• daytusi
  • tinhtoa1
  • thanhanhniem3
  • tinhtoa2
  • thanhanhniem1
  • vandaptusinh
  • lailamtoduong1
  • ThayTL
  • quetsan
  • ttl1
  • lopbatchanhdao
  • tranhducphat
  • chanhungphatgiao
  • amthat1
  • phattuvandao3
  • toduongtuyetson
  • benthayhocdao
  • khatthuc1
  • phattuvandao1
  • vandao2
  • amthat3
  • amthat2
  • tamthuphattu
  • ttl3
  • huongdantusinh
  • thanhanhniem2
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy tu sĩ
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đang ngồi tĩnh tọa
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc lai lâm tổ đường
  • Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc quét dọn sân
  • Thầy Thông Lạc
  • Tranh đức Phật
  • Thầy Thông Lạc viết sách
  • Am thất
  • Thầy Thông Lạc vấn đáp đạo cho các Phật tử
  • Tổ đường Tuyết Sơn
  • Bên Thầy Thông Lạc học đạo
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Phật tử vấn đạo Thầy Thông Lạc
  • Thầy Thông Lạc giảng đạo cho các Phật tử
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc đi khất thực
  • Thầy Thông Lạc trả lời tâm thư Phật tử
  • Thầy Thông Lạc tại Hòn Sơn Thánh Tích
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy cho các tu sinh
  • Thầy Thông Lạc dẫn dạy "Thân Hành Niệm" cho các Phật tử
In bài này

Pháp Tu Cư Sĩ - Thập Thiện (tiếp 1)

Lượt xem: 15990

TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC

GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT


 II.- PHÁP TU CƯ SĨ

THẬP THIỆN (Tiếp 1)

Phần 2: Miệng

Miệng có 4 hành động tạo nghiệp rồi từ chỗ nghiệp đó mà chúng ta đi vào trong cuộc sống hiện tại cũng như mai sau: khổ đau hay là hạnh phúc cũng đều do nơi miệng của chúng ta. Cho nên người xưa nói “Họa tùng khẩu xuất”, tai họa đều do nơi miệng chúng ta mà ra. Vậy chúng ta phải cẩn thận trong lời nói của chúng ta.

a.- Không nói dối

Thứ nhất sống trong xã hội, nếu trong cuộc sống mà ai nói dối thì tự mình làm mất lòng tin của mọi người đối với mình. Nghĩa là chúng ta gạt người ta. Chúng ta có thể nói láo với người một lần thì người ta chưa biết, chứ 2 lần thì người ta sẽ biết liền. Nói chung dù mình có khéo léo nói như thế nào thì sự thật vẫn là sự thật. Ngày hôm nay người ta chưa biết nhưng ngày mai sự thật sẽ đưa đến, người ta sẽ biết mình là người nói láo, là người không thành thật, cho nên người ta không bao giờ tin mình nữa. Từ đó cái lòng tin đối với mình bị mất đi, cho nên mình có nói thật người ta cũng chẳng tin mình..

Thứ nhì sống trong gia đình, nói dối, tức nói láo là một điều tai hại cho sự chung sống trong gia đình. Ví dụ như mình đi chơi mà nói mình đi làm, vợ con ở nhà tưởng mình đi làm thật, nhưng khi vợ con biết rõ ràng mình đi chơi thì không còn ai tin mình được. Chỉ một lần thôi cũng đủ không tin mình nữa. Cũng như khi mình trích ra một số tiền trong số lương để cho mình tiêu riêng mà không nói cho vợ con biết, mình nói đây là toàn bộ số lương, rồi đưa số tiền đó cho vợ mình để chi phí ở trong gia đình. Vợ mình tin thật, nhưng một hôm thấy số tiền trong túi áo của chồng, bà vợ biết chồng mình không thật. Do sự nói không thật đó thì có sự nghi kỵ nhau, làm cho gia đình ngày càng đau khổ, làm cho gia đình bắt đầu tan nát, không còn tin nhau nữa.

Cho nên lời nói dối sẽ đưa đến những quả khổ sau này cho chúng ta. Do nói dối sẽ làm mọi người mất niềm tin với mình, cuộc sống của mình xem như bị cô lập; người ta hết tin mình rồi cho nên mình nói gì ngoài mặt thì người ta làm ra tin, nhưng trong lòng người ta nghĩ người này nói láo, người ta không bao giờ tin mình nữa. Không ai muốn thân cận với người nói dối, người ta không có muốn gần gũi người nói dối nữa. Hòa thượng Thiện Hoa dạy: "Người ta ở đời dù một việc nói chơi cũng không nên nói dối vì lẽ nói dối quen miệng, người ta biết mặt, sau này nói thật cũng chẳng ai tin".

Nhất là người học đạo thì không nên nói dối. Ngay như nói dối cứu khổ phò nguy cho người và vật, ta còn không nói, huống là nói dối hại người lợi mình thì càng không nên nói nữa. Thầy nhớ một câu chuyện trong đời quá khứ của đức Phật. Khi đức Phật ở trong rừng tu hành thì có con nai chạy vào trong cái hang dưới chỗ đức Phật ngồi tu, nó chun vào trốn trong hang đá đó. Nhà vua đuổi theo con nai đó, đến đây gặp đức Phật đang ngồi tu trên cục đá mới hỏi: Ông có thấy con nai chạy ngang đây không? Nếu đức Phật nói không tức là vọng ngữ, mà nói thấy thì nhà vua sẽ hỏi nó ở đâu, đức Phật sẽ nói nó ở trong hang dưới cục đá của mình ngồi thì nhà vua sẽ giết con vật, thì đức Phật mang tội đồng lõa sát sanh, nên đức Phật làm thinh, không nói. Theo HT. Thiện Hoa dạy thì trong câu chuyện này có thể nói dối vì: "Nếu nói dối mà cứu khổ phò nguy cho người và vật thì ta nên nói". Nhưng ở đây Thầy thấy qua hình ảnh của đức Phật, người tu hành thì không nên nói dù là cứu người cứu vật thì cũng không nên nói dối. Vì thế nghe nhà vua hỏi mà đức Phật làm thinh. Hỏi lần thứ nhất đến lần thứ 3, đức Phật vẫn làm thinh thì nhà vua tức giận cho nên lấy gươm xẻo lỗ tai của đức Phật, và hỏi nữa nhưng đức Phật cũng không nói. Nhà vua cắt lỗ mũi, đức Phật cũng vẫn không nói, cho đến khi nhà vua tức quá chặt hai cánh tay ông thì ông cũng chẳng nói, cho đến khi nhà vua móc mắt ông, ông cũng chẳng nói. Đó là chúng ta thấy đức Phật giữ gìn cái hạnh không nói dối. Mặc dù là nói dối sẽ cứu được mình, nghĩa là thoát khỏi cảnh nhà vua hại mình, thế mà đức Phật vẫn thản nhiên giữ đúng cái hạnh không nói dối. Nếu đức Phật nói dối rằng: "Con nai vừa chạy ngang đây mà nó chạy luôn đi rồi, không còn ở đây nữa. Nhà vua hãy chạy theo tìm giết nó đi, tìm bắn nó đi". Thì lẽ đương nhiên nhà vua phải đuổi theo chứ đâu có cắt tai móc mắt đức Phật. Rõ ràng chỉ cần nói dối một chút xíu thì mình không bị đau khổ, thế mà đức Phật thà chết, thà chịu đau khổ do sự hành hạ của nhà vua chứ không phạm vào cái lỗi nói dối.

Do thế chúng ta mới thấy lời nói dối khi người ta biết được thì giá trị của mình không còn gì hết. Cho nên chúng ta là những người cư sĩ đệ tử Phật đã biết Phật pháp rồi thì không nên nói dối, dù nói dối có ích lợi cho mình cho người cũng không nên nói. Huống là nói dối chỉ để làm lợi cho mình, chắc chắn là không nói rồi.

Qua hành động của đức Phật trong mẫu chuyện trên, chúng ta cần phải học hỏi, cần phải theo gương đó mà giữ gìn cho trọn vẹn giới không nói dối này.

Cũng như giới sát sanh, thì thà là chúng ta chết chứ không giết hại chúng sanh, đó là những quyết định của những người thực hiện theo con đường của đạo Phật để được những nghiệp lành, từ những nghiệp lành đó đưa chúng ta đi đến cảnh giới không còn đau khổ nữa. Cho nên chúng ta thà chết chứ không bao giờ phạm giới.

Kinh thập thiện nói người không nói dối được 8 điều lợi ích sau:

1. Được mọi người tin tưởng.
2. Lời nói ra được người người kính yêu.
3. Miệng thường thơm sạch. Tức là miệng thanh tịnh.
4. Lời nói thường êm ái.
5. Luôn được an vui như ý nguyện.
6. Lời nói không buồn giận và luôn được vui vẻ.
7. Lời nói được mọi người vâng theo.
8. Trí tuệ thù thắng không ai hơn.

Và chúng ta cũng nhớ lấy gương của đức Phật trong mẫu chuyện trên làm cái gương không bao giờ nói dối. Nhất là đối với những người thân trong gia đình của mình thì đừng nên có một lời nói dối nào, vì nói dối làm mất niềm tin và từ đó trong gia đình bất an. Người cư sĩ còn sống chung đụng với nhiều người, còn tiếp duyên với nhiều người, cho nên một người hay nói láo thì chúng ta không còn tin người đó. Và khi đã không tin thì người đó dù thật sự có thất nghiệp, dù thật sự có trong cảnh đau khổnào đó thì chúng ta cũng không giúp được, là tại sao? Là vì chúng ta nghĩ rằng người này hay nói láo là sẽ gạt mình trong khi họ, vợ con họ thật sự khổ sở, khốn khổ; họ đến nói thật mà mình vẫn nghi rằng họ nói láo. Cho nên chúng ta vẫn thấy họ là người không đáng giúp đỡ.

Đó là những cái tai hại cho người nói láo. Vì vậy chúng ta cần phải biết, cần phải dè dặt không bao giờ nói sai sự thật, phải nói đúng sự thật. Khi thấy thì nói thấy, mà không thấy thì nói không thấy. Không nên nói không đúng sự thật.

b.- Không nói lời thêu dệt.

Người đời thường trau chuốt lời nói, đi buôn vật xấu mà nói tốt để bán cho được giá, gạt người mua về không xài được. Đó là lời nói thêu dệt. Chỉ một chút lòng nhỏ mọn hờn ghen liền dùng lời nói thêu dệt để cho đôi bên thù hận, có thể giết hại lẫn nhau, làm tổn hại tánh mạng của người khác. Lời thêu dệt rất là tai hại, có thể giết người. Chỉ một chút lòng ganh tỵ thù vặt, bèn dùng lời nói thêu dệt để lung lạc lòng người khác, hoặc để quyến rũ hay gạt gẫm người khác, làm tổn hại danh dự và tài sản của người, cốtđể đem lại nhiều lợi lạc và còn được tiếng thơm, tiếng tốt cho mình.

Ngược lại, người không nói lời thêu dệt, chỉ dùng lời nói đúng đắn, chánh lý, không gạt gẫm lừa bịp người, không làm tổn hại danh giá tài sản người, thậm chí cho đến tánh mạng của người. Thêu dệt tức là đặt điều nói xấu người khác, khiêu khích người khác khiến cho người khác phải buồn khổ, có thể đi đến chỗ phải tự tử, quyên sinh. Nghĩa là chuyện không có mà mình thêu dệt ra thành có, chuyện người ta không xấu, mình nói người ta xấu, chuyện người ta xấu, mình thêu dệt nói người ta tốt để được tình được nghĩa với người này người kia. Đó là lời nói thêu dệt, chúng ta cần phải tránh.

