
Sơ Lượt Giáo Án Tu Đạo Phật
COM_CONTENT_ARTICLE_HITS
Bây giờ bắt đầu chúng ta sẽ học, nhưng trước khi học giáo án này, chúng ta niệm hồng danh đức Phật, bởi vì đây là con đường đức Phật vạch cho chúng ta đi. Vậy xin quý thầy chắp tay lên đồng niệm:
“NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT” (3 lần)
SƠ LƯỢT GIÁO ÁN TU ĐẠO PHẬT
I.- GIAI ĐOẠN CƯ SĨ ĐẠO PHẬT
1. DUYÊN PHẬT PHÁP
Một người có đủ duyên được đọc kinh sách của đạo Phật thấy được chân lý của đạo rất thực tế và cụ thể, hướng dẫn con người tu tập thoát khỏi kiếp sống trầm luân khổ đau bằng sức tự lực của chính mình, nhứt là làm chủ được sự SỐNG - CHẾT theo ý muốn và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi. Vì thế khi bắt đầu đến với đạo Phật, để trở thành người đệ tử của Phật chân chính quý vị phải từ bỏ 6 nghề nghiệp sanh sống.
Bây giờ Thầy sẽ giảng đoạn này cho quý thầy thấy rằng: Khi một người chưa biết Phật pháp gì hết, bổng một hôm có một duyên nào đó vị này được đọc một cuốn kinh Phật, như Thầy thường nghe các Phật tử có nói: “Con từ hồi nào tới giờ chẳng biết Phật pháp gì hết, một hôm con được người bạn trao cho cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Rồi con đọc cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm, con thấy Đạo Phật sao mà hay quá tuyệt, cho nên từ đó con hướng tâm đến đạo Phật. Rồi con được đi nghe thuyết giảng hoặc là mua thêm những loại kinh sách cần thiết, con tham cứu và nghiên cứu, từ đó con rất thích thú đạo Phật”.
Đó là những người có duyên may được đọc một cuốn kinh như kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, như toàn bộ giáo lý A Hàm hoặc là kinh Nikaya. Tất cả những người có duyên được đọc kinh sách của Phật thì người ta có cái tâm hướng đến đạo Phật. Nếu những người chưa có duyên được đọc kinh sách đạo Phật thì họ chưa hiểu đạo Phật như thế nào, vì vậy mà mở đầu sơ lược của giáo án này Thầy đã ghi nhận khi có đủ duyên thì chúng ta mới đến được đạo Phật, mà không có đủ duyên thì chúng ta không có đọc kinh sách Phật. Cho nên chúng ta không có biết đạo Phật như thế nào.
Vì thế, khi có đọc kinh sách Phật, thì thứ nhất muốn đi vào con đường chân chánh của đạo Phật thì người ta phải nghĩ đến đời người khổ và làm sao thoát khỏi cảnh khổ đó, nghĩa là thoát khỏi cảnh khổ của con người phải bằng sức tự lực của mình chứ không bằng tha lực của người khác.
Cho nên nhiều khi chúng ta đọc những kinh sách, chúng ta thấy phải nhờ cậy đến tha lực để hộ trợ cho chúng ta đitrên con đường đến được sự giải thoát. Nhưng trái lại, khi nghiên cứu đọc nhiều kinh sách của Phật thì chúng ta thấy hầu hết đạo Phật là đạo tự lực cứu mình chứ không phải là đạo tha lực. Chỉ có một số nhỏ các bản kinh nói về tha lực thôi. Nhưng chúng ta không nói đến các bản kinh đó. Bởi vì tha lực chỉ trợ giúp cho người mới tu, còn người tu lâu thì phải tự lực. Kinh sách tha lực chỉ có rất ít so với kinh sách tự lực.
