cái danh,do vậy chúng ta bị nó gạt. Cho nên đức Phật dạy khi có danh, có lợi, có sự cung kính, chúng ta hãy lánh mặt. Lời Phật dạy, Thầy khắc ghi trong lòng, nhớ mãi muôn đời không bao giờ Thầy quên. Cái ma danh, Thầy biết nó rất mạnh.

"Người tu sĩ lãnh đạo tăng đoàn mà đón danh lợi vào chùa là đón rắn độc. Rắn sẽ cắn chúng tăng chết hết. Vậy người lãnh đạo tăng đoàn phải xa lánh, từ bỏ, từ khước danh lợi để cứu lấy chúng tăng, để cứu lấy Phật giáo."

Đó là câu nhắc nhở cho những người lãnh đạo, những người tu như Thầy bây giờ. Đó là câu ám thị, ám thị cho Thầy đó. Cho nên câu này đã nhắc đi nhắc lại Thầy rất nhiều. Không khéo thì dẫn danh dẫn lợi vô đây cắn quý thầy chết hết, không có người nào sống đâu. Đó là những điều mà Thầy đã thấy xa, chứ không phải thấy gần đâu. Không phải đợi khi rắn độc danh cắn chết hết cả đám, rồi mới bật ngửa ra đó. Thấy xa như vậy cho nên quý thầy không bị rắn cắn.

Đây là xả vô lượng tâm danh dục lạc thế gian. Quý thầy phải hằng ngày một lần hai lần, ba lần, bốn lần tu tập như lý tác ý trau dồi tâm mình. Phải xả cho sạch danh lớn, danh nhỏ. Vì danh là vô hình, vi tế rất khó xả nên quý thầy phải đề cao cảnh giác, siêng năng tu tập thì mới xả vô lượng tâm danh này được. Xả nó không phải dễ đâu, cho nên quý thầy phải cảnh giác, siêng năng, phải thường hằng tác ý. Nó móng một xíu quý thầy hổng thấy nó đâu, chừng khi nó lộ tướng lộ hình thấy được thì ôi thôi nó đã cắn mình rồi.

Khi xả xong vô lượng tâm danh dục lạc này được thì thân tâm quý vị thênh thang, nhẹ nhàng, an lạc với đời sống ba y một bát giải thoát, hoàn toàn Niết bàn tại thế. Nghĩa là xả cái tâm danh rồi quý thầy mới thấy được nó. Tâm danh lợi này còn, thì dù quý vị ở núi cao khổ hạnh tối đa, tâm hồn của quý vị cũng nặng như treo đá. Thí dụ như thầy Chơn Trí về ở trong núi cao trắc trở đó mà cái tâm danh của thầy không xả được thì dù thầy ở trong núi đó, tâm của thầy cũng như treo đá chứ không nhẹ nhàng an lạc gì đâu.

Quý thầy nên lưu ý năm thứ dục lạc lớn dễ xả. Năm thứ dục lạc nhỏ tuy rằng vật chất tầm thường, một cuốn kinh sách, một bài thơ, một bài kệ, một bài văn, một kiến thức Phật pháp, một kiến chấp, một chai dầu nhỏ, một cục xà bông, một cây kem, một bàn chải, một cây kim, một sợi chỉ đều là ngũ dục lạc nhỏ, khó xả lắm quý vị. Hãy đề cao cảnh giác, hết sức thận trọng. Xem thì rất thường mà xả thì rất khó. Coi chừng những vật dụng xung quanh quý vị, coi chừng nó nhỏ không ra gì chứ nó trói buộc quý vị lắm đó. Thầy giảng như vậy thì quý thầy phải để ý từng chút từng chút. Nếu là một người tu sĩ thì phải xả cho thật sạch. Một vật nhỏ còn dính thì vật lớn cũng sẽ dính. Nó không tha quý vị đâu. Bởi vì nó là một sức cám dỗ của ngũ dục lạc. Năm thứ dục lạc cám dổ rất mạnh, một vật nhỏ mà còn dính là quý thầy bị tiêu đó, chứ đừng nghĩ rằng quý thầy giải thoát. Thấy mình chùa không to, tháp không lớn, ở chòi tranh vách lá, ở rừng, ở núi, ở hang nhưng mà còn hai cây kim là quý vị đã bị dính, còn một cuộn chỉ to là quý vị đã bị tiêu, còn hai cái y là quý vị đã bị tiêu, chứ không phải tưởng đó là chuyện nhỏ, nó tầm thường. Chuyện nhỏ đó còn là còn nuôi cái mầm chạy theo dục lạc đó.

Vì thế hôm nay Thầy ẩn bóng để xả vô lượng tâm này cho thật sạch như một người đã chết bỏ xuống hết. Bây giờ sanh đã tận, phạm hạnh mới xong, những việc làm Thầy đã làm hết, không còn trở lui đời sống này nữa. Bây giờ quý thầy mới hiểu được cái chỗ ẩn bóng của Thầy chứ gì. Đó là mục đích của Thầy xả sạch, đó là xả tâm vô lượng sạch đó. Xả vô lượng cho sạch, mà bây giờ mình còn như thế này là mình chưa xả sạch, phải không? Các thầy thấy rõ Thầy bây giờ chưa xả sạch: chưa xả đồ chúng, chưa xả cái chùa mình nè, chưa có ba y một bát, như vậy là chưa xả sạch. Nó còn vi tế, coi chừng cái vi tế này nó sẽ trở thành cái lớn của nó đó. Cho nên ở đây thấy rất rõ. Qua những bức thơ của thầy Thiện Thiền, thầy chưa nhận ra được cái ý chỉ của Thầy cho nên thầy nghĩ rằng phải làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, phải làm Bồ Tát hạnh. Nhưng Bồ tát hạnh là tâm chưa xả sạch.

4.- XẢ TÂM THAM ĂN

Bây giờ đến phần xả vô lượng tâm ăn. Cái ăn cũng vô lượng lắm bởi vì ăn món ăn này, ăn món ăn kia, ăn món ăn nọ, đủ thứ hết. Bởi vì cái ăn, lúc ăn đường, lúc ăn bánh. Nếu thèm một chút là chúng ta bị ăn lôi cuốn đó. Cho nên người ta làm đủ loại bánh, lúc thì làm bánh mùi này, lúc làm bánh mùi kia, lúc thì làm nó ngọt, lúc thì làm lạt. Rồi thực phẩm ăn hàng ngày cũng vậy, cơm thì cơm chiên, cơm xào, cơm chưng, cơm nấu đủ loại. Nào là cơm nấu bằng nước dừa, cơm nấu bằng nước này nước kia để cho thay đổi khẩu vị. Do đó chúng ta phải xả vô lượng thực phẩm ăn này, cho nên nói xả vô lượng tâm ănlà xả vô lượng tâm háo ăn, tâm thích ăn ngon, tâm thích đủ mọi loại. Phải xả nó đi, nhưng mà xả không có nghĩa là để chúng ta ăn muối. Chúng ta xả nghĩa là để cho cái ăn không lôi cuốn chúng ta, không để chúng ta đắm đuối nó, như vậy là điều kiện chúng ta xả cái ăn.