Dùng lời nói làm cho người ta giận hờn nhau, hay dùng lời nói làm cho người ta ưa nhau, như những người làm môi giới. Như ông làm mai mối thấy chú này không được mà đến đằng nhà gái khen chú này là tốt, là giỏi, là có đức hạnh đủ thứ, là này kia đủ thứ. Nhưng kỳ thật chú này tham lam, nghiện hút thuốc, nghiện rượu chè, sống bê bối; thế mà cái ông làm mối thêu dệt nói chú này thế này thế khác cho tốt, cho được lòng đằng gái. Rồi lại đến đằng trai thì nói cô này công dung ngôn hạnh như thế này thế khác, hiền đức đủ loại nhưng mà cô này thật sự thì chẳng ra gì hết. Đó là những cái thêu dệt dùng để gạt người ta, để làm cho người ta tin theo. Rồi người ta rước cô dâu đó về, hay người ta rước chú rể đó về. Sau đó mới biết sự thật người ta đã lầm người, đã tin sai người. Đó là những lời thêu dệt chúng ta không nên có. Thật sự tốt thì chúng ta nói tốt, mà thật sự xấu thì chúng ta nói xấu. Không được thêu dệt để tốt biến thành xấu hay xấu biến thành tốt. Đó là điều thêu dệt, không được nói.

Kinh thập thiện dạy người không đặt điều nói xấu người khác có 3 điều lợi ích:

1. Được mọi người quý mến.
2. Thường đáp được những câu hỏi khó.
3. Có đầy đủ uy tín cao quý trong cuộc đời.

c.- Không nói lật ngược (lật lọng).

Đó là hành động miệng thường hay nói lật ngược trở lại, vừa nói rồi rồi nói ngược trở lại, mình vừa mới nói xong mà thấy điều đó có hại cho mình bèn ngay đó lật ngược lại nói tôi không nói điều đó. Người đời có lắm kẻ nhiều mồm mép, vừa nói đó một lúc sau lại nói ngược lại, lấy quấy làm phải, lấy phải làm quấy.

Người ta nói: “Cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, miệng không vành méo mó tứ tung”. Đúng vậy, những hạng người nói lật ngược là hạng người lưỡi không xương, là những người miệng không vành. Hạng người này là hạng người nhiều chuyện, họ là người dụm ba dụm bẩy chuyên nói xấu người khác, đem chuyện người này nói ra, nói vào bêu xấu khiêu khích người khác, gây phe nhóm tạo cảnh bất hòa, thù hận, và còn đem chuyện người này dèm pha với người kia, nhạo báng chê bai làm cho người khác tức giận hoặc xấu hổ, đau khổ. Dùng môi mép đứng trung gian gây ác cảm đôi bênđi đến kiện thưa. Những kẻ ấy đều gọi là người nhiều chuyện.

Người không nói lưỡi hai chiều thì không có chuyện lôi thôi với mọi người, không bị người ta lôi ra làm chứng cớ. Người không nói lưỡi hai chiều không làm phiền một ai hết, được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa người gần kính mến. Người không có lưỡi hai chiều thường dùng lời êm ái an ủi, khuyên giải giúp cho mọi người hòa thuận thân yêu nhau, khiến cho mọi người đều vui vẻ an lòng. Người này đi đến đâu, ở đâu cũng được mọi người kính yêu, gặp việc khó bất hòa người này đứng ra thu xếp hòa giải một cách dễ dàng. Người không nói lưỡi hai chiều khiến gia đình sum họp an vui, tình làng nghĩa xóm hòa thuận kính yêu nhau.

Kinh thập thiện dạy: Người không nói lưỡi hai chiều được 5 điều bất hoại.

1. Nhơn bất hoại.
2. Sống trong gia đình sum họp.
3. Đức tin bất hoại.
4. Pháp hạnh bất hoại.
5. Thiện hữu tri thức bất hoại.

Nhơn bất hoại nghĩa là đối với cái thân của mình thường được vui vẻ, được tốt lành, nó không làm cho mình hư hoại.

Sống trong gia đình sum họp nghĩa là người này sống trong gia đình nào, với người nào cũng có sự hòa hợp sum họp bởi họ không là người nói lưỡi hai chiều. Ở đâu thì họ cũng được sự hòa hợp. Ví dụ như quý thầy là những người sống trong tăng đoàn mà không nói lưỡi hai chiều, tức là không dựa theo người này nói như thế này, dựa theo người kia nói như thế kia. Nói thì đúng sự thật, không thêu dệt ra, những người này thường sống hòa hợp với mọi người.

Đức tin bất hoại nghĩa là ai cũng tin những người này, cho lòng tin không bị hoại diệt.

Pháp hạnh bất hoại nghĩa là hạnh của người này không bao giờ bị hoại diệt.

Thiện hữu tri thức bất hoại nghĩa là họ luôn luôn gặp nhiều bậc thiện hữu tri thức, gặp người tốt, không gặp người xấu. Còn người nói lưỡi hai chiều thì họ không bao giờ có những thiện hữu tri thức tốt.

d.- Không nói lời hung ác.

Hành động không nói lời nói hung ác này là hành động của miệng không nói lời hung ác. Đây là hành động cuối cùng của khẩu nghiệp, hành động miệng của chúng ta. Lời nói hung ác là lời nói dữ, vu khống người khác, phao phản, bươi móc việc xấu của người khác, lời nói cộc cằn, thô lỗ mắng nhiếc, mạ lỵ người, làm cho người khác tức giận, khổ sở, đau đớn.

Người không nói lời nói hung ác thường dùng lời nói khen ngợi, lời lẽ ôn tồn, trang nhã hiền hòa, lời nói luôn luôn làm cho mọi người được an vui, yên ổn. Lời nói không hung dữ là lời nói rất êm ái. Còn người nói hung dữ thì lời nói to, nói rất lớn và dùng những lời nói thô tục, những lời mắng nhiếc người, những lời nói vu khống người. Có những người nói lời nói vu khống thì nói nhỏ nhẹ lắm nhưng vu khống người ta, đó cũng là lời nói ác đó. Nói chung, khi nói xấu người khác đều thuộc diện lời nói ác. Mình bươi móc chuyện xấu của người, là lời nói ác. Mình phao người ta cái này cái kia, cũng là lời nói ác, chứ không riêng lời nói ác là lời chửi mắng, nạt nộ người ta đâu.

Lời nói cộc cằn là lời nói ác. Nạt nộ người ta là lời nói ác. Nhưng có nhiều lời nói không cộc cằn, không thô tục, nhưng bươi móc cái xấu của người ta, nói xấu người ta, phao tin vu khống người ta, đó cũng thuộc diện lời nói ác. Nói mà làm cho người ta bị tù tội, bị chết, như người ta không ăn trộm mà nói người ta ăn trộm; người ta không tà dâm mà nói người ta tà dâm, người ta không có giết người mà nói người ta giết người, thì những lời nói đó là những lời nói ác. Mặc dù lời nói đó rất nhẹ nhàng, như: “Tui thấy người đó giết người kia”, sự thật ra người đó không giết người, nhưng vu cáo người ta vì thù hận lòng của mình, cũng có khi họ chỉ vu khống, phao vu người ta làm cái chuyện như vậy để cho người đó ở tù chơi. Đó là những lời nói ác.

Cho nên phải phân biệt như thế nào là lời nói ác, chứ không nên nghĩ chỉ lời nạt nộ, chửi mắng hay mắng nhiếc người ta mới là lời hung ác. Hung ác có nghĩa là lời nói dữ, lời nói làm cho người ta khổ đau. 

Hiểu rõ như vậy thì chúng ta mới biết được để cảnh giác, để không nói ra những lời ác đó, có vậy, chúng ta mới giữ được hành động nói của miệng mình. Còn nếu mình không hiểu thì mình sẽ tưởng là khi mình nói vu khống như vậy không phải là lời nói hung ác.

Cho nên ở đây, Thầy giải thích cho rõ để các con học cho kỹ vìnó là căn bản đạo đức của Đạo Phật. Nó là 10 điều đạo đức của Đạo Phật mà chúng ta cần phải trau dồi, cần phải tu tập, cần phải dứt bỏ. Đó là những điều mà chúng ta cần phải cố hết sức tu tập, nhiệt tâm tu tập, siêng năng tu tập, phải đem hết thân tâm của chúng ta thực hiện đúng 10 điều lành này, chứ không phải chỉ nói suông ở miệng mà được.

Kinh Thập Thiện dạy: Kẻ nào không nói lời hung dữ sẽ được 8 món công đức:

1. Nói đúng pháp.
2. Lời nói có ích lợi.
3. Lời nói đúng chân lý.
4. Lời nói khôn khéo.
5. Nói điều gì ai cũng vâng theo.
6. Lời nói được nhiều người tin.
7. Lời nói không bị ai chê.
8. Lời nói được yêu mến.

Ở chỗ 4: lời nói khôn khéo. Nhưng phải phân biệt có cái khôn khéo không xảo trá, không nói lời nói dữ dằn, chỉ dùng lời nói làm cho người nghe êm tai, thuận tai, làm cho người nghe lời nói mà người ta được vững bụng, không sợ hãi, yên tâm đó là lời nói khôn khéo. Nhiều khi chúng ta không khôn khéo, chúng ta nói sự việc cũng đúng như vậy, nhưng lại không dùng lời nói khôn khéo nên làm cho người nghe thấy đau khổ trong tâm. Mà lời nói khiến người khác đau khổ trong tâm thì lời nói đó đương nhiên được xem là lời nói không khôn khéo, đương nhiên được xem là lời nói hung ác. Nghĩa là lời nói nào mà làm cho người ta đau khổ thì lời nói đó đều là lời hung ác hết; nó bao gồm cả lời nói dối, lời nói thêu dệt, lời nói lật ngược,... đều thuộc về lời nói hung ác hết, chớ không phải riêng những lời nói hung dữ mới là lời nói hung ác đâu. Cho nên phải hiểu "lời nói khôn khéo" ở chỗ số 4 là chúng ta phải biết sử dụng lời nói của chúng ta. Cũng như khi người thợ phải tinh xảo cầm một cái bào, hay phải tinh xảo cầm một cái cưa để cưa cây, hoặc phải tinh xảo cầm một dụng cụ nào đó để làm cái nghề gì đó. Lời nói của chúng ta cũng vậy, phải sử dụng tinh xảo như một ông thợ rành nghề sử dụng vật dụng của nghề đó, hay cũng như một ông nông dân sử dụng cái cuốc, hay như một người thợ cưa, thợ mộc sử dụng cái cưa, cái bào, hay như người viết văn sử dụng ngòi bút, thì chúng ta là người tu theo Đạo Phật, chẳng những tránh lời nói hung ác, mà chúng ta phải sử dụng lời nói khôn khéo để làm cho mọi người đều vui, phải thiện xảo khi nói ra, không thể thiếu khéo léo được.

Đến chỗ người cư sĩ tập dần không nói lời hung dữ thì chúng ta sẽ có những lời nói khéo léo, chúng ta sẽ có những lời nói rất là khéo léo.

Đó là 8 điều người cư sĩ cần phải hiểu để giữ gìn 4 hành động của miệng mình.

Tóm lại, khi học biết được 4 hành động thiện này của hành động miệng mình thì từ đây về sau người cư sĩ phải cố gắng thực hiện giữ gìn cái khẩu nghiệp của mình.