2. ĐỔI NGHỀ NGHIỆP
Vì vậy khi chúng ta đến với đạo Phật, thì đức Phật dạy đầu tiên chúng ta phải từ bỏ 6 nghề nghiệp ácmà chúng ta đang sinh sống, nghĩa là chúng ta bỏ, đổi nghề khác, không nên làm 6 cái nghề ác này. Vậy 6 cái nghề ác này là nghề gì mà đức Phật nói khi chúng ta đến với đạo Phật thì không nên hành 6 nghề này. Có bản kinh đức Phật chỉ nói có 5 nghề không nên làm. Nhưng Thầy thấy 6 nghề này mới đủ. Có chỗ thì đức Phật nói có nghề bán thuốc độc, thì không nên bán thuốc độc, nhưng Thầy nghĩ những người tu theo đạo Phật thì chắc chắn không ai bán thuốc độc. Cho nên Thầy chọn lấy 6 cái nghề nó phù hợp với cái tâm Từ Bi của đạo Phật. Sáu nghề đó Thầy sẽ đọc cho quý vị nghe:
A. Không làm nghề săn bắn
Nghĩa là người nào muốn đến với đạo Phật thì không được làm nghề săn bắn thú vật hoang dã, nhưđi vào rừng săn bắn nai, hươu, khỉ hoặc chồn, cheo, chim chóc,… nghĩa là khi theo đạo Phật thì không làm nghề săn bắn thú vật và chim muông.
B. Không làm nghề chài lưới
Tức là không được làm nghề bắt cá tôm, dù là đi câu, dù là đặt rọ hoặc là chài lưới ở sông ở biển. Người nào đang nghề đó thì phải đổi nghề khác, không được làm nghề đó nữa.
C. Không làm nghề buôn thịt sống
Trong các kinh đức Phật nói có 5 nghềkhông được làm thì chỉ nói không được buôn bán thịt chứ không nói thịt sống. Nhưng có chỗ khác, khi thì nói thịt sống, khi thì nói thịt chín. Theo Thầy nghĩ đức Phật nói nghề không bán thịt thì trong ấy có không bán thịt sống và không bán thịt chín. Còn ở đây muốn phân biệt cho rõ ràng thì chúng ta phân thành không bán thịt sống và không bán thịt chín, vì bán thịt sống khác với bán thịt chín khác, bởi vì thịt chín họ nấu thành thực phẩm mà thịt sống thì còn để nguyên. Cho nên một người khi đến với đạo Phật thì phải đổi nghề buôn bán thịt sống này.
D. Không làm nghề buôn thịt chín
Không được làm nghề buôn bán thịt chín, tức là nấu thành phở, cháo lòng, hủ tíu ... Đó là buôn bán thịt chín.
Trong giáo án, Thầy có ghi chú thêm để cho chúng ta thấy rõ về chỗ bán thịt chín. Đức Phật dạy trong bài kinh Jivaka, Thầy thấy rất là sâu sắc khi đức Phật nói như vầy: khi thọ dụng thực phẩm phải không thấy, không nghe, không nghi. Đức Phật nói khi một tu sĩ ăn thì chẳng những phải không thấy, không nghe, và không nghi có thịt động vật trong thức ăn đó mà tâm còn phải dùng lòng từ bi biến mãn khắp mười phương đối với tất cả chúng sanh. Nghĩa là lúc ăn một thực phẩm nào đó thì tâm của chúng ta phải có sự thương yêu đối với chúng sanh khắp cùng trong mười phương. Quý thầy nghĩ khi chúng ta ăn một miếng ăn mà nếu có sự đau khổ trong đó thì có từ bi ở đâu mà biến mãn khắp mười phương được? Cho nên ý này rất là tuyệt vời ở trong ăn chay mà trên cái sự ăn chay nữa. Ăn chay, ăn trong miếng ăn của chúng ta phải có tâm từ bi.Vậy thì trong thực phẩm của chúng ta ăn, không có thịt động vật trong đó, nó toàn là hoa quả, trái cây hoặc là những món ăn mà không có sự đau khổ trong đó. Nhưng chúng ta vẫn phải biến mãn tâm từ bi của chúng ta đối với những người làm ra thực phẩm đó, chứ không riêng gì thực phẩm động vật. Đó, hôm nay Thầy giải thích chỗ này chúng ta mới thấy ý nghĩ của đạo Phật rất là tuyệt vời khi chúng ta ăn miếng ăn là chúng ta đã nghĩ đến công lao của người đàn na thí chủ trước tiên, mặc dù món ăn đó là món ăn chay, không có sự giết hại chúng sanh.