Ăn là một dục lạc lớn trong ta. Thân ta phải ăn mới sống. Nhưng ăn lại là một dục lạc lớn. Ăn mà còn cầu ngon, chê dở, thì đó là dục lạc ăn đã lôi cuốn ta, nghĩa là mình thấy ngon thấy dở đó là mình đã bị dục lạc rồi. Ăn mà còn cầu bổ, cầu béo, cầu mập thì đó là bị dục lạc ăn cám dỗ chúng ta rồi. Chúng ta ăn vốn là để sống, để giải trừ bệnh đói chớ không phải để cho mập cho béo. Khi mình mập béo khỏe mạnh là mình không chết sao? Có người nào mập béo khỏe mạnh mà không chết? Cho nên ăn nghĩ cho nó bổ, cho nó mập, cho nó béo để cho nó sống trường thọ, thì điều suy nghĩ đó là điều lầm lạc, hiểu sai.

Phật nói cái thân này là vô thường, nó không thể nào kéo dài cái mạng sống nó quá số thời gian được. Mặc dù chúng ta ăn có đủ chất bổ nhưng nó cũng chỉ duy trì sức khỏe chứ không sống thêm một thời gian nào.

Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, nuốt không vô đó cũng là dục lạc ăn cám dỗ, chớ không phải nói chúng ta thấy ngon là nó cám dỗ đâu, mà thấy ớn, ăn không vô cũng là bị cám dỗ rồi đó. Ăn mà thấy ưa thích là bị dục lạc ăn cám dỗ. Ăn mà không cầu ngon, không chê dở, không ngán, không ớn, không chê, là dục lạc ăn không cám dỗ. Chúng ta phải phân biệt. Chúng ta có đồ ăn ngon mà chúng ta không thích, chúng ta ăn dở mà chúng ta không ngán, chúng ta không ớn thì đó là dục lạc ăn không cám dỗ. Ăn để sống. Chúng ta phân biệt được câu này để chúng ta hiểu rằng khi chúng ta ngồi ăn mà thức ăn ngon thì chúng ta thấy cũng như khi ăn món ăn dở, chúng ta không tham, không ngán, không ớn gì hết thì đó là cái ăn của chúng ta không bị dục lạc ăn cám dỗ.

Tóm lại, ăn là thứ dục lạc ghê gớm. Thực phẩm tiếp xúc với vị giác của chúng ta gây sự cám dỗ lôi cuốn rất mạnh. Người thế gian phàm phu chưa học Thánh pháp và Tùy pháp nên đều bị ngã gục trong mặt trận đồ ăn uống này cám dỗ. Nghĩa là mọi người ở trong thế gian đều bị sự ăn uống cám dỗ lôi cuốn, ngã gục trên mặt trận cám dỗ này chứ không có người nào thoát ra khỏi được. Chỉ có những bậc tu hành đúng giới luật của Phật mới thoát ra khỏi sự cám dỗ của ăn uống. Chứ còn lơ mơ là người nào cũng bị dính hết. Các thầy thấy rất rõ lâu ngày không ăn đường, không có gì hết thì thấy nó thèm rồi, lúc bấy giờ là lúc mình chiến thắng lại chất ngọt đó. Nếu không, khi thấy người ta mời một ly sữa hoặc một ly nước ngọt là nghe run người rồi, thèm quá chảy nước miếng rồi, đó là cái ăn cám dỗ. Có nhiều người thích me chua, khi nghe người ta nói đến me thì nước miếng chảy ra ròng ròng rồi. Đó là cái gì? Cái đó là cái cám dỗ của cái chất chua. Nó làm cho chúng ta chảy nước miếng ra, đó là nó làm cho chúng ta thích, nó cám dỗ chúng ta. Chúng ta biết cái ăn có sự lôi cuốn rất mạnh. Ngay khi nghe cái tiếng thôi chứ chưa thấy người ta nhai nữa, là nước miếng mình chảy lau hoài không hết. Đó là cái thèm ăn kích thích, nó làm cho chúng ta thèm. Nó là một sự thật. Nó có sự cám dỗ rất mạnh, nó làm cho chúng ta khao khát, thèm muốn dữ lắm. Trong thân của chúng ta có tính chất đó như vậy.

Cho nên người tu sĩ đạo Phật chúng ta chiến thắng lại nó. Không thèm. Mà không thèm thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải hướng tâm Như lý tác ý, ám thị nó. Cho nên thấy người ta nhai me mà nước miếng mình không chảy là mình đã thành tựu rồi đó. Còn khi thấy người khác nhai me mà mình ngồi đây chảy nước miếng thì pháp tác ý chưa thành tựu đâu, pháp tác ý của mình chưa viên mãn đâu, phải tập nữa, phải tu nữa. Một ly nước ngọt, một ly sữa, một cái bánh, một cái kẹo, một trái cây rất tầm thường mà quý vị không khéo giữ gìn là quý vị phạm lỗi ăn uống phi thời. Bị cám dỗ mà không biết còn lý luận che đậy tội lỗi. Thậm chí một viên thuốc vitamin C chua chua ngọt ngọt và các loại thuốc khác có hình thức như kẹo để chống ho, chống viêm cổ mà đặt nó vào miệng để ngậm còn phạm tội phi thời thay huống là theo dục lạc, đã bị cám dỗ bởi vị giác của quý vị. Đó, một viên thuốc thôi, nó ngọt ngọt chua chua, nó làm kẹo the này kia nọ mà bỏ vào miệng phi thời thì ngay đó quý thầy đã bị phạm phải lỗi ăn phi thời. Thầy kết luận như vậy để cho quý thầy thấy rằng sự tu hành chúng ta phải chiến thắng tận cùng, không để chúng ta chạy theo vị giác cám dỗ chúng ta khi tiếp xúc với thực phẩm. Và thực phẩm tức là ăn.

Người tu sĩ phải cảnh giác đến mức độ đó như vậy mới thấy được sự giải thoát thân tâm mình. Nó lý luận là bây giờ chúng ta khô cổ này, chúng ta phải ngậm cho nó. Cũng như quý thầy làm ly nước chanh đường để cho Thầy thông cổ. Đó là cái lý luận để che đậy, chứ Thầy nói suốt ngày Thầy có uống ly nước chanh nào, nhưng mà Thầy có khô cổ đâu. Nếu cứ lát nhấp chút, lát nhấp chút thì để nuôi dưỡng vị ngọt, vị chua cho khoái khẩu chớ đâu phải là cái gì khác hơn. Tức là lý luận để nuôi lớn cái dục chứ không phải gì hết. Cho nên gọi là xả tâm vô lượng thì phải thấy được những cái vi tế của nó, thấy được sự che đậy vi tế của nó, trong khi chạy theo dục lạc thế gian mà không lường trước được những tai họa sau này thì tất cả những cái dục lớn đều thể hiện ra hết. Từ phi thời một viên thuốc nhỏ mà không chận đứng, không chấm dứt thì chúng ta sẽ bị tất cả những vật cám dỗ khác lôi cuốn hết.