Trước tiên chúng ta nên tập độc cư để giữ cái miệng của mình, cho nên Thầy thường nhắc các con phải sống trầm lặng. Sống trầm lặng là mình sống được ở trong tâm hồn trầm lặng của mình, mình ưa thích trầm lặng, mình sống trầm lặng, mình ca ngợi sự trầm lặng, mình tìm nơi để được sống trầm lặng. Do những điều kiện đó mà trong kinh Phật dạy chúng ta phải giữ gìn khẩu nghiệp của chúng ta. Phật dạy độc cư cũng nhằm mục đích là sống trầm lặng. Sống giữ gìn 4 điều lành của cái cái miệng chúng ta. Như vậy chứ không phải gì cả.

Sau một thời gian chúng ta tịnh khẩu, chúng ta không nói thì từđó khi chúng ta mở miệng ra, cái miệng chúng ta không có lanh đâu, nó chậm chạp lắm, rồi từ đó chúng ta nói lời nào cũng có sự suy nghĩ mới nói, nói rất chín chắn. Nhưng khi chúng ta nói nhiều, thì cái miệng nó nhanh, nó bén nhạy, đầu óc chúng ta chưa nghĩ kịp thì cái miệng đã nói trước rồi. Cái miệng chúng ta nó đi trước cái ý. Cho nên chúng ta phải khéo léo để giữ gìn làm sao cho cái miệng chúng ta đi sau cái ý thì mới tốt. Còn nếu cái miệng đi trước cái ý coi chừng nó phạm vào 4 điều ác của cái miệng chớ không phải là điều lành đâu.

Hôm nay Thầy tóm lược để thấy 4 hành động của cái miệng. Bốn hành động này của cái miệng rất quan trọng cho cuộc đời tu tập theo Đạo Phật.

Phần 3: Ý

A.- Không tham muốn

Con người bị cám dỗ 5 thứ dục lạc. Người có tâm tham là vì có đối tượng để cho nó tham, không có đối tượng nó lấy gì tham? Tham có 5 đối tượng của nó. Đó là 5 món dục lạc. Vậy thì 5 món dục lạc này là cái gì?

1.- Tiền của, đó là cái thứ nhất trong 5 cái dục lạc.

2.- Sắc đẹp của phụ nữ, đó là thứ hai trong 5 cái dục lạc.

3.- Danh vọng, tức là làm quan, làm vua, hoặc là đỗ bằng này bằng kia, những cái danh vọng đó, hoặc là được tiếng người ta nói mình là những nhà bác học, hoặc là những danh y, hoặc là người ta ca ngợi mình là chơn tu. Tất cả những cái danh đó là danh vọng. Tất cả những cái này, Đức Phật đã dạy chúng ta: Được danh, được lợi (tức là tiền bạc đó), rồi được sự cung kính thì chúng ta nên ẩn bóng đi, thì đó là bậc chân tu. Do Phật nhắc như vậy, chúng ta xa lìa cái gì? Xa lìa tiền bạc, sự cúng dường. Rồi danh vọng. Rồi sự cung kính. Đó là những cái mà bậc chân tu phải tránh xa. Những cái đó cũng nằm trong ngũ dục lạc, cho nên từ chỗ này chúng ta mới thấy rõ được cái ý của Đạo Phật, đối tượng của con người bị cám dỗ đó là 5 thứ dục lạc này. Danh vọng là cái thứ 3 trong 5 cái dục lạc.

4.- Ăn uống là dục lạc thứ 4 trong 5 cái dục lạc này.

5.- Ngủ là dục lạc thứ 5 trong 5 cái dục lạc này.

Chúng ta đọc lại là: tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Đó là 5 đối tượng dục lạc, làm cho tâm của chúng ta khởi lên ham muốn. Hành động của ý chúng ta là cái ham muốn. Để có ham muốn thì phải có đối tượng làm cho nó ham muốn. Trong thế gian, người đời không ai tránh khỏi 5 thứ dục lạc này, nghĩa là sống trong cuộc sống thế gian, nếu người ta không ham muốn cái này thì người ta cũng ham muốn cái kia. Người ta dính tâm tham, không tham cái này thì cũng tham cái kia. Không thể nào rời khỏi 5 thứ dục lạc này được. Vì vậy mà Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy được đối tượng của cái ý tham muốn là 5 thứ dục lạc. Nếu tham muốn, mong cầu, chạy theo nó, là chạy theo 5 cái dục lạc này. Đạt được thì sanh tâm vui mừng, còn thất bại thì buồn khổ, sầu não. Nghĩa là khi đạt được 5 thứ dục lạc này, cho dù chỉ đạt được một thứ mà thôi, chúng ta cũng mừng nữa chứ chưa nói đạt được hết cả 5 thứ. Mà không được thì sanh ra buồn não, khổ sở.

Nhiều người vì không đạt được những cái trong 5 cái dục lạc này họ sẽ sanh tâm muốn đi tu theo Phật. Cái kiểu tu như vậy, theo Thầy nghĩ chắc là họ thành ma chứ không thể nào giải thoát được. Đòi hỏi dục lạc không được rồi bỏ đi tu thì cái kiểu tu đó không phải người thấy được cuộc đời là khổ, thấy được ở trong đầu của mình cuộc đời có biết bao cái khổ dày đặc. Cho nên nếu vô tu, rồi thời gian sau đó mà được người ta cung cấp tiền bạc, rồi được cúng dường, rồi xây chùa lớn cho mình, thì cái anh này hết tu rồi, vì anh vui do anh đạt được dục lạc rồi. Từ đó ông thầy nầy bị dục lạc nuốt mất rồi. Cho nên nếu ai vì thất vọng trong đời, vì thất tình, rồi vào chùa tu, khi 5 cái thứ dục lạc này lần lượt đến, nó ve vãn, nó khêu gợi, do bởi anh này đâu phải là người có tâm tu, đâu phải là người có tâm xa lìa cuộc đời đau khổ đâu. Tại vì anh đạt không được 5 đối tượng dục lạc này, do vậy khi anh bị dục lạc cám dỗ thì bị rơi vào trong cái dục lạc này, bỏ rơi mục đích tu hành. Đó là do không hiểu của Thập Thiện, do những cái lạc lầm khi đi tu.

Nhưng khi một người hiểu biết cuộc đời, thấy được 5 đối tượng này gây cho chúng ta biết bao đau khổ, nó cám dỗ chúng ta rất nhiều, rất mạnh. Người đời muốn được toại nguyện lòng ham muốn thì phải trải qua vô vàn cực khổ.

Nếu ngoài đời chúng ta muốn có tiền, chúng ta phải làm lụng hết sức cực khổ mới có. Nhiều khi chúng ta phải tính toán suy tư, phải làm kinh tế bằng cách này, bằng cách khác. Có nhiều khi chúng ta phải vào tù ra khám rồi chúng ta mới lập nên sự nghiệp chứ không phải là dễ. Chúng ta phải khổ sở vô cùng thì chúng ta mới có được sự nghiệp chứ không phải dễ. Nhiều khi chúng ta thành tựu được sự nghiệp, rồi cho dù chúng ta ngồi ở trên đống vàng chưa chắc chúng ta đã yên. Ở đây có Tâm Như được ngồi trên đống vàng mà chưa yên đâu. Thầy ngồi trên cục đá mà tâm Thầy rất yên, bởi vì ăn trộm nó không lấy cục đá; còn người ta ngồi trên đống vàng nhiều khi bước ra một bước thấy mất mạng liền tức khắc, nó không yên cho nên tâm họ bất an, luôn luôn bất an.

Lòng tham muốn của người đời khi được toại nguyện thì phải trải qua vô vàn cực khổ nhưng hưởng thọ sự vui đó thì rất là nhanh chóng. Vì thế chúng ta cần phải suy tư cho kỹ càng. Đó là vấn đề tiền bạc đó.

Tham sắc đẹp thì phải tổn phí tiền bạc rất nhiều lại còn mất sức khỏe và hao tổn tinh thần. Tham tiền bạc thì phải đọa đày thân mạng lao động vất vả, đầu óc suy tư, tính toán, kinh doanh để làm ra tiền, thân và tâm không bao giờ được an vui, ngơi nghỉ, ngồi trên đống tiền như ngồi trên đống lửa. Tham danh vọng, quyền cao tước trọng thì phải vào luồn ra cúi nịnh bợ, ton hót hoặc đem lo hối lộ. Chẳng hạn Thầy học dở mà Thầy muốn để cho người ta nói Thầy đậu tú tài, đậu cử nhân thì Thầy phải đem tiền đem bạc hoặc là quà biếu cho mấy ông thầy chấm thi, hoặc là xin ông thầy đó cho những bùa phép gì đó để rồi Thầy quay cho nó đậu.

Tất cả những cái này đều là những cái phải luồn cúi, nịnh bợ bằng cách là bắt buộc mình làm như vậy để cho mình tạo được cái danh vọng đó. Đó là cái sai cái không đúng. Tham ăn uống món ngon vật lạ thì lại mắc nhiều bệnh tật khó trị, ăn uống phi thời thức ăn sẽ thành độc dược. Tham ngủ nghỉ thì trí tuệ tối tăm, mê muội, sanh biếng nhác thiếu ý chí chủ động, thiếu nghị lực, dần dần biến thành kẻ ăn bám vào người khác.

Người cư sĩ theo Đạo Phật thường hằng ngày khắc phục và chiến đấu chống lại lòng tham muốn của mình để không bị 5 thứ dục lạc này lôi cuốn. Nhờ thế mới có được đời sống tri túc, thiểu dục, đơn giản, thanh tao và an nhàn, nhận được sự lợi ích đời sống con người khi đã lìa xa tâm ham muốn thì được thảnh thơi, an vui, an lạc, không còn khổ đau phiền não nữa.

Phật dạy: Diệt tâm tham muốn là diệt đế. Diệt đế là Niết Bàn là trạng thái tâm hồn thanh thản. Chỉ cần không ham muốn là quý vị đã đạt được cảnh giới Niết Bàn. Chỉ có 1 chút thôi, chúng ta đừng ham muốn, đừng có ham thích những cái dục lạc đó thì ngay đó chúng ta đã có Niết Bàn rồi, có cần gì mà phải tu nhiều, chỉ có 1 chút tâm đừng ham muốn là đủ rồi.

Vậy thì quý vị có cần gì mà phải cực khổ ngồi thiền, nhập định làm chi cho nó mất công? Chỉ cần dẹp qua cái lòng ham muốn là đã được rồi. Nhưng nói như vậy đâu phải chuyện dễ. Nếu dễ như vậy thì ai cũng làm Phật, cũng nhập được Niết Bàn được hết rồi. Khó lắm, cái lòng ham muốn của chúng ta khó mà dứt được nó lắm.

Quý vị đừng hiểu rằng khi tâm ham muốn dứt thì cuộc sống sẽ trở thành tẻ nhạt. Có nhiều người nghĩ rằng khi còn ham muốn thì chúng ta còn thích thú, còn làm cái này còn làm cái kia, giờ hết ham muốn rồi bắt đầu đời sống của mình không còn cái gì nữa hết, thôi chắc chắn là ngồi đó mà chờ chết thôi chứ có ước muốn gì nữa đâu. Đó là cái hiểu lầm lạc của nhiều người, cho hết ham muốn sẽ trở thành tẻ nhạt, trở thành vô vị, không còn ý nghĩa gì trong cuộc sống. Còn ham muốn thì còn thấy hy vọng cái này cái kia cho nên mình đâm đầu chạy bên đây chạy bên kia tìm nó. Còn giờ hết ham muốn rồi còn tìm gì nữa đâu. Cho nên đời sống bây giờ nó tẻ nhạt, lạnh lẽo vô cùng. Con người mà tâm không còn ham muốn nữa chắc chắn là tiêu chứ còn gì! Đó là cái hiểu của đứng ở trên núi này mà muốn hiểu cái núi kia, làm sao hiểu được!