Còn món ăn đó mà có sự giết hại chúng sanh thì nó nằm ở trong 3 điều kiện mà Phật đã đặt: không thấy, không nghe và không nghi.
E. Không làm nghề buôn bán rượu
Không được làm nghề buôn bán rượu vì bán rượu làm cho người ta nghiện ngập, say sưa, rồi người ta không còn trí thông minh, cho nên họ có thể chửi mắng hàng xóm, làng xóm hoặc là chửi vợ, mắng con hoặc là lâm cảnh bịnh tật, say sưa nằm ngoài đường, ngủ sương, ngủ tuyết. Do đó mà đức Phật cấm không cho làm nghề bán rượu, vì mình bán rượu là đem đến cái chỗ say sưa cho người khác.
F. Không làm nghề buôn bán người
Tức là mãi nô, bán nô lệ. Trong thời đức Phật chắc chắn cái nghề này có chứ không phải không, cho nên đức Phật cấm không cho làm nghề bán nô lệ. Nhưng chúng ta thấy nghề buôn bán người có nhiều mặt, thí dụ như ta thấy những người bán thân để sinh sống, cũng là bán người. Tất cả những nghề nghiệp đó, theo Thầy nghĩ khi đến với đạo Phật thì phải thanh tịnh thân tâm của mình, cho nên không nên làm những nghề buôn bán thân người như vậy, nghĩa là bán nô lệ và làm mãi dâm thì không nên làm những nghề đó nữa. Cho nên tất cả những ai đang làm nghề đó phải đổi qua những nghề khác mà làm, vì nó thanh tịnh, trong sạch hơn.
Cho nên bắt đầu đi vào trong con đường của đạo Phật thì chúng ta thấy không được làm cái 6 nghề. Chúng ta thấy quả là muốn đến với đạo Phật là chúng ta phải từ giã những nghề bị gọi là không phải CHÁNH NGHIỆP, nó thuộc về tà nghiệp, có sự đau khổ ở trong đó, nghĩa là có sự chết chóc, có sự giết hại.
Quý thầy thấy theo Giới luật của Phật thì giới thứ nhất là không sát sanh, không giết hại chúng sanh, không vui theo với người giết hại. Cho nên ở đây chúng ta phải thực hiện tâm từ bi mà đức Phật đã ghi nhận ở trong chỗ này. Vì vậy, khi muốn đến với đạo Phật thì chúng ta phải thực hiện lòng từ bi của mình, tức là từ giã không làm 6 cái nghề mà Thầy đã kể ở trên. Đây là giai đoạn thứ nhất của đường tu tập,nghĩa là người muốn tu tập theo đạo Phật, muốn hướng đến đạo Phật thì phải từ giã 6 nghề đó, không còn hành 6 cái nghề đó nữa, phải đổi 6 nghề đó.
Như vậy là chúng ta phải sự suy tư rất kỹ, vì nhiều khi chúng ta không thấy rằng trong cái nghề đó có tạo nên sự đau khổ. Khi chúng ta làm cái nghề đó để nuôi thân của chúng ta, mà theo Bát Chánh Đạo, chúng ta đã nuôi thân mạng của chúng ta bằng những sự đau khổ, mặc dù chúng ta ăn chay, chúng ta không ăn thịt chúng sanh, ăn thịt động vật, nhưng chúng ta làm cái nghề không tốt đó, chúng ta vẫn nuôi thân mạng của mình chưa phải là chân chánh, không phải là chánh mạng đâu.