Người tu sĩ cảnh giác như vậy, đề phòng như vậy, phòng hộ 6 căn của mình như vậy mà tu còn khó khăn thay, huống hồ những kẻ không phòng hộ. Thử hỏi như một người tu hành không phòng hộ 6 căn mà ra chợ nhiếp thiền định thì thiền định làm sao được. Người ta sinh ra, ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Thế mà kẻ không hiểu pháp thánh hiền, không tùy Thánh pháp nên trở thành sống để ăn. Chúng ta là những người hiểu được pháp Thánh hiền thì chúng ta biết ăn là để giải trừ bệnh đói chứ không phải ăn để ngon để ngọt nữa. Người phàm phu không biết pháp cho nên sống để ăn. Bây giờ họ sống ăn cho đã đi, ăn cho đầy đi, ăn cho ngon đi, chạy theo dục lạc ăn cho đã đi, nghĩa là họ không biết cái gì hết, miễn món ăn nào ngon trên thế gian này là phải mua ăn cho được, thì những người đó là những người chạy theo dục lạc. Người tu sĩ Phật giáo phải làm chủ cái ăn, không được ăn phi thời. Ăn uống phi thời là phi phạm hạnh, là chạy theo dục lạc, mà chạy theo dục lạc ăn là ngạ quỷ, là coi như mình là loài ngạ quỷ, là quỷ sa tăng.

Phần đông tu sĩ Phật giáo hiện giờ từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, từ trên xuống dưới đều bị quỷ dục lạc ăn cám dỗ và lôi cuốn xuống địa ngục tất cả. Không khắc phục được ma dục lạc ăn thì làm gì tu tập chánh thiền, chánh định được? Tu tập sai một ly hào là cách xa đạo giải thoát một ngàn dặm. Đi tìm đạo giải thoát mà trói mình trong ăn uống thì giải thoát ở chỗ nào? Người ở thế gian bị dục lạc ăn trói buộc đã đành, người tu sĩ Phật giáo là đạo giải thoát mà bị trói buộc vào dục lạc ăn uống thì có phải xấu hổ vô cùng, vô tận không?

Ăn mà không giải thoát thì giải thoát cái gì đây? Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Thầy nói ở đây là sự thật. Một người nhập thiền định là người ta giải thoát được cái ăn, người ta không ăn mà người ta không chết. Đó là giải thoát được cái ăn chớ gì. Rồi người ta lại phục hồi cơ thể người ta sống lại người ta ăn. Thì như vậy là người ta đã làm chủ được sống chết. Còn mình không giải thoát được cái ăn thì làm sao gọi là mình làm chủ sống chết? Cho nên cụ thể rõ ràng, không thể nào chối cãi được lời này. Thầy nhắc lại: giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Cụ thể thứ nhất cho chúng ta thấy: Một người tu thiền định mà ngồi 7 ngày không ăn uống là giải thoát được 7 ngày sống chết. Người ngồi thiền định mà nhập được một tháng không ăn uống là người đó đã làm chủ sống chết được một tháng. Mà người nhập thiền định mà không ăn uống một năm là người đó làm chủ sống chết trong một năm. Cái đó nó quá rõ ràng. Có cụ thể như vậy, nghĩa là bây giờ chúng ta làm chủ được sống chết trong một ngày là chúng ta không ăn một ngày mà chúng ta không chết thì đó là làm chủ được sống chết, mà 2 ngày, rồi 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 2 tháng,… điều đó chứng minh cụ thể không thể nào ai chối cãi được. Còn bây giờ ông nói thiền định gì mà ngày nào cũng ba bữa thì chắc chắn là ông ta không làm chủ sống chết được đâu.

Đó, quý thầy hiểu rõ được con đường thiền định của đạo Phật thực tế và cụ thể chứng minh qua chỗ ăn của quý vị. Và ăn là một thứ dục lạc rất nặng ở trong thân con người. Vì có thân phải có ăn. Cho nên ăn như thế nào để đúng cách là người tu sĩ, ăn như thế nào không đúng cách của người tu sĩ. Người ta tuy tu nhưng cái ăn người ta chưa đúng cách của người tu sĩ thì chưa phải con người tu giải thoát. Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống, đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại, đó là làm chủ cái sống. Người tu sĩ nhập thiền định thì người ta làm chủ được cái này rõ ràng, ở đây quý thầy cũng sẽ lần lượt chứng minh điều đó. Còn làm chủ bệnh, già ưu bi sầu khổ là chỗ nào? Là chỗ lìa 3 sự dục lạc cám dỗ ở trên kia: danh, sắc và lợi. Ở đây lìa cái ăn là chúng ta làm chủ được sự sống chết, mà lìa được chỗ ưu bi sầu khổ, phiền não đau khổ giận hờn thì quý vị phải lìa 3 sự dục lạc ở trên, tức là danh, sắc và lợi. Nói cho rõ ra từ chỗ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn, từ bỏ danh thế gian nhỏ, quyền tước lớn, quyền tước nhỏ, vật chất lớn, vật chất nhỏ thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục một bát ba y mà thôi, đó là chỗ đức Phật dạy: “Sanh đã tận thì mới giải thoát được sanh già bệnh chết, ưu bi, và chấm dứt luân hồi tái sanh”.

Đó, đức Phật cũng dạy chúng ta sanh đã tận, tức là chúng ta phải xả bỏ 3 thứ dục lạc kia đi, tức là danh sắc lợi đó. Chúng ta xả bỏ ba thứ đó đi, ba thứ đó là những sợi dây triền phược trói buộc chúng ta, cho nên chúng ta xả bỏ. Xả bỏ 3 thứ dục lạc tức là sanh đã tận thì con đường giải thoát của chúng ta không còn luân hồi nữa. Chấm dứt luân hồi. Chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể.

Đứng ở trong góc độ của 5 thứ dục lạc này thì chúng ta đã phân được ra chỗ nào làm chủ tâm không còn tái sinh luân hồi, chỗ nào làm chủ được thân sống chết, cụ thể rõ ràng. Tại sao vậy? Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại, đó là làm chủ cái sống.

5.- XẢ TÂM NGỦ

Bây giờ chúng ta tiếp tục xả cái ngủ, xả cái ngủ là xả cái cuối cùng. Năm thứ dục lạc thì cái ngủ là cái cuối cùng.

Ngủ là một thứ dục lạc trong năm thứ dục lạc khiến cho con người thích thú ham mê ngủ. Ngủ là một trạng thái ngu si mê muội, ngủ là một trạng thái bần thần dã dợt, lười biếng. Cho nên những người lười biếng là những người ham ngủ.