Chúng ta muốn hiểu nó, chúng ta phải đi vào xem nó như thế nào. Vì vậy Phật dạy ly dục thì được tâm thanh thản, giải thoát. Từ cái chỗ mình không còn ham muốn nữa, mình lìa xa cái lòng dục của mình, lìa xa cái lòng tham lam đó thì cái tâm mình thanh thản; tâm thanh thản tức là tâm giải thoát, chứ đâu phải tẻ nhạt đâu. Do còn cái ham muốn mà không đạt được nó mới thấy tẻ nhạt, còn bây giờ người ta không ham muốn thì tức là nó thanh thản, cho nên nó đâu tẻ nhạt. Vì cái chỗ tẻ nhạt này là do cái ham muốn mà không đạt được, do vậy bắt buộc mình ngồi đây mà không ham muốn, chứ trong tâm của mình có một khối ham muốn to lớn ở trong đó. Cho nên nó mới thấy tẻ nhạt. Phải hiểu được cái lý như vậy. Nếu không phải vậy thì ông Phật bảo mình ly dục cho hết thì đó là Niết Bàn. Thì trời ơi, cái Niết Bàn gì nghe sao nó buồn khổ, vì nó không còn ham muốn gì hết trong đó. Thì như vậy mình tu làm gì nữa. Cho nên từ đó mình mới thấy được cái mấu chốt của vấn đề, cái mầm của nó là ham muốn dục lạc mà không đạt được. Bây giờ ngồi đây mà có cái tâm ham muốn to lớn cho nên mới thấy Niết Bàn tẻ nhạt, mới thấy Niết Bàn lạnh lẽo ở trong đó. Chứ còn người ta không còn ham muốn thì khi ly được lòng ham muốn rồi thì tâm hồn trở nên thanh thản, giải thoát, đâu có tẻ nhạt, đâu có buồn khổ.

Cho nên hiện giờ thấy như thế nào, cho các con sống độc cư, các con thấy cuộc sống buồn khổ, tẻ nhạt, đólà vì cái tâm ham muốn của các con còn, chứ nếu cái tâm ham muốn hết rồi thì đâu còn thấy sống độc cư là tẻ nhạt nữa đâu! Lúc đó các con sống độc cư thấy an lạc vô cùng, thích nó, không bao giờ không thích nó. Còn bây giờ thấy nó tẻ nhạt quá, nó buồn quá, thôi đi ra nói chuyện chút cho nó vui, tức là các con sẽ không giữ được hạnh độc cư. Vì vậy mà cái hạnh độc cư rất là tuyệt vời làm cho tâm hồn chúng ta thanh thản giải thoát. Chính vì tâm ham muốn còn nên các con sống độc cư không được. Sống độc cư không được là do cái tâm ham muốn của các con còn đó. Các con hiểu chỗ đó mới thấy được cái chỗ Thầy dạy rất là thực tế, cụ thể. Cho nên số người tu hành về đây rất đông mà không ai sống độc cư được, do vậy họ phải ra đi, chỉ còn lại được 2 người mà thôi, thì đủ biết rằng tại cái tâm ham muốn của họ còn, cho nên họ thấy tẻ nhạt, cô đơn, buồn bã. Vì vậy mà họ không chịu nổi cuộc sống độc cư, họ phải ra đi. Sống là sự trả nghiệp chớ không phải sự tham đắm, si mê về dục lạc. Ở đây, cái câu nói này các con phải hiểu, nó rất là đầy đủ ý nghĩa của nó. Bởi vì hầu như người ta lầm lạc, người ta tưởng cuộc sống này là phải tham đắm 5 cái dục lạc đó. Nhưng cuộc sống là trả nghiệp, bởi vì nghiệp sinh ra chúng ta ra, do đó những quả đó phải sẵn sàng cho cái bản thân của chúng ta rồi vì vậy chúng ta phải trả nghiệp. Khi chúng ta sống vừa trả nghiệp vừa tạo nghiệp thì nó mới có cuộc sống vị lai. Nếu chúng ta chỉ trả nghiệp cũ mà không tạo nghiệp mới thì làm sao có cuộc sống tương lai được. Cho nên 2 câu đầu trong bài kệ Nhất Dạ Hiền đã nói:

Quá khứ không truy tìm
Vị lai không ước vọng

Nếu quý vị không truy tìm cái quá khứ, không ước vọng ở vị lai thì hiện tại quý vị sẽ sống như thế nào? Thanh thản! Còn nếu quý vị truy tìm cái quá khứ, rồi ước vọng ở tương lai thì như vậy quý vị còn có được an vui không? Nếu truy tìm ở quá khứ và ước vọng ở tương lai thì đó là tham đắm, si mê của dục lạc chứ đâu phải là người trả nghiệp?

Chúng ta biết chúng ta sinh ra là để trả nghiệp chứ không phải chạy theo tham đắm của dục lạc. Vì chúng ta không hiểu được vậy nên chúng ta chạy theo tham đắm dục lạc vì vậy mà chúng ta tạo những nghiệp mới, vừa trả những nghiệp cũ, vừa tạo thêm những nghiệp mới do không hiểu biết. Quý vị có hiểu được chỗ này mới thấy được con đường của Đạo Phật vạch ra chúng ta một lối để biết rằng chúng ta phải diệt trừ tất cả nghiệp. Vì nghiệp là ông chủ sanh chúng ta ra, là chủ nhân sai khiến chúng ta.

Người đời chưa hiểu Phật Pháp, lầm tưởng dục lạc như Thầy vừa nói trên là có thật, nghĩa là người ta thấy 5 món dục lạc đó có thật. Chính bây giờ các con người đều biết 5 thứ dục lạc đó không thật, nhưng các con mới ngộđược cái lý không thật của 5 món dục lạc thôi chứ chưa chứng được cái lý không thật của 5 món dục lạc này. Vì vậy mà các con tuy biết 5 món dục lạc này không thật, hiểu nó không thật nhưng vẫn thích ăn, vẫn thích ngủ. Đêm nào không ngủ được là các con thấy khổ sở vô cùng tận. Tiền bạc tuy rằng bây giờ các con không có nhưng mà vẫn còn thích chứ đâu phải không thích. Rồi sắc đẹp, đâu phải không thích. Rồi danh, không phải không thích. Tất cả 5 món dục lạc này các con đều biết nó không thật nhưng các con vẫn còn thích nó. Đó, các con có hiểu được điều đó không?

Nếu muốn chứng 5 món dục lạc này không thật như thật, thì phải tu tập như thế nào? Nếu các con không tu mà cứ ngồi hít thở thì làm sao thấy 5 món dục lạc này không thật như thật được? Cho nên các con hiện giờ tuy biết nó không thật nhưng vẫn thấy nó thật. Cho nên luôn luôn dính mắc nó. Không thể nào thoát khỏi nó được. Do vậy Thầy dạy các con Định vô lậu. Tu Định vô lậu để làm gì? Để các con khi ngồi xếp bằng lại, thân bất động, tâm yên lặng, rồi đặt cái niệm ngũ dục lạc này trước mặt tư duy: thức ăn các con quán bất tịnh; các con đặt cái niệm ngủ trước mặt: ngủ sinh ra mê muội hôn trầm. Từ đó tri kiến ở trong đầu của các con sẽ phóng ra, nó làm cho các con không còn dính mắc say mê ngũ dục lạc này nữa. Từ đó các con mới thấy rõ được sự giải thoát nơi tâm hồn của các con. Các con mới chứng được cái lý không thật của nó. Cái lý của 5 thứ dục lạc này đều không có thật mà các con lầm chấp cho nó là thật, cho nên mới có cái tâm tham đắm nó, mới có cái tâm si mê nó.

Muốn cho 5 dục lạc này không thật thật sự thì quý vị phải đặt niệm đó ở trước mặt, rồi dùng tri kiến giải thoát để suy tư, quý vị mới ngộ là 5 cái dục lạc này nó không thật, thì đó là cái tri kiến giải thoát của quý vị. Chỉ khi quý vị đặt niệm 5 thứ dục lạc này trước mặt của quý vị, tri kiến giải thoát của quý vị mới phóng ra sự hiểu biết. Do sự suy tư, quán xuyến sự hiểu biết đó mới thấy được 5 thứ dục lạc này trở thành không có thật. Cứ đặt cái niệm đó trước mặt, ngày này tới ngày khác tu tập như vậy, quán xuyến như vậy, rồi xả bỏ tất cả những dục lạc này để không còn ham thích chúng nữa. Thí dụ trong giờ không được ngủ mà nó buồn ngủ, tức là nó còn dục lạc chứ gì. Nó làm cho ta ham ngủ, nó làm cho ta mệt mỏi, nó làm cho ta lừ đừ, nó làm cho ta muốn đi ngủ nè. Khi đó quý vị phải chiến đấu với nó bằng cách phải đi kinh hành, quý vị phải động thân, quý vị phải chiến thắng nó, đừng cho nó ngủ trong giờ đó, nhất định là không cho nó ngủ. Có chiến đấu như vậy, quý vị mới chiến thắng được cái dục lạc này. Phải chiến đấu từng cái dục lạc. Thí dụ dục lạc ăn, nếu quý vị không quán nó bất tịnh thì cái món ăn nào quý vị thích, quý vị không bao giờ chứng cái lý bất tịnh như thật được, do bởi quý vị không thấy nó bất tịnh. Còn để món ăn trước mặt, rồi quý vị quán cái thức ăn đó bất tịnh đi, lâu ngày, một lần hai lần ba lần, một ngày hai ngày, một tháng, hai tháng tới một năm, thì quý vị không còn muốn ăn nó nữa. Nghĩa là quý vị thấy thực phẩm ăn để mà sống chứ không còn thèm ăn, thèm uống gì nữa hết.

Định vô lậu lợi ích cho quý vị như vậy. Đó là phương pháp đặt niệm trước mặt để tu Định vô lậu làm cho cái tâm tham đắm ngũ dục lạc không còn dính mắc nữa.

Chính do si mê, tham đắm dục lạc nên tạo ra biết bao nghiệp ác. Do nghiệp ác mà chúng ta mới chịu biết bao sự khổ đau. Chính từ chỗ chúng ta đắm đuối theo những dục lạc này mà chúng ta tạo ra những nghiệp ác. Muốn đạt được dục lạc phải có nhiều thứ ác ở trong đó, chứ đâu phải khi không mà đạt được dục lạc đâu, để đạt được dục lạc chúng ta lại tạo ra nhiều nghiệp mới, làm cho chúng ta đời đời kiếp kiếp tiếp diễn nhau ở trong nghiệp lực, để rồi chúng ta mãi mãi đau khổ triền miên bất tận, kiếp này đến kiếp khác.

Kinh Thập Thiện nghiệp đạo dạy: Kẻ nào không tham đắm dục lạc thế gian thì được 5 món công đức tự tại:

1. Ba nghiệp thân, khẩu, ý được tự tại. Các căn được đầy đủ.
2. Của cái được tự tại. Nghĩa là của cải chúng ta không có sự hao mất.
3. Phước đức tự tại.
4. Ngôi vua tự tại.
5. Được hưởng lợi gấp trăm lần.

b/ Không sân hận

Cái tâm của chúng ta, cái ý của chúng ta dễ sân hận lắm. Tâm sân hận là tâm đau khổ, tâm hung ác, tâm dữ tợn. Tâm sân hận vốn không có, chỉ vì chúng ta lầm chấp thân tâm của mình là ngã thật từ đó mới luôn luôn bảo vệ, che chở, nếu ai chạm đến nó, tức là cái thân tâm của mình tức thì cơn sân nổi lên đùng đùng.