Giả như bây giờ chúng ta làm nghề ăn trộm, lấy của của người ta, rồi chúng ta bán đồ ăn trộm đó đi để lấy tiền mua gạo, mua thóc, mua thực phẩm cho chúng ta sống. Chúng ta lấy tiền từ chỗ tham lam trộm cắp đó để mua thực phẩm nuôi thân mình, thì như vậy mình có nuôi thân chánh mạng không? Đó là nuôi sống tà mạng chứ không phải chánh mạng. Vì thế, khi đến với đạo Phật, chúng ta phải nuôi thân mình bằng những nghề chơn chính, bằng những hành động chơn chính chứ không phải bằng hành động không chơn chính được.
Đó là giai đoạn thứ nhấtcủa người cư sĩ muốn đến với đạo Phật, bước đường thứ nhất tu tập theo đạo Phật, chưa phải là giai đoạn của người xuất gia. Muốn hiểu sự tự lực cứu mình theo đạo Phật thì phải như Thầy đã nói ở trên, nghĩa là chúng ta phải chuyển những nghề nghiệp cho lương thiện, nuôi sống thân mạng bằng nghề chơn chánh, bằng Chánh nghiệp chứ không phải bằng tà nghiệp. Nghề nghiệp nào trong đó có sự đau khổ, sự chết chóc thì đạo Phật không chấp nhận cho những người hành nghề đó trở thành những người đệ tử của mình. Mặc dù đức Phật không nói ra điều này nhưng những người còn hành những nghề đó mà không chịu thực hiện thay nghề khác cho lương thiện, thì dù họ nói họ theo con đường đức Phật dạy, dù họ có tu tập đạt được mức thiền định nào đi nữa, những người này vẫn chỉ là tu theo đường lối thiền của ngoại đạo, của tà đạo, của tôn giáo ngoại đạo chứ không phải là chân chính đường lối thiền của đạo Phật. Vì cái cơ bản lúc đầu là phải thực hiện lòng từ bi khi theo đạo Phật, nhưng trong chiếc áo của người cư sĩ, phải hành nghề để sống, thế mà hành 6 nghề không lương thiện này, không lương thiện ở đây có nghĩa là hành nghề giết hại làm đau khổ chúng sanh, đem đến những tai họa cho chúng sanh. Ví dụ như nghề bán rượu, là nghề có thể đem lại tai họa, đem sự đau khổ cho người khác, vì khi một người trong cơn say rượu, không có một cái gì mà họ không làm. Cho nên không được làm cái nghề bán chất say này. Chúng ta thấy người theo đạo Phật thì không nên làm cả 6 nghề này. Đó là giai đoạn thứ nhất khi chúng ta muốn bước chân vào đạo.
Cũng như bây giờ chúng ta đang làm nghề chài lưới, mà chúng ta thấy rằng muốn hướng mình đến con đường của đạo Phật thì phải thay đổi nghề bắt cá này đi; thí dụ chúng ta đổi cái nghề bắt cá đó ra nghề thợ mộc, được không? Được. Còn thí dụ một người đang buôn bán thịt, bây giờ đổi nghề buôn bán thịt đó qua nghề buôn bán hoa quả được không, hay qua buôn bán hàng vải cũng được, đâu có sao. Đức Phật đâu có cấm họ làm nghề để họ sống, nhưng cái nghề họ làm phải là nghề không có sự đau khổ, không tạo nên những sự đau khổ cho chúng sanh. Nghề nào có sự đau khổ cho chúng sanh mà mình làm tức là tạo nên cái nghiệp ác cho mình, do đó phải thọ lấy những sự đau khổcủa nghề đó. Cho nên khi đổi nghề là tránh gây đau khổ cho chúng sanh mà cũng vừa tránh tạo sự đau khổ cho chính bản thân của mình. Vì vậy phương pháp tu tập đầu tiên tức là đổi nghề. Các thầy có thấy cái chuyện đó dễ làm không? Đâu có khó làm, mình thấy cái nghề nghiệp đó không làm được thì mình chuyển sang nghề khác, chuyện ấy quá dễ, đâu có gì khó khăn.