Ngủ có nhiều cấp độ. Ở đây quý thầy thấy trong trạng thái ngủ làm cho con người si mê lắm. Do đó mà đức Phật gọi là thùy miên hay vô ký. Đó là danh từ để chỉ cho người lười biếng, người hay ngủ, người ngu si, người không có thông minh. Cho nên gọi là hôn trầm thùy miên. Phải biết ngủ có nhiều cấp độ, không phải nó có một cái hôn trầm thùy miên không thì nó chưa đủ. Vì vậy Thầy muốn chỉ cho quý thầy thấy năm trạng thái đi vào trong cái gọi là ngu si.

Đó là:

- Thứ nhất là hôn trầm,
- Thứ hai là thùy miên,
- Thứ ba là hôn tịch,
- Thứ tư là vô ký,
- Thứ năm là ngoan không.

Năm trạng thái này là năm trạng thái mà người tu thiền thường gặp. Người tu thiền mà ngồi lâu thì lúc nào cũng dễ bị rơi vào một trong năm trạng thái này.

Hôn trầm thì như thế nào? Hôn trầm là người ngồi một lúc thì lại vô ký đi, quên mất đi rồi gục xuống một cái, rồi mới ngước đầu lên. Trạng thái gục xuống như vậy đó gọi là hôn trầm.

Thùy miên là như thế nào? Thùy miên là người đó ngồi cúi cái đầu xuống hoặc quẹo cái cổ qua một bên, rồi bị ngủ quên mất đi, ngủ say ở trong giấc ngủ. Đó là thùy miên. Thùy là ngủ, miên là tiếp tục miên man, miên mật ở trong đó, ở trong giấc ngủ quên đi, ở trong cái không biết đó thì gọi là thùy miên.

Thứ ba là hôn tịch. Hôn tịch là một lúc thì mê, một lúc thì tỉnh tỉnh, mơ mơ màng màng đó. Những người ngủ mà không say mà cũng không gục đó, lúc thì tỉnh lúc thì mê. Cũng như quý thầy tu về hơi thở. Lúc thì biết hơi thở, lúc thì không biết hơi thở. Đó gọi là trạng thái hôn tịch. Nó cũng thuộc cái loại ngủ đó. Khi vừa ngủ vừa mê vừa tỉnh thì cái đó gọi là hôn tịch.

Còn thứ tư thì thuộc loại vô ký. Vô ký là chợt quên đi. Thứ nhất là nó quên cái tâm cho nên lúc bây giờ vừa chợt quên thì nó mất cái tỉnh. Nó mất cái tỉnh thì niệm vọng tưởng xen vô liền. Cái đó gọi là vô ký. Quên rồi nó mới có niệm khác xen vô. Hoặc là nó quên, nếu cái thân nó quên đi thì khi có tiếng động hoặc cái gì đó làm nó giựt mình, hoặc là nó vừa quên vừa giựt mình. Thì đó, cái thân cũng vô ký.

Khi vô ký kéo dài thì vô ký trở thành trạng thái gọi là ngoan không. Nó mới chợt vừa quên thì đó là vô ký. Mà nó kéo dài một thời gian dài từ nửa tiếng hai, ba tiếng mà không ngơ, nó không giống như ngủ, không giống như thùy miên mà nó không ngơở trong đó thì đó gọi là ngoan không.

Cho nên năm cái loại ngủ này gọi là ngu si. Người nào rơi vào trong trạng thái đó thì không còn thông minh nữa, mà càng ngày càng đi tới ngu si. Nghĩa là người ngồi thiền nhập định mà vào cái ngoan không này thì lâu ngày họ phát ra cái trí tuệ của tưởng. Họ tưởng giải. Họ tưởng là đúng nhưng sự thật họ nêu những cái kiến giải, tưởng giải đó ra làm cho lầm lạc tất cả những lối đi, làm cho phá giới luật, làm cho những khuôn phép của Phật mất đi để cho họ được tự tại ở trong cuộc sống, chạy theo ngũ dục lạc. Cho nên người rơi vào ngoan không này thường hay phát triển pháp tưởng. Vì thế mà người sau này dễ bị lầm lạc, nghĩ cái pháp đó là đúng, cho nên từ đó làm lệch con đường tu theo đạo Phật. Làm tất cả những người tu sau này mất lối, không còn biết đường đi nữa. Đó là những cái mà người tu thiền sai bị rơi vào ngoan không tạo thành những pháp tưởng. Vì vậy mà đời mất lối đi, mất đường tu giải thoát. Cho nên từ chỗ ngu si này nó đưa đi đến cái chỗ ngu si khác mà tưởng rằng mình đã có trí tuệ. Đó là cái sai rất lớn trong sự tu tập theo đạo giải thoát. Tất cả những loại ngủ này gọi chung là si thiền hay mê định.

Nói chung những loại si này, người mới vô tu không biết. Cho nên đức Phật dạy chúng ta vào bắt đầu tu thì tu Chánh niệm tỉnh thức làm cho cái sức tỉnh của chúng ta mạnh. Cho nên đi kinh hành nhiều đểtỉnh thức trên hành động, tu trên thân quán ngoại thân, trên cái hành tướng của nó để tu tập, để làm cho có sức tỉnh. Vì vậy mà nó không rơi vào hôn trầm thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không. Còn nếu chúng ta không tu tập Chánh niệm tỉnh thức này mà vội vào khép chân ngồi kiết già, rồi đặt hơi thở, hoặc đề mục nào đó rồi chúng ta ngồi, mà ngồi quá lâu thì cơ thể bị mệt mỏi, do đó nó thiếp dần đi ở trong những trạng thái ngủ. Trạng thái si mê này tạo ra những cảnh giới, tạo ra những trí tuệ không đúng cách, làm cho lệch lạc sự tư duy, mất trí tuệ. Bởi vì nó ngu si, đó là si định nên nó làm cho chúng ta ngu si mà cứ ngỡ tưởng mình là trí tuệ. Từ đó mình dẫn mình đi trên con đường tu hành lạc nẻo mà không hay biết. Cho nên tất cả cái ngủ này đều gọi chung là si thiền, mê định. Kẻ tu tà thiền, định tưởng thường rơi vào trạng thái này. Nghĩa là người tu thiền thuộc tà thiền, định tưởng thì họ thường rơi vào trạng thái của 5 loại ngủ này, không thể nào khác được. Quý thầy cứ nghiệm qua sự tu tập của quý thầy từ lâu đến giờ mà quý thầy không được hướng dẫn tu ở trong Chánh niệm tỉnh thức kỹ lưỡng, bây giờ quý thầy ngồi lâu thì cũng rơi vào trong năm cái loại ngủ ngu si này, trong năm cái thứ mê muội này, chứ không thoát khỏi nanh vuốt của năm loại ngu si này.

Có dịp nói về thiền Thầy sẽ giảng tất cả những loại si thiền này để cho quý thầy rõ hơn. Bây giờ Thầy dạy cách xả tâm vô lượng ngủ. Bởi vậy cho nên năm cái loại ngủ này nó biến ra vô lượng cái ngu si tức là vô lượng cái ngủ của chúng ta, si mê của chúng ta. Bây giờ Thầy sẽ dạy quý thầy áp dụng hành pháp nào để đạt cho được xả vô lượng tâm ngủ này cho chúng ta được tỉnh táo, được sáng suốt, được thông minh để có trí tuệ dẫn lối cho chúng ta đi đến con đường giải thoát chân chánh.