Cho nên ở đây quý vị có biết do chỗ nào mà có cái tâm sân của mình? - Do cái chỗ lầm chấp cái ngã của chúng ta. Vậy thì cái thân của chúng ta là cái ngã của mình, tâm của chúng ta là cái ngã của mình, lầm chấp cái đó cho nên người ta đụng tới là đụng tới cái ngã, ngay đó mình giận lên liền. Vì vậy khi tu Định vô lậuthì chúng ta đặt cái thân và cái tâm để quán cái thân của mình có cái ngã ở trong đó không? Nó vô ngã. Cho nên Phật dạy: Vô thường, khổ, không, vô ngã.Nó không có cái gì hoàn toàn, cái ngã cũng không có, nó vô thường. Cái thân này nay vậy mai khác. Cho nên khi đặt niệm như vậy chúng ta phá trị cái ngã, mà phá trị cái ngã thì còn cái gì mà chúng ta sân, cho nên chúng ta phá ngay cái gốc của nó đi thì cái sân của nó sẽ không có. Còn bây giờ chúng ta dù biết mọi pháp là vô thường này kia mà chúng ta không đặt niệm để tu tập cho nó thấm nhuần được cái lý chơn thật của vô ngã thì lúc bấy giờ chúng ta có nói tất cả các pháp người ta chửi mình cũng là giả, cũng không thật, người ta mắng mình cũng là điều vô thường bằng cách này cách khác. Nhưng đó chỉ mới là cái lý để chúng ta hiểu, chứ chúng ta chưa ngộ, chưa phải là chúng ta thấm được cái lý, chứng được cái lý đó.

Vì vậy chúng ta đặt niệm vô ngã trước mặt của chúng ta, đặt cái thân tâm chúng ta rồi quán xét nó vô ngã. Nó không ngã như thế nào, cái tâm nó như thế nào. Chúng ta 4 chỗ để quán xét nó, để nó trở thành vô ngã. Từ đó cái tâm sân của chúng ta không bao giờ có nữa. Cho nên ở đây Thầy giảng ra để cho chúng ta có hành động tu tập diệt trừ cái tâm sân của mình, để thực hiện được điều lành mà tâm không còn sân nữa. Chớ không phải mình giảng suông mà không biết hành động tu, không biết tu cái định nào để tâm hết sân; chỉ giảng nói suông như vậy thì chúng ta không bao giờ hết sân.

Trước kia, Thầy dạy quý vị tùy thuận nhẫn nhục, bằng lòng trong mọi điều kiện, để cho quý vị sống trong cuộc đời... Tùy thuận bằng lòng với mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh để tâm sân, tâm phiền não của quý vị không có, nhưng Thầy thấy quý vị chuyên tâm về thiền định hơi thở nhiều hơn mà định vô lậu không có. Chỉ ngộ được cái lý của nó cho nên quý vị chỉ chịu đựng mà nhẫn nhục, chịu đựng mà tùy thuận, chịu đừng để mà bằng lòng, do đó sự tu tập của quý vị bị giậm chân tại chỗ. Thầy biết có một sự thiếu khuyết ở trong đó, vì vậy bây giờ quý vị sẽ theo ngay lời dạy của đức Phật đặt niệm trước mặt để quán cái thân vô ngã, cái tâm vô ngã, từ đó không có cái ngã thì cái tâm sân nó sẽ không có nữa.

Một niệm tâm sân khởi thì trăm ngàn tai họa đem đến. Biết vậy, hàng ngày chúng ta thường nhắc tâm: "Giận hờn là đau khổ, là bao nhiêu tai nạn xảy đến. Giận hờn khiến gia đình bất an, không vui. Vậy từ đây về sau tâm không được giận hờn, tâm phải như cục đất". Thì như vậy đây là phương pháp hướng tâm tu, tức là phương pháp ám thị. Kèm theo phương pháp ám thị, chúng ta phải đặt cái niệm vô ngã thì như vậy chúng ta mới hoàn thành được cái tâm không sân hận, không giận hờn nữa.

Quý vị phải áp dụng cả 2 phương pháp chứ không phải chỉ áp dụng một phương pháp thì nó không đủ sức mà chuyển nó đâu, vì bằng chứng là trải qua thời gian quý vị cũng dùng pháp hướng, quý vị ám thị rất nhiều mà nó chưa thành tựu được. Cho nên hôm nay quý vị đặt luôn cả cái thân, cái tâm vô ngã để quý vị quán xét, quán triệt, để thấm nhuần thấu suốt cái lý vô ngã của nó, để quý vị phá đi các lậu hoặc của quý vị. Cộng lại các phương pháp tu tập như vậy làm cho tâm sân của quý vị không còn có nữa. Hàng ngày phải nhớ câu này, nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu này cho thấm nhuần tận xương tủy. Có như vậy tâm sân hận mới đoạn diệt. Đó là Thầy đưa ra 2 pháp để quý vị tập luyện để cho cái tâm sân này nó hết.

Do dằn không được sự giận hờn nên từ việc nhỏ sẽ nở ra việc to lớn, từ đó biết bao nhiêu tai họa xảy đến không lường trước được. Tâm sân thường mang đến những sự rắc rối và tạo ra vô vàn đau khổ. Nếu tâm sân không dằn được, có khi gây ra án mạng tạo cảnh tù tội chung thân. Quý vị phải ý thức sân hận thường mang đến tai họa cho loài người, chính nó làm mất đi hạnh từ bi của người tu sĩ và lòng nhân ái của người thế gian. Tâm sân của quý vị diệt đi lòng từ bi của vị tu sĩ. Và tâm sân của quý vị diệt đi lòng nhân ái của người cư sĩ. Vì vậy quý vị phải tìm mọi cách chấm dứt tâm sân đó đi.

Trong Tứ Chánh Cần, Phật dạy: Các pháp ác chưa sanh không cho sanh, đã sanh cần phải đoạn diệt, như vậy tâm sân của mình tự nó có đâu. Cho nên bây giờ đừng cho nó sân, mà đừng cho nó sân các vị phải sống như thế nào? Phải sống độc cư. Sống độc cư không có duyên để cho nó tạo ra cái tâm sân đó, khi có đủ duyên thì tâm sân sẽ sanh ra. Nếu quý vị sống chung đụng mãi với nhau thì tâm sân quý vị làm sao tránh khỏi.

Đó là những điều mà quý vị cần phải tu tập, cần phải sống cho đúng. Đoạn diệt các pháp ác là một điều khó khăn, phải có nghị lực, ý chí cương quyết. Như bây giờ tâm sân của quý vị bừng bừng nổi lên, bảo quý vị ngắt lìa nó, bảo quý vị dừng tâm sân liền, quý vị có làm nổi không? Nếu một người không có ý chí, không có nghị lực, chắc gì lìa được nó, đoạn dứt nó được. Cho nên khi pháp ác sanh lên thì ngay đó phải đoạn dứt nó liền. Bởi vậy, trong Tứ Chánh Cần Phật dạy: Các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, đã sanh phải đoạn diệt nó liền. Đoạn diệt nó liền quả là khó khăn, nếu không có ý chí, không có nghị lực thì không thể nào đoạn diệt nó được. Chúng ta hãy đem hết ý chí dũng mãnh để chiến thắng những cơn sân phát khởi ào như thác đổ.

Thầy nhắc lại: Muốn làm chủ hoàn toàn tâm mình không để một phút giây sân hận khởi lên thì phải dùng tuệ tri, quán xét, đặt niệm trước mặt. Đó là phải tu Định vô lậu. Chúng ta phải rõ: 1.- Thứ nhất phải trau dồi tâm từ bi của mình; 2.- Thứ 2 phải quan sát thọ, tưởng, hành, thức, vô ngã, vô thường. Chúng ta phải đặt niệm sắc thọ tưởng hành thức. Sắc là cái thân của mình. Thọ là các cảm giác. Tưởng là ngồi tưởng nhớ. Hành là các hoạt động. Thức là cái hiểu biết của mình. Đặt nó để mà quan sát, để chúng ta tu định vô lậu, phá cái ngã, cái chấp ngã của chúng ta. Chúng ta cho nó là thường còn, cho nó là có ngã thật cho nên nó mới có cái tâm sân đó. Cho nên phải đặt cái niệm sân đó trước mặt.

Cái thứ nhất là quý vị phải nhớ trau dồi tâm từ bi vì Phật dạy tâm từ bi đối trị tâm sân mà ở đây trau dồi từ bi chưa đủ đâu. Bởi vì chúng ta biết có cái ngã cho nên dù có trau dồi tâm từ bi bao nhiêu đi nữa, mà cái ngã nổi lên thì từ bi chúng ta sẽ mất. Cho nên chúng ta phải đặt cái niệm vô ngã để chúng ta dùng Định vô lậu quét sạch cái chấp lầm của chúng ta về sắc thọ tưởng hành thức này. Do đó chúng ta quán vô ngã, vô thường khổ không, tức là làm cho đối tượng của tâm sân không còn có nữa. Tâm sân bị diệt đi nhờ thông hiểu vô ngã.

Giai đoạn đầu khi vào đạo Phật chúng ta phải tìm hiểu cho rốt ráo. Bây giờ hiểu rồi, chúng ta trau dồi tức là dùng Tứ vô lượng tâm, từ - bi - hỷ - xả mà trau dồi. Chúng ta dứt bỏ là chúng ta phải tu tập Tứ chánh cần. Rồi chúng ta tu tập là tu Định vô lậu, rồi Định chánh niệm tỉnh thức. Đó chúng ta thấy tất cả các pháp chúng ta đều kê vào để mà chúng ta tu tập. Từ đó mà chúng ta mới quán các pháp bất tịnh, quán lý duyên hợp, quán vô ngã, vô thường, khổ … chúng ta quán tất cả các pháp.

Do sự tu tập đúng cách như vậy, chúng ta mới thực hiện được Thập Thiện chứ đâu phải Thập Thiện mà dễ dàng. Nó đâu có đơn giản như chúng ta nghĩ, học hiểu rồi chúng ta bỏ qua, rồi chúng ta bỏ qua thì Thập Thiện chẳng qua là đống sách rởm, đống kinh chứ không phải là nó có điều lành chân thật. Có đạo đức chân thật nơi tâm hồn của chúng ta thì tâm sân hận mới chấm dứt, cuộc sống mới được an vui, giải thoát. 

Kinh Thập Thiện đạo dạy: Kẻ nào làm chủ được tâm sân thì được 8 món công đức. Đây là 8 sự công đức của việc tu tập về tâm sân của mình:

1. Tâm không tổn não.
2. Tâm không giận hờn.
3. Tâm không tranh giành.
4. Tâm được hòa hợp.
5. Tâm được từ bi.
6. Tâm thường làm lợi ích và an vui, an ổn cho mình, cho chúng sanh.
7. Thân tướng được trang nghiêm.
8. Có đức tánh nhu hòa và nhẫn nhục, khi chết được sanh vào cõi thiện.

Đó là 8 công đức mà người tu tâm này được thì đạt được 8 công đức đó.

c/ Không si mê

Đây là hành động cuối cùng của ý chúng ta, tức là không si mê. Si mê là u mê, không hiểu rõ, không biết đúng sự thật, hiểu biết mà không đúng chân lý. Si mê là tà kiến.