Cho nên đạo Phật thực tế và cụ thể, chứ không phải chúng ta vô chùa tụng kinh, niệm Phật, rồi hằng ngày ngồi thiền, niệm chú. Cái đó có phải là tu đâu. Chính chúng ta đổi nghề là chúng ta đã tu rồi đó. Hành động đổi nghề là hành động tu.
Cũng như mấy ngày hôm nay quý thầy thấy khi đến giờ ăn, chúng ta tuần tự mỗi người đều đến cái xô cơm để khất thực từng bát cơm. Trong thời gian chờ đợi đến lượt mình, có thể 30 phút hoặc 1 giờ, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta tu hành hạnh nhẫn nhục. Nếu ở ngoài đời, một người vào mâm cơm là họ lo ăn rồi chứ họ đâu có đứng chờ đợi như vậy được. Còn chúng ta thì vẫn thản nhiên đứng chờ một cách tự tại, chúng ta lần lượt chứ không tranh giành nhau, trong khi chúng ta ăn ngày một bữa. Ngoài đời khi số lượng người đông đảo như vậy thì trước cái ăn, trước cái mặc của họ, họ giành giật, họ chen lấn nhau. Như khi họ lên xe họ cũng vẫn chen lấn nhau bằng cách này, bằng cách khác. Cho nên chúng ta tập hạnh nhẫn nhục trong những điều kiện như vậy đó. Đó là chúng ta đã tu theo đạo Phật rồi. Qua những hành động mà chúng ta tu tập ở đây, chúng ta thấy rất rõ trước giờ ăn chúng ta không có gì vội vàng, như vậy, vừa tập được hạnh nhẫn nhục, vừa tập được sự tuần tự. Còn không tu tập như vậy, tâm của chúng ta lúc nào cũng có sự vội vàng. Ra bến xe, chúng ta thấy khi xe đến thì người ta ào ào giành nhau lên xe. Không lẽ cái xe đó bỏ chúng ta sao mà chúng ta lật đật vậy? Hãy tuần tự mà lên xe chứ, nó rước chúng ta thì nó lấy tiền chứ phải đâu nó cho không, thế tại sao chúng ta lại lật đậtchen lấn nhau lên trước. Như vậy là chúng ta chưa có cái kiên nhẫn của một người tu tập. Cho nên ở đây chúng ta tập luyện như vậy gọi là tập luyện trước trong bước đường tu tập để làm cho chúng ta có tánh kiên nhẫn.
Trong giáo này, bước đường tu tập đầu tiên, việc làm đầu tiên, bài học đầu tiên để tu tập là chúng ta thay đổi nghề nghiệp, làm cho nghề nghiệp được trong sạch, thanh tịnh, không có đau khổ, không có chết chóc ở trong đó.
3.LÒNG TIN
Để qua giai đoạn thứ 2, sau khi đã thay đổi nghề nghiệp ác bằng nghề nghiệp thiện, chúng ta phải đặt trọn niềm tin ở đức Phật, ở Pháp của đức Phật, ở chư Thánh Tăng đệ tử của đức Phật và ở Giới luật của đức Phật. Nghĩa là đến giai đoạn thứ 2 này, chúng ta có lòng tin đạo Phật, không tin Phật thì làm sao mà chúng ta thay đổi nghề nghiệp - do chúng ta đã có tin, nhưng niềm tin đó chưa sâu. Vì vậy chúng ta phải tin ở Phật như thế nào, ở Pháp của Phật như thế nào, ở chư Thánh Tăng như thế nào và tin ở Giới luật của Phật như thế nào cho có lòng tin sâu?