Khi một người tu hành đã bị năm thứ si thiền này thì phải vận dụng hết sức để phá nó. Gặp nó rồi thì phải hết sức vận dụng phá nó chứ không được theo nó. Hễ nghe mỏi mệt là đi ngủ thì không được. Hoặc là ngồi thiền mà nghe an lạc rồi thiếp dần ở trong đó, rơi vô trạng thái ngoan không cũng không phải tốt lắm đâu. Phải phá nó đi cho được, phải tìm mọi cách không được cho nó nhập vào tâm, vào thân của chúng ta.

Vì thế người cư sĩ mới trau dồi tâm mình thì ngay đây phải trau dồi tâm xả vô lượng ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau. Bây giờ Thầy kể ra một số trạng thái ngủ để cho quý thầy biết. Chứ nếu quý thầy cứ nói năm cái loại này rồi không biết nó xảy ra như thế nào để chúng ta thấy được năm cái trạng thái ngủ. Bởi vì ở đây Thầy nói nó có vô lượng cái ngủ chứ không có phải có một cái ngủ, vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau.

- Khi đi xe, tàu, ghe đi biển bị sóng như say say ngủ. Ai đã từng đi tàu, đi xe, đi ghe đi biển rồi thì biết, nó gật gà gật gù, nó làm chúng ta mệt nhọc cơ thể, đó là bị say sóng, say gió. Do đó nó làm chúng ta ngây ngây như ngủ mà không ngủ. Đó là những trạng thái làm cho chúng ta mê mà không tỉnh.

- Bị cảm gió, thân lừ đừ nóng lạnh.Khi chúng ta bị cảm gió hoặc bị cảm mưa thì thân của chúng ta nóng lạnh, nó cũng làm chúng ta buồn ngủ. Tất cả những bệnh khác đều có trạng thái không tỉnh táo. Nghĩa là mọi bệnh tật nhiều khi nó làm cho cơ thể chúng ta uể oải khó chịu, do đó chúng ta lừ đừ. Đó là những trạng thái ngủ, trạng thái cơ thể lờ đờ.

- Tu sai cũng buồn ngủ. Nghĩa là chúng ta tu sai, tu không đúng, nó cũng buồn ngủ nữa. Như trong pháp sổ tức thì sổ tức đến một mức nào đó thôi,nếu sổ tức quá mức của nó thì cũng sanh ra buồn ngủ nữa, chứ không phải quý vị sổ tức là nó tỉnh đâu. Sổ tức mà quá sức chịu đựng của tâm trí thì sinh ra buồn ngủ. Ví dụ sức của chúng ta sổ tức đến một ngàn hơi thở, mà chúng ta tăng lên chừng một ngàn rưỡi, hay hai ngàn hơi thở thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ bị buồn ngủ. Chúng ta không biết cái buồn ngủ này ở đâu mà ra. Buồn ngủ đó là vì chúng ta đếm quá sức, sự tập trung ở trong số đếm hơi thở từ một ngàn, tăng thành hai ngàn hơi thở như vậy quá sức thì nó làm cho quý vị bị buồn ngủ. Rồi từ cái buồn ngủ đó quý vị không còn nhớ đếm hơi thở nữa.

- Trụ tâm không đúng chỗ cũng sinh buồn ngủ. Phải trụ tâm đúng chỗ của nó thì mới tỉnh, còn không đúng chỗ của nó thì sẽ sanh ra buồn ngủ.

- Làm quá sức cũng buồn ngủ.

- Sống cô đơn một mình cũng buồn ngủ.

- Lười biếng cũng buồn ngủ.

- Rượu chè, bài bạc, trác táng cũng buồn ngủ.

- Trai gái dục lạc quá độ cũng làm buồn ngủ, v.v...

Đó là những cái có thể đưa chúng ta đến vô lượng buồn ngủ, vô lượng ngủ.

Vậy muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải làm sao? Thì chúng ta phải hiểu được những trạng thái ngủ đó là thuộc trạng thái ngủ nào để chúng ta đối trị cho nó hết. Như bây giờ mình bị bệnh sinh ra ngủ thì mình phải tìm thuốc thang uống cho hết bệnh. Nếu bị bệnh mà mình lại đi kinh hành thì làm sao mà đi hết ngủ nổi. Đi riết một hơi chắc là vô nằm rồi ngủ luôn chớ không bao giờ tỉnh lại được nữa. Đó là do trị ngủ sai, trị ngủ phải trị cho đúng cách, không có thể trị cái ngủ này bằng phương pháp khác mà phải tùy theo trường hợp ngủđể trị thì nó mới hết. Phải tùy theo những trạng thái cơ thể, nếu bệnh tật thì trị bằng thuốc thang, mệt nhọc thì nghỉ ngơi, mệt nhọc thì không được làm việc quá sức lực của cơ thể cũng như tinh thần, do trác táng thì dứt bỏ những trò chơi trác táng,...

Ở đây Thầy dạy rất rõ ràng và cụ thể. Phải xét nguyên nhân cái buồn ngủ là do mệt nhọc trong cơ thể chúng ta ở chỗ nào để rồi tùy nguyên nhân đó mà trị bệnh buồn ngủ này thì nó sẽ tỉnh táo và sáng suốt. Chứ nếu cứ làm quá sức hoài, vừa mệt nhọc tinh thần, vừa mệt nhọc cơ thể của mình, thì người đó cứ lừ đừ buồn ngủ hoài, làm sao mà họ thông minh được. Họ thông minh nhưng vì làm quá sức thì làm sao họ còn thông minh nữa. Đầu óc tối ngày cứ suy tư hoài, làm sao mà thông minh, ít ra họ cũng phải nghỉ ngơi. Như vậy, muốn có thông minh thì đừng có làm quá sức. Đó là những cái để đối trị lại buồn ngủ, mất thông minh, để làm cho chúng ta càng ngày càng có trí tuệ, có ý thức rất là thông minh, chính xác trong công việc làm, trong sự tu tập.

Ở đây người muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải hết sức thận trọng trong việc trau dồi tâm này. Nghĩa là phải hết sức thận trọng, phải rõ ràng từng nguyên nhân của sự buồn ngủ để trau dồi tâm của chúng ta, chứ không phải muốn trau dồi xả tâm vô lượng ngủ mà đặt nó ở chỗ sai thì không thể được. Như vậy:

1. Phải biết buồn ngủ trong thân mình là loại nào. Đó, thứ nhất mình phải xét ở trong thân mình, nguyên nhân của buồn ngủ thuộc loại nào.

2. Tùy theo bệnh trạng buồn ngủ mà dùng thuốc thang, cách thức trị bệnh.

3. Cương quyết, mạnh mẽ dứt bỏ những trò chơi không lành mạnh. Như uống rượu, hoặc bài bạc thức thâu đêm, ca hát thâu đêm. Những cái đó phải kiên quyết dứt bỏ. Suốt một đêm chơi vui, sáng ra ngủ gà ngủ gật suốt ngày, không tỉnh táo, thì người đó là người rất mê si.