Người không si mê là người phán đoán rành rẽ, nhận định một cách rõ ràng, không biện minh che đậy sự ngu si u tối và lầm lạc của mình. Cho nên người si mê không phải là người đó không hiểu biết, mà trái lại, người đó rất hiểu biết nhưng họ hiểu không rõ, không đúng lý, họ hiểu qua một cái tâm tham đắm, dính mắc ngũ dục lạc. Họ rất là thông minh mà họ vẫn là u tối, bởi vì họ hiểu mà họ không làm cho cái tâm của họ được an vui, được yên ổn.

Người không si mê thì không có cố chấp, không ngoan cố theo cái sự hiểu biết riêng tư chủ quan của mình. Người si mê họ ngoan cố, họ cố chấp, họ chấp chặt những sự hiểu biết của họ, cho nên ai mà động đến sự hiểu biết của họ thì họ tranh luận, họ lý luận đủ cách để họ bảo vệ sự hiểu biết của họ. Cho nên người thông minh, người không si mê thì người ta không bị cố chấp cái đó nên ít khi nào người ta tranh luận với kẻ khác. Người ta chịu nhịn thua người khác. Còn người si mê thì họ thích tranh luận. Không phải những người si mê là người không hiểu, họ hiểu họ mới tranh luận nhưng mà họ tranh luận theo kiểu kiến chấp của họ, theo sự ngoan cố của họ, theo sự cố chấp của họ chứ không phải là họ sự ngu si, ngu ngờ không biết.

Không si mê, không tin những tà thuyết, người không si mê thì những tà thuyết không bao giờ họ tin; những gì không đúng chân lý, những tà kiến, mê tín dị đoan, không làm cho người này tin được. Người si mê thì những cái gì mù mờ, họ thấy những cái gì đặc biệt kỳ quái là họ tin theo chứ không có sáng suốt, cho nên đó là những người si mê.

Người không si mê là người có trí tuệ thông minh, thấu suốt lý nhân quả. Đây, các con nghe người không si mê là người thông minh phải thấy ở chỗ nào, còn người thấy ngoài vấn đề này hoàn toàn thì người đó là người si mê.

Người không si mê là người có trí tuệ, thông minh, thấu suốt lý nhân quả luân hồi. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ 2 là biết rõ thế giới này không có thế giới siêu hình. Biết rõ thập nhị nhân duyên, đó là lý duyên hợp. Biết rõ lý duyên hợp. thế giới thành hoại, nghĩa là thế giới của chúng ta do đâu mà thành và do đâu mà hoại. Chúng ta phải thấu suốt được cái nghiệp. Ở đây nói thế giới thành hoại là phải thấu suốt được nghiệp. Người không si mê thấy biết và thấu suốt 4 chân lý của kiếp người, là Tứ diệu đế; biết rõ nơi đến nơi đi của kiếp người, biết rõ ở đâu người ta đến đây, rồi người ta sẽ đi về chỗ nào, thìngười không si mê phải thấu rõ được điều đó, chứ họ không mơ hồ đặt câu hỏi không biết chúng ta từ đâu mà đến, chúng ta chết rồi chúng ta đi về đâu, thì cái đó còn mơ hồ. Cho nên người nào đặt câu hỏi như vậy là những người còn si mê, dù là một nhà bác học, dù là một người có bằng tiến sĩ, nhưng họ vẫn đặt câu hỏi đó, họ chưa biết, do đó họ còn si mê chứ chưa phải là người không si mê.

Biết rõ con người là duyên hợp. Người không si mê biết rõ con người là duyên hợp, các pháp trên thế gian này đều vô thường, vô ngã, khổ, đều là duyên hợp, đều là vô thường, vô ngã không có ngã, luôn luôn là khổ. Biết nhân nào, duyên nào sanh ra con người. Biết địa ngục, thiên đàng ở đâu. Biết các cõi trời, biết rõ ma phạm thiên vương, quỷ thần. Biết rõ con người có linh hồn hay không linh hồn. Biết Bát chánh đạo và các pháp tu hành giải thoát. Người biết rõ như vậy là người không si mê. Người không thấu rõ những điều này được xem là người si mê dù người đó có học thức cao, đậu bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ và những nhà bác học rộng rãi hiểu xa mà vẫn còn mù mờ không rõ những điều trên đây cũng được xem là vô minh, si mê.

Vì thế Đức Phật xác định người si mê có 4 cách. Nghĩa là trong bài kinh đức Phật xác định, Thầy sẽ đọc lại cái chỗ đức Phật xác định:

Một, “Có người đi Đông, đi Tây học hỏi cái này, cái nọ hiểu biết nhiều chuyện kim cổ, thời tiết, chính trị, văn học, khoa học, kiến trúc, hội họa, thi thơ…có thể gọi người này tri kiến hoàn toàn nhưng những sự hiểu biết này tâm họ luôn bất an, đều được gọi là phi phạm hạnh, si mê hạng nhất”. Cái sự hiểu biết của họ được Phật xác định là người phi phạm hạnh, si mê hạng nhất. Chúng ta phục lăn Đức Phật ở chỗ này. Mặc dù những người này họ thông hiểu vậy, nhưng tâm họ vẫn bất an chứ chưa phải là được an, vì vậy Đức Phật gọi là thuộc loại si mê hạng nhất.

Hai, “Y cứ vào kinh sách mà giảng nói ra, hoặc những truyền thuyết, sự hiểu biết, sự giảng dạy, sự giảng nói này mà tâm họ vẫn bất an thì đây được gọi là phi phạm hạnh, si mê hạng nhì”. Trong kinh điển Phật chỉ cho chúng ta thấy: dù cho những người đó thuyết giảng mà tâm họ luôn bất an, còn chạy theo ngũ dục lạc thì người đó vẫn là người bất an. Vì chúng ta thấy họ thọ hưởng những dục lạc thế gian là biết rằng họ bất an chứ không phải họ an được mặc dù họ thuyết kinh rất hay, họ giảng rất hay nhưng họ vẫn sống trong dục lạc là biết tâm họ bất an, thì đó là si mê phi phạm hạnh thứ nhì.

Ba, "suy luận, lý luận, thuyết pháp theo nguyên tắc tự mình sáng tác mà tâm còn dính đầy danh sắc, tâm luôn bất an thì đây là phi phạm hạnh, si mê hạng 3". Đó thì chúng ta thấy Đức Phật xác định 3 cái hạng này.

Còn hạng thứ 4 nữa, thuộc về loại si mê đó chứ không phải là hạng thông minh đâu, nhưng chúng ta nhìn thấy là hạng thông minh chứ không si mê chút nào hết, nhưng tại vì họ không hiểu cái lý giải thoát cho nên từ đó cái tâm họ bất an mà Đức Phật cho cái hiểu của họ chỉ làcái hiểu si mê chứ không phải là cái hiểu giải thoát.

Bốn, "đần độn, ngu si". Đần độn, ngu si tức là nói gì họ cũng không hiểu, hỏi cái này thì đáp cái kia, hỏi cái kia thì đáp cái nọ, họ không hiểu nên họ nói tầm bậy tầm bạ không trúng. Phật nói “trườn uốn như con lươn”. Họ trườn qua bên đây, lách qua bên kia, trả lời theo cái kiểu đó tức là hạng người đần độn, không hiểu đó. Tâm người này thường bất an. Đó là hạng người phi phạm hạnh, si mê thứ 4. Đức Phật ghép cho họ vào cái loại si mê đó.

Đức Phật xếp 4 hạng người này trong hạng si mê. Chúng ta xét thấy những hạng si đó đều có cái tâm họ luôn luôn bất an, dù họ có thấu hiểu kinh sách.Như vậy là hiện bây giờ quý vị hoàn toàn đang có sự hiểu biết rất thấu suốt kinh sách mà tâm quý vị bất an đều được gọi là si chứ chưa được gọi là thông minh đâu. Bây giờ có ai trong quý vị xác định mình là người không si không? Chắc chắn là không có rồi đó. Vìvậy Thầy dạy Thập Thiện để quý vị biết thế nào là si và ai là người si, chứ nhiều khi chúng ta chưa biết như thế nào gọi là si đâu, chưa biết là ai si đâu. Hôm nay bài kinh này của Phật xác định cho chúng ta biết điểm si. Vậy là bây giờ quý vị đã rõ rồi.

C.- ĐỨC HẠNH THẬP THIỆN

1.- SÁU ÁC HẠNH KHÔNG NÊN CÓ

Bây giờ Thầy giới thiệu 6 ác hạnh làm tổn tài hao của và phí sức nên tránh:

a. Đam mê rượu chè

Khi một người uống rượu, Phật nói có 6 cái lỗi đưa đến hao tài tốn của. Vậy thì cái lỗi này là những lổi nào?

1/ Mất của. Nghĩa là người say rượu thì khi say rồi, tiền bạc bỏ trong mình người ta lấy không có biết, hoặc là khi say rồi mình làm rớt mất tiền bạc không biết, cho nên gọi là say rượu mất của.
2/ Sanh bệnh. Người say rượu thì cái thân dễ bệnh tật
3/ Hay gây gổ.
4/ Tiếng xấu đồn xa.
5/ Dễ sanh nóng giận.
6/ Trí tuệ mỗi ngày một giảm dần.

Người nào mải mê uống rượu thì sạt nghiệp, cửa nhà của họ mỗi ngày một tiêu tan. Khi đi uống rượu thì chắc chắn phải có mang tiền theo, mà khi say rượu rồi thì tiền bạc không có cần thiết, cho nên mất của mà không biết.

Khi uống rượu nhiều thì cơ thể hay sanh bệnh tật. Đó là hiển nhiên, không ai chối cãi được. Khi Phật dạy thì chắc chắn phải đúng như vậy.

Người say rượu thì hay gây gỗ. Chắc ở trong đời của chúng ta cũng đã từng thấy những người say rượu, chúng ta thấy những điều Phật dạy không có sai chút nào. Khi say sưa thì người say rượu không còn biết dơ sạch, không còn biết tốt xấu; giữa đường, ngoài hè phố, dưới mương rãnh, chỗ dơ bẩn họ đều có thể nằm ở nơi đó được hết. Họ múa tay múa chân, họ la, họ hét, họ chửi mắng người này người kia. Lúc bấy giờ người đi qua, kẻ đi lại thấy ông đó như vậy thì họ nói với người này người kia, cho nên tiếng xấu người đó đồn xa, đó là vậy.

Người uống rượu, thường tánh của họ rất dễ nóng lắm, rất dễ giận hờn lắm, ai nói gì đụng chạm đến họ thì ngay đó họ muốn đánh người ta liền, không bao giờ họ có cái tâm nhẫn nhục được.

Về phần trí tuệ, người uống rượu say sưa thì mỗi ngày chúng ta thấy họ u mê, họ không hiểu, nhiều khi nói cho họ nghe mà họ không thông suốt. Họ chỉ mải mê say rượu, mình khuyên họ điều đúng để cho họ chừa bỏ say rượu, nhưng họ không bao giờ nghe. Khi uống rượu say sưa đã quen rồi thì khó mà dứt bỏ được. Vì vậy mà họ không còn làm lụng để giàu sang như người khác, họ chẳng cẩn biết gì đối với cái gia đình của họ, nên của cải của họ lần lần tiêu hao.

Như vậy, chúng ta thấy rất rõ là nếu một người cư sĩ mà va vấp vào sự uống rượu say sưa thì đó là nguyên nhân đưa tới của cải tài sản của họ bị hao mòn.

b. Đam mê cờ bạc

Đam mê cờ bạc có 6 lỗi. Vậy 6 cái lỗi đó là gì?

1. Tài sản hao mòn.
2. Thắng thì bị người oán.
3. Người hiểu biết chê cười.
4. Mọi người không kính trọng.
5. Người tốt xa dần.
6. Sanh tâm trộm cắp.