Muốn niềm tin đó được bền bỉ và lâu dài thì phải có kết quả giải thoát ở thân tâm mình, phải được thành tựu cụ thể trong mỗi bước tu tập, mỗi pháp môn tu tập. Nghĩa là ngay từ bước đầu tiên khi chúng ta đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy được tâm hồn giải thoát. Có thấy được giải thoát thì chúng ta mới có niềm tin ở Phật, mới có niềm tin ở Pháp của Phật, mới có niềm tin ở các vị đệ tử Phật, mới có niềm tin ở Giới luật của Phật được. Bởi vì khi đổi nghề nghiệp thì bàn tay chúng ta không còn vấy máu nữa, khi đổi nghề nghiệp chúng ta không còn thấy sự lăn lộn đau khổ của chúng sanh nữa, và khi đổi nghề nghiệp thì chúng ta thấy ngay tâm của chúng ta thanh thản và từ đó chúng ta biết thương yêu mọi người hơn, biết thương yêu chúng sanh hơn.
Do chỗ chúng ta thấy được giai đoạn đầu tiên sau khi chúng ta đổi nghề nghiệp, tâm hồn của chúng ta được an lạc, cuộc sống vẫn bình thường, không đến đỗi sa sút và đồng thời còn có thể thấy càng ngày càng phát triển hơn nữa, không phải như còn hồi đi còn chài lưới, đi bắt cá. Khi còn làm nghề chài lưới ở ngoài sông, ngoài biển thì trong gia đình mỗi khi có bão, hay mưa to gió lớn là lo lắng cho người thân của mình đang làm những nghề trên sông trên biển không biết chết nay chết mai. Mỗi lần thấy trời chuyển mưa giông bão thì người trong gia đình người đi biển kể như người thân của mình mất mạng ở dưới biển. Đó là cái nỗi khổ tâm nhất của những người làm nghề giết hại chúng sanh. Do sự đau khổ, do sự lo lắng của người thân của mình đó, cho nên chúng ta xét thấy từ cái ngày đổi nghề gia đình không còn khổ đau nữa.
Người chịu nghiệm xét thì thấy khi đổi nghề họ có những điều may mắn đến nhiều hơn vì đó là thiện pháp. Còn khi còn sống ở trong những nghề ác pháp thì người đó có nhiều sự kiện xấu xảy ra cho gia đình của họ mà họ không để ý. Nhưng khi đến với đạo Phật mà họ thay đổi nghề thì họ thấy có gì thanh thản hơn, có cái gì giải thoát hơn trong đời sống của họ, có khi cả gia đình họ chứ không phải riêng bản thân của họ. Cho nên ngay từ lúc bắt đầu thay đổi nghề nghiệp, người ta vẫn tìm thấy được sự giải thoát ở trong sự thay đổi nghề đó.
Như vậy khi bước vào đạo Phật thì chúng ta thấy có sự giải thoát thật sự chứ không phải chờ 5 năm, 10 năm, 2 chục năm rồi mới thấy được sự giải thoát đó. Cho nên kết quả đó làm cho người ta tin tưởng ở đạo Phật. Nếu không có kết quả đó thì chắc chắn là không bao giờ có ai tin tưởng. Chẳng hạn như quý thầy ngồi thiền, ngồi từ 1 giờ cho đến 2 giờ, cho đến 4, 5 giờ, hết vọng tưởng rồi, mà ngồi trong suốt cả 5 năm 10 năm mong như vậy không thấy tiến tới nữa thì quý thầy có thối tâm không? Quý thầy chỉ tự an ủi chắc có lẽ là mình tu chưa đúng thôi, mình ráng nữa, ráng nữa. Ráng qua 10 năm nhìn lại cũng chưa thấy đến đâu hết. Rồi mình lại ráng nữa, 2 chục năm nhìn lại, sao mỗi lần có ai động đến tâm là dễ tham, sân, si phiền não vậy? Tu hoài mà sao không hết? Ngồi thiền 7, 8 tiếng đồng hồ thì ngồi được, nhưng hơn nữa thì không được, không thể nào ngồi 1 ngày, 2 ngày được. Tại sao vậy? Tâm thì có lúc hết vọng tưởng, có lúc thì không hết vọng tưởng? Tại sao nó lu bù vậy? Cho nên, vì cái không kết quả đó làm cho tâm chúng ta thối chuyển, hoặc là chúng ta tu dậm chân tại chỗ. Nhưng đã lỡ tu mà bây giờ bỏ thì cũng tiếc mà lấy thì không được, tới thì cũng khó mà lui thì cũng khó, làm cho một người tu sĩ lưỡng nan ở trên bước đường tu tập.