4. Phải rèn luyện nghị lực, chiến thắng những trạng thái lười biếng. Nghĩa là lúc nào cũng phải tìm cách rèn luyện nghị lực của mình chiến thắng lại những trạng thái lười biếng, vì trong trạng thái lười biếng cũng sanh ra buồn ngủ.

5. Lấy nước súc miệng, rửa mặt, hoặc tắm cho lạnh. Khi biết trạng thái lười biếng của mình thì làm cho nó lạnh, làm cho nó sợ thì nó mới hết. Cái thứ lười biếng thì lấy roi mà quất cho đau, lấy cây mà đập cho nó khổ, lấy dao mà rạch rồi lấy muối xát vô vết thương thì hết buồn ngủ. Đó là những trạng thái lười biếng mà làm như vậy thì nó sẽ hết.

6. Ngồi chỗ nguy hiểm cho tâm sợ hãi. Nghĩa là mình ngồi trên ngã ba nhánh cây hoặc ngồi trên tảng đá cheo leo, làm cho nó tỉnh táo, nó không dám ngủ, nó sợ chết nên luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác. Khi mình ở trên núi mà thấy buồn ngủ thì trèo lên cục đá nào cheo leo rồi ngồi trên đó. Nếu mày ngủ thì cho mày rớt xuống chết cho rồi. Vì vậy nó sẽ tỉnh táo, không dám ngủ. Phải tìm mọi cách để phá cái ngủ chớ nếu không thì chúng ta sẽ tìm cách chui trong thất hoặc là chui trong giường mà ngủ cho khỏe thân.

7. Đọc kinh sách. Nếu mình thấy buồn ngủ thì lấy kinh sách ra đọc rồi suy tìm nghĩa lý trong đó, thì một hồi là nó tỉnh táo.

8. Ngồi quán xét, tìm xem cái ngủ ở đâu. Ở đây Thầy nêu ra cách thức để quý thầy thấy biết được cách mà phá ngủ. Quán xét xem cái ngủ từ đâu đến, từ đâu nó làm cho tay chân, thân thể bần thần lười biếng như thế này. Đó là các thầy dùng sức quán xét, đặt niệm ngủ trước mặt rồi ngồi đó mà quán xét cái ngủ, một lúc thì cái ngủ nó mất.

9. Xem sao trên trời, tìm hiểu lý do diễn biến của vũ trụ. Đây là cách thức cho người thích thiên văn, cho tâm thích thiên văn, thì lúc buồn ngủ người đó đi ra nhìn trời, nhìn sao, tìm hiểu sự diễn biến trong vũ trụ, thấy sao này xẹt qua, sao kia lặn mất. Điều đó làm cho người này thích thú mà quên ngủ.

10. Đem sách truyện hình ra xem. Người thích xem hình ảnh đánh nhau hoặc thế này thế khác thì khi buồn ngủ, đem sách truyện hình ra xem một hồi thì hết buồn ngủ.

11. Đi kinh hành tu tập tỉnh thức. Cách thứ 11 này là cáchphá ngủ của người tu sĩ chúng ta đó. Chúng ta phải tập tỉnh thức, phải đi kinh hành cho nhiều, đừng lười biếng thì nó sẽ tỉnh thức được. Và biết cách áp dụng pháp hướng để nhắc tâm thì chúng ta sẽ tỉnh thức mà phá cái buồn ngủ.

12. Tu vô lậu, quán xét thân tâm, suy tìm sự vô thường, khổ, vô ngã và nguyên nhân của bệnh tật ở trong thân của chúng ta. Chúng ta dùng Định Vô Lậu, dùng Định Chánh niệm tỉnh thức, chúng ta cũng có thể phá được cái buồn ngủ.

13. Đi kinh hành trau dồi lòng từ tâm của mình dưới bước chân đi, tránh giẫm đạp chúng sanh. Khi ban ngày cũng như khi ban đêm thì chúng ta lại hướng tâm để nhắc chúng ta tránh dẫm đạp chúng sanh. Còn một câu ám thị mà Thầy chưa nhắc là khi đi ban đêm con mắt chúng ta không nhìn thấy chúng sanh ở dưới chân, thì chúng ta không thể nào làm sao tránh dẫm đạp lên chúng sanh được, vì vậy chúng ta phải tác ý nhắc, bởi vì Phật đã nói "đạo giao cảm ứng nan tư nghì". Tâm chúng ta có lòng thương thì cảm ứng được với chúng sanh cho nên chúng ta phải dùng câu hướng như thế này:

"Ban đêm tôi đi kinh hành, không thấy chúng sanh. Xin tất cả chúng sanh trên đường tôi đi kinh hành hãy tránh cho tôi đi".

Mình phải hướng câu tác ý đó để giao cảm với chúng sanh, nên khi bước chân mình vừa đến là tất cả chúng sanh đã rời khỏi. Đó là vừa phá buồn ngủ mà cũng vừa trau dồi tâm từ của chúng ta dưới bàn chân trong lúc đêm khuya thanh vắng, trong lúc đêm tối mờ không thấy mặt đường.

14. Dùng pháp hướng như lý tác ý:

"Cái ngủ này vốn không có trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội, lười biếng, thiếu tinh tấn nên mới thọ sanh. Thọ vốn vô thường, lúc có lúc không. Vậy thọ uẩn phải dừng trạng thái ngủ nghỉ mê muội này, không được tái diễn, phải chấm dứt ngay".

Đó là câu pháp hướng cuối cùng để chúng ta phá cái thọ mê ngủ này, phá cái thọ ngu si này. Thường khi chúng ta đặt niệm đó như vậy là phải ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi, phải dùng câu này để hướng tâm ám thị một cách chắc chắn, đánh đuổi cái thọ ngu si này ra. Chỗ chữ "phải chấm dứt" phải nói mạnh như truyền lệnh, càng mạnh càng tốt, làm cho tất cả sức tinh thần của chúng ta dồn tại đó mà đuổi những cơn lừ đừ say say của cơ thể. Nói như truyền lệnh là dùng tâm lực của tinh thần mạnh bạo làm cho cơn ngủ mau lui bước.

Quý thầy thấy Thầy chỉ dạy cho quý thầy những pháp rất cụ thể. Nếu quý thầy gằn dọng nhiều lần ở chỗ "phải chấm dứt" cho nó mạnh bạo. Trừ cơn buồn ngủ ở trong thân của quý vị thì phải dùng lực mà đẩy ra. Tác ý như vậy chừng hai ba câu tác ý là quý thầy đã tỉnh táo, không còn buồn ngủ nữa.

Hôm nay Thầy dạy cho quý thầy xả tâm vô lượng ngủ để cho biết cách xả cho tận gốc của nó. Khi đối với bệnh buồn ngủ phải thông minh sáng suốt, quý thầy phải sáng suốt thông minh chớ không thể thiếu sự thông minh mà đối trị nó được, nếu không thông minh sáng suốt thì buồn ngủ lại buồn ngủ nhiều hơn. Nghĩa là mình trị nó mà mình lại buồn ngủ hơn. Còn nếu thông minh sáng suốt, mình trị đúng bệnh của nó thì nó mau hết. Nếu không thông minh sáng suốt thì vất vả hơn nhiều.