Người nào mải mê cờ bạc thì sản nghiệp của họ mỗi ngày một sa sút. Đúng vậy! Thứ nhất là tài sản của họ hao mòn vì họ đâu có dễ thắng mọi người, lần lượt ngồi không, không làm cứ thích chơi, đánh bạc thì làm sao mà có thêm của cải được. Cho nên lúc trước làm ra bao nhiêu của cải thì nay bị chặn đứng lại, rồi bắt đầu hao mòn dần, riết rồi bán nhà, bán cửa vì cái tánh ham mê cờ bạc. Do như vậy mà tài sản lần lượt hao mòn cho đến khi kiệt quệ.

Thắng thì bị người oán nghĩa là mình thắng bài bạc mình được tiền thì người thua sinh thù oán, có thể người ta phục rượu mình say để rồi người ta tìm cách giết mình hoặc là người ta hại mình bằng cách này, bằng cách khác. Do đó người này bị người khác oán khi mình thắng bạc. Người đi bài bạc thường không đi một mình nên khi thắng thì rất dễ bị giết chết hoặc bị ám hại nơi sòng bạc chứ không có đi về nhà được. Đó là những điều Đức Phật xác định trong bài pháp này Thầy thấy rất là đúng, không có sai chỗ nào hết.

Người hiểu biết chê cười. Người có hiểu biết thấy người ham mê cờ bạc làngười tham lam không đúng cách, làm những việc không đúng cách cho nên họ chê cười những người đó.

Mọi người không kính trọng. Người có đức hạnh, có hiểu biết không bao giờ kính trọng những người đam mê bài bạc.

Và đồng thời người ham mê cờ bạc thì không còn những người bạn tốt. Những người tốt ở trong xã hội dần dần không chơi với những người đam mê cờ bạc đó nữa.

Rồi khi thua bạc quá, không còn tiền bạc, nhà cửa tiêu mòn nhưng cái tánh ham cờ bạc vẫn còn, do đó người này mới sanh ra trộm cắp để đi bài bạc hoặc là trộm cắp để nuôi sống mình. Đó là bước đường cùng của người ham mê cờ bạc.

Do vậy, người cư sĩ phải hiểu biết 6 điều tai hại trên khi mê cờ bạc, nó đưa đến tội lỗi như vậy, xấu xa như vậy, đau khổ như vậy. Cho nên người cư sĩ cần phải tránh và bỏ cái tánh ham mê cờ bạc để đem lại sự an vui hạnh phúc, và không bị sa sút tài sản của mình. Đó là cái điều thứ 2, không đam mê bài bạc mà Phật dạy cho người cư sĩ.

c. Sống phóng đãng

Phóng đãng có 6 lỗi:

1. Không tự giữ lấy thân. Người phóng đãng tức là người đi du thủ, du thực bằng cách này bằng cách khác, cho nên họ không giữ lấy cái thân của họ. Họ có thể bị hao mòn hoặc là đau bệnh hoặc là ham vui, những cái vui sa đà quá rồi cái thân của họ tiều tụy, càng ngày càng suy giảm. Đó là cái thứ nhất.

2. Không giữ gìn được của cải. Khi phóng đãng họ tuôn ra xài phícủa cải, bao nhiêu cũng họ tuôn ra như nước, cho nên họ không giữ gìn của cải của họ được.

3. Không bảo trợ được con cháu. Người phóng đãng không bao giờ lo cho con của họ, họ không bao giờ nghĩ đến con cháu họ, họ không giúp đỡ cho con cháu họ.

4. Người phóng đãng thường hay sợ hãi, tâm họ thường hay sợ hãi.

5. Những điều ác khổ sẽ ràng buộc xác thân họ, nghĩa là người phóng đãng khi vui chơi, khi mải mê với bạn bè (loại phóng đãng) thì họ bắt buộc thế này, bắt buộc thế kia, làm cho mình không còn thoát ra khỏi, cho nên thấy khổ mà vẫn đâm đầu vào cái khổ, không thể nào thoát ra khỏi sự ràng buộc đó

6. Thường sanh dối trá. Tâm người phóng đãng luôn dối trá, gạt người này, gạt người kia, nói qua nói lại không bao giờ nói sự thật được. Bởi vậy cái tâm người phóng đãng không thể nào nói thật được là vì họ mải mê theo sự vui chơi thích thú của họ, họ phóng dật ra ngoài, họ chạy theo sự đắm mê của ngũ dục lạc cho nên họ không còn nghĩ đến tài sản, nhà cửa của họ. Lần lượt của cải tài sản của họ một ngày một hao dần mòn. Đó là cái tâm phóng đãng của người phóng đãng có 6 điều tội lỗi làm cho thân và của cải, con cháu, tâm thường sợ và luôn luôn thân xác họ bị gò bó xung quanh những điều ác, người ác làm cho họ không dứt ra được. Họ thường thường hay dối trá, gạt người này, gạt người khác.

Người cư sĩ khi hiểu biết được sự phóng đãng là nguy hiểm như vậy, tai hại như vậy thì nên cố gắng giữ gìn đừng để tâm phóng đáng, đừng chạy theo những điều cám dỗ của dục lạc thế gian mà tạo cho sự nghiệp mình bị tiêu mòn.

d. Say mê kĩ nhạc.

Say mê kĩ nhạc có 6 lỗi tức là người say sưa ca hát thì có 6 lỗi, đó là:

1. Ưa ca hát là người say mê kĩ nhạc, say mê ca hát, ưa ngâm, vịnh. Đó là cái sự ưa thích ca hát.

2. Thích khiêu vũ, người ưa ca hát họ lại thích khiêu vũ.

3. Mê đàn địch, tức là họ ưa ca hát thì họ phải thích đàn địch

4. Chuộng tiêu sáo. Hễ họ ca hát đàn địch khiêu vũ thì họ cũng thổi sáo, thổi tiêu. Cho nên họ cũng thích sáo tiêu.

5. Ưa đánh trống. Họ cũng ưa thích đánh trống.

6. Mê thổi kèn. Tất cả những nhạc cụ để phát ra những âm thanh thì người say mê kỹ nhạc đương nhiên là họ phải thông suốt những cái này. Vì vậy mà khi đam mê thổi kèn thì họ chỉ còn biết đặt tâm hồn của họ vào trong say mê của âm thanh và những điệu nhảy nhót, khiêu vũ chứ họ không có còn nghĩ đến sự sống của một người biết đạo. Một người biết đạo rất sợ hãi về sự cám dỗ của sự ca hát, khiêu vũ vì nó có thể đưa đến chỗ sanh ra cái tâm mà theo người xưa nói không có cái đạo đức luân thường. Người ta nói xướng ca vô loài, nghĩa là họ cho rằng những người ưa ca hát thì không giữ được cái đạo đức luân thường, nay thì chung sống với người này, mai họ kết kợp với người kia. Ở đây là theo ý của người ngày xưa đúc kết.

Nhưng theo Thầy nghĩ thì Phật không nghĩ như vậy, mà Phật cho rằng người ưa ca hát, khiêu vũ, đàn địch, tiêu sáo, đánh trống, thổi kèn thì không những họ không lo làm ăn theo người, mà trái lại họ đem những câu hát tình tứ, gợi cho những người khác thương vay, khóc mướn, làm cho người khác, do những tiếng tiêu, tiếng đàn đómà làm cho người ta khổ đau. Cho nên vừa làm mình thổn thức trong lòng của mình, vừa tạo cho người ta thổn thức trong lòng của người ta. Do vậy, khi người cư sĩ đến với Đạo Phật thì Đức Phật muốn khuyên họ không nên làm những điều đó là vì khi mình nghe âm nhạc, khi mình nghe tiếng đàn, tiếng ca làm cho tâm hồn mình dào dạt, làm cho tâm hồn mình bất an, không được giải thoát, chứ không phải là có ý nghĩa xướng ca vô loài, như ngày xưa người ta áp đặt cho người ưa ca hát là không đàng hoàng, nay cặp người này, mai lấy người khác. Nó không đúng. Ở đây, Đạo Phật không hiểu như vậy mà cho rằng tiếng hát, tiếng ca, tiếng đàn, tiếng trống … làm cho tâm hồn chúng ta lúc vui, lúc buồn, không giữ cho tâm hồn chúng ta được thanh thản, được giải thoát, làm cho chúng ta say mê mà quên đi những công việc làm để sống lương thiện chứ không phải vô lương thiện.

Ở đây Phật dạy nhằm mục đích tránh những điều người cư sĩ làm cho tâm dao động và đau khổ, cũng như tránh cho người khác, cho nên người cư sĩ không nên say mê kỹ nhạc màhãy giữ tâm của mình luôn luôn được thanh thản, được an ổn thì tốt nhất.

Trong thế gian chắc chắn ai cũng mê thích ca nhạc, khiêu vũ và tiêu sáo, đàn địch vì họ cho đó là một môn giải trí, nhưng theo Thầy thiết nghĩ một bài nhạc làm cho người nghe xúc động, làm cho người nghe khích động, khiến họ có thể chết mà không từ nan. Vì những lời ca tiếng nhạc làm cho tâm hồn người nghe có thể bất an theo điệu nhạc, theo lời ca, theo văn thơ. Cho nên Phật muốn cuộc sống của người cư sĩ cũng như người tu sĩ luôn luôn phải bình thản, phải vững vàng, phải bất động, thì đómới là một cuộc sống được an vui, còn lúc thì thương vay khóc mướn qua tiếng ca, tiếng nhạc như vậy là nó giả dối, nó không thật.

Người nào mải mê kỹ nhạc thì sản nghiệp, nhà cửa của họ ngày một sa sút. Thật sự ngày xưa người ta cho như vậy; nhưng nay thì không còn đúng, những người chuyên môn ca nhạc, khiêu vũ đàn địch tiêu sáo ngày nay họ lấy đó làm cái nghề sống thì họ khá giả, hay có những người giàu có chứ không phải như sự xác định nói rằng nhà cửa họ suy sụp. Ởđây, theo Thầy thiết nghĩ không phải sợ sạt nghiệp, của cải sa sút, suy mòn mà chỉ ngại cho tâm chúng ta thương vay khóc mướn theo giọng ca, tiếng hát mà thôi, làm cho tâm người cư sĩ bất an. Và cũng từ đó mà tâm hồn người cư sĩ luôn luôn dễ dao động, không được tự chủ.

e. Kết bạn với người ác

Kết bạn với người ác có 6 lỗi:

1. Dễ sanh khinh lờn.
2. Ưa chỗ thầm kính
3. Dụ người nhà khác.
4. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người
5. Mưu đồ tài lợi về mình
6. Ưa phanh phui lỗi người

Kết bạn với người ác thì tâm của người cư sĩ sẽ có 6 điều dễ sanh ra:

a. Kết bạn với người ác thì khi họ làm những điều ác, tâmngười cư sĩ sanh theo những điều ác đó, rồi cái tâm của mình sẽ coi thường những điều ác, sanh ra sự khinh lờn, không có sợ hãi điều ác do đóngười cư sĩ làm những điều tội lỗi mà không sợ.

b. c. Ưa chỗ thầm kín nghĩa là chơi với người ác thì hay làm cái chuyện thầm kín, thầm lén, bằng cách này bằng cách khác để làm lợi cho mình; hoặc là dụ người khác làm điều này điều kia, như dụ người khác ăn trộm, dụ người khác làm chuyện tà hạnh, đó là dụ dỗ người khác; hoặc là dụ người khác đi ăn cướp, đi giết người; hoặc dụ người khác làm những chuyện sát sanh, giết con vật này hoặc con vật khác.

d. Mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người, nghĩa là chơi với người ác thì luôn luôn lúc nào cũng nghĩ mưu cách này, mưu cách kia để lấy của cải tài sản của người khác.

e. Mưu đồ tài lợi về mình nghĩa là luôn luôn mưu đồ cái gì đem về cái lợi cho mình, hoặc là tiền bạc hoặc là danh dự đều là có thủ đoạn, mưu cách để đem lại cho mình những cái lợi, cái danh đó. Cho nên chơi với người khác thì đủ mọi cách họ có thể tìm cái gì có lợi cho họ mà thôi. Ai khác bị hại, họ cũng chẳng cần, hoặc hại người khác bị tù tội mà họ đạt được của cải tài sản họ cũng vẫn làm. Khi chơi với người ác, chắc chắn chúng ta làm theo những người đó.

f. Ưa phanh phui lổi người, khi người cư sĩ chơi với người ác thì họ hay đem những cái xấu của người khác nói để làm cho những người đó khổ đau. Chỉ người ác mới hay có tánh tình xấu này. Cho nên nếu người cư sĩ kết bạn với họ sẽ học những cái xấu này.