Còn đạo Phật đến thì ngay đó có sự giải thoát liền, chiêm nghiệm liền được sự giải thoát. Bước đầu tiên mà chúng ta đã thấy sự tu tập của chúng ta có giải thoát rõ ràng. Nếu một người đổi nghề nghiệp, và sau độ một năm người đó thấy cả gia đình có hạnh phúc, có an vui hơn trong khi người đó còn làm những nghề nghiệp ác. Thầy tin rằng trong luật nhân quả sẽ chứng nghiệm được điều này rất rõ ràng, dù người đó vô tình nhưng luật nhân quả vẫn đem đến phước báu cho những người đó.
Muốn thành tựu được lòng tin, tịnh tín sâu sắc ấy quý vị phải suy nghĩ và so sánh giữa cuộc đời và đạo. Đây, chúng ta phải so sánh giữa cuộc sống của đời và cuộc sống của đạo. Trong đạo có cuộc sống của đạo chứ không phải chúng ta có pháp môn tu không đâu, mà cuộc sống của đạo khác với cuộc sống của đời. Chúng ta đem cuộc sống của quý Thầy, của những bậc tu hành so sánh với cuộc sống đời thử coi, chúng ta để lên trên bàn cân cân thử coi bên nào khổ, bên nào thoát khổ? Có so sánh như vậy chúng ta mới quyết tâm đi vào con đường của đạo, nếu không so sánh mà chúng ta bồng bột, nông nổi vào đạo, coi chừng chúng ta sẽ vấp ngã giữa đường, rồi đạo thì chẳng ra đạo, mà đời thì chẳng ra đời.
Chúng ta đem so sánh, chúng ta thấy như thế nào? Bây giờ chúng ta so sánh đời sống của chúng ta lúc đang còn ở trong gia đình thì thấy như thế nào? Đời sống trong gia đình đầy rẫy những triền phược, đường đời thì đầy những bụi bặm ô trược và biết bao dây mơ rễ má trói buộc, biết bao nhiêu vật chất và duyên sự lôi cuốn, cám dỗ, biết bao những chông gai hố thẳm của ác pháp đang chờ đón. Chúng ta so sánh rồi suy nghiệm có phải vậy không?
Khi mới lớn lên, chưa lập gia đình, chúng ta thấy còn vui chơi ăn học thôi chứ không có lo nghĩ gì hết. Cha mẹ lo làm hằng ngày cho con ăn học chứ mình không có nghĩ phải làm cho có cơm ăn áo mặc gì hết. Áo rách thì ba cho con may áo, còn đói thì mẹ cho con ăn cơm. Cứ vậy thôi chứ chưa biết nghĩ lo gì hết. Ăn với chơi với đi học thôi chứ không biết gì hết. Nhưng đến khi lớn lên một chút thì ham muốn cái này, cái kia, rồi bắt đầu tìm nghề nghiệp làm hoặc là xin tiền cha mẹ sắm cái này cái kia. Nhưng cũng chưa biết khổ đâu. Chỉ khi trong đó có những cái khổ như đi đánh lộn, đánh lạo, rồi uống rượu say sưa với bè bạn hoặc là chạy xe rồi bị xe đụng gãy chân, gãy tay, lúc bấy giờ mới thấy được cái khổ. Nhưng mà cái khổ của tuổi trẻ chưa thật khổ đâu. Cho đến khi lập gia đình, chừng đó mới thấy được cái khổ của nó, rồi sanh ra một vài đứa con mới thấy cái khổ của nó, rồi tất cả những cái lo toan khi mà cha mẹ chết rồi, không còn giúp đỡ cho tiền bạc, hoặc là phải tự mình lo lấy cuộc sống của mình thì bao gánh nặng cuộc sống ở trên vai của mình. Chừng đó, mình mới thấy cuộc đời quá khổ.