Cho nên quý thầy tu theo đạo Phật thì thứ nhất là siêng năng, bền chí đi kinh hành nhiều.Quý thầy theo đạo Phật thì phải thực hành như Phật, đi kinh hành là cách thức như Phật ngày xưa, đức Phật luôn luôn đi kinh hành ở trong khu rừng của ông ta. Và chúng ta nên bắt chước gương hạnh của Phật mà luôn luôn nên đi kinh hành như vậy để phá đi những cái mê muội này làm cho tỉnh thức luôn luôn.

Luôn luôn phải trau dồi tâm phá ngủ dưới chân mình bằng pháp hướng tâm như lý tác ý:

"Buồn ngủ phải lui đi! Lười biếng phải lui đi!".

Đó là những câu ám thị ngắn mà chúng ta vừa đi vừa nhắc nó khi biết tâm mình đang buồn ngủ, đang lừ đừ, đang không tỉnh táo, rồi tiếp tục chúng ta lại hướng tâm nữa:

"Cơn mơ mơ, say say, hãy lui đi! Thân tâm phải tỉnh táo".

Chúng ta nhắc nhiều lần như vậy trong khi đi, nhắc như ra lệnh một lúc thì hết hôn trầm, thùy miên.

Quý thầy thấy mình có pháp để phá; nhưng từ lâu tới giờ chưa có ai triển khai ra được cho nên mình không biết mà phá. Vì vậy mà cứ buồn ngủ thì phải chịu buồn ngủ thôi, không bao giờ hết được. Hôm nay với giáo án này, Thầy dạy hết tất cả những kinh nghiệm của Thầy để quý thầy tự mình lấy pháp làm chỗ nương tựa vững chắc mà trau dồi thân tâm của mình, để làm chủ sanh tử.

Đến đây quý vị đã hiểu ngũ dục lạc có sức cám dỗ và lôi cuốn rất mạnh, không có một sức nào cưỡng lại được nếu không phải là pháp môn Giới Định Tuệ của đức Phật. Toàn cả tu sĩ trên thế gian này đều bị ma ăn, ma danh, ma sắc dục, ma lợi, ma ngủ lôi xuống địa ngục tất cả.

Có những tu sĩ khổ hạnh trong ăn uống thế mà bị ma dục lạc danh lôi cuốn. Nghĩa là vị tu sĩ sống khổ hạnh trong ăn uống, không để cho ăn uống cám dỗ nhưng ma danh vẫn cám dỗ họ, do vậy họ thường diễn những trò kỳ đặc từ hình ảnh này đến hình ảnh kia cho quần chúng xem để ca ngợi khen tặng họ. Đó là họ sống theo danh. Họ thắng được cái dục lạc này thì bị cái dục lạc khác lôi cuốn. Thật là buồn cười, tu dở chết dở sống thế mà đem ra mua một cái danh hão của thiên hạ.

Nếu ai đã từng theo Thầy tu hành thì biết tu không phải dễ thế mà tu được lại đem ra mua danh như vậy thì quý vị nghĩ sao? Vị tu sĩ có thoát khỏi ngũ dục lạc không, mà không thoát khỏi ngũ dục lạc thì có giải thoát không? Người nhập định toàn cả cơ thể không còn hoạt động, gần giống như cái thây ma người chết, mà mời các nhà khoa học đến đem máy đo điện tâm đồ họ sẽ kinh ngạc đến bậc nào. Từ đó báo chí đăng khắp thế giới như vậy không phải là người đại ngũ dục lạc thế gian sao, như vậy có phải là giải thoát hay không?

Người tu hành giải thoát là phải xa lìa năm thứ dục lạc, sống đời sống thiểu dục tri túc, không nhà không cửa, sống vô gia đình, không có của cải tài sản nhỏ, tài sản lớn. Nhìn đời sống như vậy chúng ta biết đó là những bậc chơn tu, giới đức, thiền đức, những bậc đã giải thoát ra khỏi vòng thế tục. Còn những tu sĩ biểu diễn những trò kỳ đặc để mua danh, mua lợi thì có gì giải thoát đâu. Họ chỉ làm trò giải trí cho thiên hạ xem chơi.

Đây là những câu hướng tâm để dẫn tâm vào đạo giải thoát các ác pháp. Nhưng trước hết quý vị phải hiểu, phải biết, trước khi dùng pháp này tu hành dứt bỏ các ác pháp, quý vị phải “tâm chuyên nhất cảnh”, nghĩa là như thế nào? Không được đụng đâu ngồi đó mà dùng pháp hướng, pháp tùy… Muốn tu một pháp nào thì phải tìm nơi ngồi cho nghiêm chỉnh, bởi vì pháp không phải tu tập bất kỳ chỗ nào mà có thể giúp mình ra khỏi ác pháp, cứu mình ra khỏi đau khổ của cuộc đời, cho nên phải xem pháp là vật quý báu, phải nghiêm chỉnh trước khi dùng một câu hướng, trước khi dùng một sự quán xét nào mới có kết quả.

Người tu trước khi khởi động cái gì phải chủ động điều khiển: ngồi xếp bằng, lưng thẳng, ngồi thật yên tịnh, hít 10 hơi thở bình thường cho tâm gom vào trong hơi thở và tâm chuyên nhiếp vào, bám chặt vào hơi thở, đặt niệm hướng tâm này ngay trước mặt mà dẫn tâm dứt trừ các ác pháp. Trong khi tu tập không nên để mất niệm tức là thất niệm, nghĩa là lúc nào cũng nhớ niệm đặt trước mặt, không được quên, không được khi thì nhớ việc này việc nọ mà xao lãng niệm đang đặt trước mặt. Cho nên Phật dạy thất niệm thì không đạt được kết quả gì hết. Thất niệm thì tâm mê hay tâm động thì sự tu không kết quả. Khi đặt niệm trước mặt thì phải tập trung tâm trong niệm đó, để quán xét về niệm đó, suy tư về niệm đó, tìm ra gốc niệm đó ta mới thấy suốt nó. Có tu nghiêm chỉnh như vậy mới quét sạch lậu hoặc, chứ không nghiêm chỉnh thì tu ngàn đời không đạt kết quả gì ráo. Khi niệm đó dứt rồi thì tiếp niệm khác, sau khi có một khoảng cách giữa hai niệm, nghĩa là sau khi quán xét xong thì xả niệm đó ra, rồi mới đặt niệm khác tiếp theo, chứ không được không xả niệm vừa quán xét xong. Câu hướng tâm cũng vậy, hướng tâm câu trước cho niệm trước xong rồi thì phải nghỉ xả ra, rồi mới đặt câu hướng tâm khác cho niệm kết tiếp.