Khi đức Phật đã dạy, nếu chúng ta thấy bản thân chúng ta có những điều xấu nào thì hãy bỏ điều xấu đó đi: như đừng nói lổi của kẻ khác, đừng phanh phui cái xấu của ai cho người khác biết. Khi làm vậy thì chúng ta không phải là người ác, bằng ngược lại thì chúng ta là những người ác. Chúng ta không mưu đồ làm lợi cho mình mà làm hại người khác thì chúng ta không phải người ác, ngược lại chúng ta mưu đồ làm lợi mình về tiền bạc, danh tiếng mà làm hại người khác thì chúng ta là người ác.

Dụ người làm điều sai trái, làm điều ác thì chính mình là người ác.

Đưa người vào chỗ thầm kín để bàn chuyện này chuyện kia, hoặc nói lén nhau điều này điều kia thì đó là những người ác. Cho nên chúng ta phải đường đường nói chuyện ở nơi chánh đáng, như nhà khách…, để nói chuyện.

Cho nên kết bạn với những người ác thì có 6 điều ác; người hay khinh chê người, coi rẻ người là người ác vì khi kết bạn với những người này thì tâm chúng ta cũng sẽ bắt chước theo. Bây giờ dù ai có thua mình trong mọi phương diện mà cy không coi tthương, không khinh chê họ thì chúng ta là người không ác.

Trong sáu điều này, nếu chúng ta có chỉ một điều thì chúng ta là người ác. Cho nên khi chúng ta biết như vậy thì hãy cố tránh những điều đó. Đây là lời đức Phật dạy mà Thầy ghi chép lại giảng cho cư sĩ cũng như nhắc nhở người tu sĩ về những hành động ác dễ lạc lầm do không biết, nhưng khi đã biết thì đừng lạc lầm hành động như vậy để trở thành người ác.

f.- Lười biếng

Lười biếng có 6 lổi:

a. Khi giàu, không chịu làm việc, chỉ dong ruổi đi chơi nên dễ trở thành người phóng đảng, kết bạn bè với người ác, rồi rượu chè bài bạc. Từ chỗ lười biếng sanh ra bất thiện. không tốt. Cho nên dù giàu có vẫn làm việc, đừng ỷ y giàu có tiền bạc mà không làm là sai.

b. Khi nghèo không chịu làm việc.
c. Khi trời lạnh, không chịu làm việc.
d. Khi trời nóng, không chịu làm việc.
e. Sáng sớm không chịu làm việc.
f. Chiều tối, không chịu làm việc.

Như vậy có 6 cách để chúng ta nhận ra đây là người lười biếng, do vậy chúng ta không nên thân cận giao thiệp với những người lười biếng.

Như vậy chúng ta đã học phần người cư sĩ cần học những gì cần phải học. Vậy chúng ta giữ gìn những gì đã học để lợi ích cho bản thân và xã hội.

II.- BỐN LOẠI OAN GIA CẦN TRÁNH

Đức Phật chỉ cho người cư sĩ đệ tử Phật biết để tránh bốn loại oan gia có thể đem lại cho cuộc đời chúng ta có những cái rất khổ đau. Đó là:

a. Hạng quý phục
b. Hạng mỹ ngôn
c. Hạnh kính thuận
d. Hạng ác ngữ

Bốn hạng người này là bốn hạng oan gia trong cuộc đời chúng ta cho nên chúng ta cần tránh. Thật sự đức Phật đã dạy cho người cư sĩ rất đầy đủ, từng cái rất nhỏ trong cuộc sống để người cư sĩ chúng ta biết để sống, để giữ mình cho cuộc sống người cư sĩ được hạnh phúc an vui. Chúng ta thấy đức Phật rất thông minh và sáng suốt, nhận ra từng chút dạy cho người cư sĩ và chúng ta cũng nhận ra chúng ta có phước rất lớn khi được nghe, được học những cái này; sinh ra được làm người rất khó mà chúng ta được nghe Phật pháp dạy cho chúng ta từng điểm nhỏ trong cuộc sống như thế này thật là thấm thía; thật là hy hữu cho chúng ta là người đệ tử của đức Phật như ngày hôm nay. (6A 10:30). Đức Phật dạy chúng ta tránh 4 hạng oan gia vì nx người này sẽ đem đến nx cai ko hay cho cuộc sống cr chúng ta.

a. Hạng quý phục có bốn hạng

1. Kiểt cho: Cho rồi sau tìm cách lấy lại.

2. Cho ít mong trả nhiều. Thí dụ họ đem cho mình vật gì với thâm ý biết mình là người sẽ cho trở lại họ nhiều vật hơn hay vật có giá trị cao hơn.

3. Vì sợ nên làm thân. Thật tâm thì họ không muốn làm thân, mà chỉ vì sợ mình thôi.

4. Vì lợi nên làm thân. Thật tâm làm thân mình để họ có lợi lộc gì đó, như lợi dung mình về tiền bạc hay của cải tài sản, hoặc mong được mình giúp họ gì đó, cho nên họ tỏ vẻ phục mình, tỏ vẻ thân mình, chứ thật sự thì không muốn.

Đức Phật dạy ta nên tránh hạng người này. Quý có nghĩa là sợ. Phục là phục theo mình. Quý phục là sợ mình trong vai trò của mình trong xã hội có thể hại họ nên họ tỏ vẻ thân thiện, tán trợ theo. Vì Phật biết nên dạy ta tránh xa 4 hạng người này trong khi chọn bạn, ta ko chơi với 4 hạng người trên. Cho nên sau một thời gian giao thiệp với họ thì ta nên chọn ai là người để ta thân cận giao thiệp chân tình.

b. Hạng mỹ ngôn là hạng nói ngon ngọt, có bốn loại người nên tránh, ko nên chơi thân:

1 Lành dữ đều chìu theo, khi ta làm tốt hay ko tốt đều nói theo ta. Thí dụ trong khi ta làm thiện bố thí, họ khen ta tốt; khi ta làm khổ người khác, họ cũng khen ta tốt, ta đúng. Ta không nên thân cận với hạng người này.

2. Ta gặp nạn thì lánh xa. Họ xem như không quen, không thân với mình vì họ sợ vạ lây. Ta không nên thân cận với hạng người này.

3. Ta có điều lành thì âm thầm ngăn chặn. Thí dụ có ai khen tặng ta điều gì thì họ đặt điều xấu về ta, nói ngược lại ngay cho người đó nghe, để người này không khen tặng ta.

4. Khi ta lâm nguy thì bài xích, đả đảo ta.

Trong vai trò hiện nay ta là người cư sĩ thì phải có bạn bè, nên đức Phật dạy cho ncs nên chọn bạn tốt để thân cận giao thiệp. Đó là bốn hạng người sẽ làm cho ta bị đau khổ, ko dc an vui.

c. Hạnh kính thuận có bốn: Kiết dối trá, sai dối trá, hiện tại dối trá, thấy có chút lổi đã vội tránh xa.

Nghĩa là người dối trá thì trước mặt ta dối trá, sau lưng ta thì đặt điều nói xấu không đúng sự thật của ta. Hiện tại nói láo, trước sau đều nói láo. Khi biết họ không thật thì ta không nên thân cận giao thiệp với họ vì họ có thể đặt điều vu oan giá họa cho ta. Thí dụ họ thấy ta giao thiệp với ai. Họ suy diễn theo ý nghĩ xấu của họ để vu cáo ta về sự kiện đó. Hoặc ta là tu sĩ cần tránh xa phụ nữ, nhưng vì công việc gì cần tiết nên phải giao tiếp, nếu là bạn tốt của ta thì sẽ nói riêng với ta rằng "Anh nên giữ tâm vững vàng khi cần giao thiệp với người khác phái"; còn người xấu kia thì ghim sự việc đó trong lòng rồi đem nói cho người khác theo ý mình nghĩ để làm xấu tu sĩ đó. Do đó Đức Phật nói nếu ta gặp hạng kính thuận như thế thì hãy nên tránh xa, không chơi thân vì họ là những người xấu. Những hạng người đó có thể làm mọi người mất niềm tin của họ đối với ta, làm mọi người khi chê ta, rẻ rúng ta. Những người kính thuận đó nên tránh xa.

d. Hạng ác hữu có bốn.

a. Người uống rượu không phải là bạn, nghĩa là những người cùng nhau uống rượu thì họ không phải là bạn tốt của ta; hoặc là mời mình uống rượu chung với họ thì những ngườii này là ác hữu.

b. Người đánh bạc không phải là bạn, khi thấy họ đánh bạc thì tránh xa vì ta có thể bị họ cám dổ trở thành người đánh bạc.

c. Dâm dục ko phải là bạn, nghĩa là người ham mê dâm dục, người thường hay đi vào nơi lầu xanh gái điếm thì không nên thân cận giao thiệp với họ vì họ có ngày sẽ lôi cuốn ta vào nơi bất tịnh hạnh đó.

d. Không nên làm bạn với người ca hát vũ múa vì lâu ngày có thể họ quyến rủ ta bằng lời ca bằng điệu vũ rồi ta cũng trở thành ca múa như họ, cho nên Phật khuyên ta đừng chơi với họ để ta không trở thành người thương vay khóc mướn làm tâm hồn ta bất an.

Những lời Phật dạy trên, chúng ta thấy rất thấm thía. Nếu là người cư sĩ hay tu sĩ nên tránh bốn hạng oan gia này để cho cuộc sống chúng ta thanh thản tiến bước trên con đường đạo để ngày nào đó chúng ta làm chủ rốt ráo thực hiện cuộc sống dc giải thoát, chấm dứt sanh tử luân hồi. Đó là điều mong ước của mỗi người hướng đến đạo Phật, cái mục tiêu để ta nhắm đi đến, cho nên trước tiên ct phải tránh 4 hạng bạn mà dp đã nêu ra rất rõ ràng. Bốn hạng oan gia đó lại có đến 16 hạng người mà chúng ta phải cố tránh xa để chúng ta khỏi tạo nên những ác nghiệp khiến ta mãi mãi trôi lăn trong sáu nẽo luân hồi, không thể thoát được.

Đức Phật có ghi lại một bài kệ:

Quý phục, gượng làm thân.
Hạng mỹ ngôn cũng vậy,
Kính thuận thì dối trá
Bạn ác thì gian ác
Người cứ thường biết rõ
Chỉ luận việc hơn thua
Gần ác không cần nghĩa
Nên mau xa lánh họ
Như tránh con đường hiểm.

***

Đang có 46 khách và không thành viên đang online

Lượt xem
451
Các bài viết
1441
Số lần xem các bài viết
9252900