Để trau dồi tâm, hay hành vi, hay dứt bỏ gì thì phải có khoảng cách giữa các câu tác ý hướng tâm. Tâm phải yên lặng theo 10 hơi thở bình thường. Cũng giống như người huấn luyện voi, bò trâu… sau khi huấn luyện chúng thuần thục xong một pháp nào thì phải để cho chúng yên tịnh một thời gian, sau đó mới huấn luyện qua pháp khác. Đức Phật dạy rất kỹ chỗ này: Khi tu định Vô lậu cũng như định Chánh niệm Tỉnh thức hay các thứ định khác, để tâm gom lại thì phải trở về hơi thở cho nên Phật nói: định niệm hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý. Câu này ý thế nào? Quý vi đang đi kinh hành mà muốn cho tâm gom vào trong bước đi thì hơi thở là đối tượng trước mặt nên tập trung tâm vào đó rất dễ, nên có câu hướng tâm “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” để tâm tập trung trong hơi thở, sau đó tác ý “Đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành” thì tâm rời khỏi hơi thở để tập trung vào chân bước tức khắc. Sau khi đi một lát, đứng lại tác ý “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” như vậy tâm tập trung vào hơi thở - vì hơi thở nằm trong thân, xả hơi thở ra, tác ý đi kinh hành thì tâm cũng vẫn ở trong thân, như vậy thì tu rất kết quả, tâm luôn luôn tập trung vào hơi thở rồi quan sát thân hành, chứ không phải tâm luôn luôn nằm dưới chân của quý vị, mà luôn luôn nằm dưới chân thì bị thất niệm cho nên sự tỉnh giác chỉ là mơ hồ không phải thực sự là tỉnh giác, tâm có tụ điểm hơi thở để quan sát tất cả các hành động của thân, sức tỉnh giác ngày càng rõ ra, chứ không trở về hơi thở thì dễ bị thất niệm, không tỉnh giác. Cho nên khi nhập định, lúc nào tâm cũng bám sát hơi thở cho dù nhập tới định nào vì hơi thở là tụ điểm.

Trong thời gian khoảng cách giữa hai hơi thở phải giữ không cho có tạp niệm nào xen vào, biết rõ từng hơi thở ra hơi thở vào; sau khi theo dõi 10 hơi thở bình thường thì tác ý câu trau dồi Tứ Vô Lượng Tâm để trau dồi lòng thương yêu.

***

Để chấm dứt bài Tứ Vô Lượng Tâm thầy xin đọc lại một bài kệ của đức Phật. Trong 10 pháp ác, bây giờ mình đã tới cái si của tham sân si, là mình đã chấm dứt 10 pháp ác rồi, cho nên chúng ta đọc lại một bài kệ của đức Phật để chúng ta tóm lại ý của nó. Đây bài kệ của đức Phật:

Ai phản lại chánh pháp
Tham sân si nuôi lớn
Thanh danh bị sứt mẻ
Như trăng khuyết đêm đen

***

Ai không phản chánh pháp
Tham sân si đoạn dứt
Thanh danh được tròn đủ
Như trăng tròn mười sáu

Bây giờ mình hiểu được cái chánh cái tà rồi, cái ác cái thiện rồi, nếu mình còn phản lại thì là một tội rất lớn. Nghĩa là biết rồi mình còn phạm phải thì coi như con người của mình bị sứt mẻ, không còn đầy đủ. Trăng khuyết mà còn đêm đen nữa thì các thầy biết rằng trăng nó khuyết, nó nhỏ xíu, thì ánh sáng đâu có, mà đêm đen nữa thì nó mờ tối vô cùng. Người phản lại chánh pháp, phản lại các pháp thiện, thì tham sân nuôi lớn, thanh danh bị sứt mẻ như trăng khuyết đêm đen.

Qua bài kệ của đức Phật, nếu chúng ta đi vào chánh pháp thì tham sân si, 3 ác pháp này đoạn dứt thì 7 pháp ác kia nó cũng sẽ mất luôn. Do đó chúng ta sống như trăng tròn 16, tròn đầy không có thiếu khuyết một chỗ nào hết. Trăng rằm còn khuyết một chút, chứ trăng 16 thì nó tròn thiệt tròn, không có thiếu chỗ nào, tức là giải thoát hoàn toàn. Chánh pháp giúp cho quý thầy thấu rõ chơn lý của đời người, đó gọi là Minh. Các thầy không rõ chánh pháp nên không thấy chân lý đời là ác pháp, là khổ đau, nên phóng tâm chạy theo vật chất, ham muốn thế gian pháp, cái không hiểu này gọi là Vô Minh.

Mình chạy theo ham muốn, cái đó gọi là Vô Minh. Còn cái mình hiểu đúng chánh pháp thì gọi là Minh. Do không hiểu nên lầm chấp ác pháp là thiện pháp. Do không hiểu tưởng đời sống con người là hạnh phúc, nào ngờ là khổ đau, là không hạnh phúc. Người đời vì lầm nên xây dựng an vui hạnh phúc trên một mảnh đất vô thường, không vững chắc, thay đổi liên tục không dừng nghỉ. Vì thế công trình kiến tạo và xây dựng hạnh phúc, an lạc cho nhân loại là một công trình dã tràng.

Quý thầy thấy người ta phát minh cái này cái kia để người ta đem hạnh phúc cho con người, nhưng càng phát minh thì càng đem lại sự đau khổ nhiều cho con người. Đó là vì xây dựng trên mảnh đất vô thường, mọi vật đều vô thường mà người ta nghĩ đó là thường, người ta lầm chấp cho nên người ta càng cố gắng xây dựng lên thì càng đem lại nỗi khổ cho nhân loại. Càng xây dựng văn minh boa nhiêu thì con người lại càng khổ bấy nhiêu, do họ chỉ xây dựng ngọn mà không xây dựng gốc.

Do vô minh này mà loài người trên hành tinh này không lúc nào được hòa bình, chỗ này không chiến tranh thì chỗ khác chiến tranh. Càng khoa học, máy móc càng tinh vi thì chúng ta thấy trên thế giới lúc nào cũng có nước có chiến tranh, không bao giờ hết. Tưởng là phục vụ cho nhân loại, cho con người được thanh bình, được an vui, được thương nhau nhưng cuối cùng họ vẫn giết chóc nhau. Họ vẫn tìm mọi cách: về quân sự thì họ tìm mọi cách giết chóc bằng súng đạn, về kinh tế thì họ cũng tìm mọi cách để hại các cơ xưởng, các công trình của kẻ khác, làm cho kinh tế của kẻ khác suy sụp xuống. Đó là những hậu quả của sự văn minh, sự tiến bộ mà xây dựng trên cái ngọn, không xây dựng ở cái gốc. Vì xây dựng trên cái ngọn là xây dựng trên mảnh đất vô thường, xây dựng trên các vật vô thường thì làm sao mà có sự hạnh phúc an vui vĩnh cửu được.

***

Đang có 42 khách và không thành viên đang online

Lượt xem
451
Các bài viết
1441
Số lần xem các bài viết
8858924