Rồi vợ con đâu phải là luôn luôn lúc nào cũng ngọt ngào với mình đâu, nó cũng phải có những cái tư tưởng của nó, nó cũng phải có cái lối sống của nó. Cái lối sống của mình với lối sống của nó đâu phải hợp nhau được, cả hai người có những cái khác biệt nhau. Từ cái khác biệt đó, nên ở trong nhà hay có những sự lục đục, rầy rà hay hoặc là trái ý nhau. Nó làm cho mình chướng ngại đủ mọi điều, chớ đâu có phải sung sướng được. Chẳng hạn bây giờ giữa hai vợ chồng lỡ có một người chết thì thử hỏi rằng có khổ đau không? Khổ đau. Rồi hai người ngồi lại trong một mâm cơm ăn, nói chuyện người ngoài, khác ý nhau sinh ra gây lộn nhau thì thử hỏi trong lúc đó có vui sướng gì không? Đâu có vui sướng gì. Rồi như làm không ra tiền, ra bạc mà ham muốn cái này cái kia thì vợ chồng rầy rà nhau, cãi cọ nhau, người thì này, kẻ thì khác, thì quý thầy nghĩ coi cuộc đời có khổ không? Rất khổ, đủ mọi điều khổ. Thế mà người ta đâu có thấy được cái nỗi khổ đó, người ta chỉ thấy cái lạc của nó mà thôi. Người ta thấy đôi vợ chồng ngồi ở trên xe hơi hoặc là xe honda, người ta thấy như vậy là hạnh phúc. Nhưng trong cái hình dáng đó, cái khổ đau trong tâm lòng của họ đâu ai biết.
Một người nghèo nói tôi không có cơm ăn áo mặc tôi khổ, nhưng người giàu nói tôi có tiền bạc mà tôi còn khổ hơn nữa, tối tôi ngủ không yên sợ trộm sợ cướp. Thì đó là cuộc đời rẫy đầy những sự đau khổ, khổ mọi thứ. Nhà ở gần nhau, con gà con vịt qua lại, con chó con heo qua lại, là đã gây gổ, đã là làm khổ nhau rồi. Rồi con cái chơi giỡn nhau, cũng đủ mọi cách sinh chuyện, làm cho đời sống luôn luôn là bất an.
Đời sống ở ngoài đời quý thầy thấy rất là bất an, không có lúc nào gọi là an ổn. Cho nên có so sánh mới thấy được những sự triền phược, trói buộc đó, những dây mơ rễ má đó. Do sự so sánh này chúng ta mới nhìn lại đời sống của người xuất gia như thế nào? Ở trong giáo án ghi: Ngược lại, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có một vật gì trói buộc, không có một đối tượng vật chất, một hoàn cảnh nào cám dỗ được họ. Bởi vậy, thật khó cho một người sống ở trong gia đình có thể sống theo Phạm Hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc.
Đó là so sánh để chúng ta thấy đời sống của người xuất gia và đời sống của một người ở ngoài thế gian. Hai đời sống này, đời sống xuất gia giải thoát hoàn toàn, không còn một vật dụng gì hết cho nên chúng ta ngủ rất yên, không sợ trộm cắp và cũng không sợ hư hao bởi có gì đâu mà hư hao, nhà không có, gia đình cũng không có, cho nên đâu sợ vợ đói, con đói. Cho nên chúng ta thanh thản, an vui, hoàn toàn hạnh phúc, tâm hồn chúng ta trắng bạch như vỏ ốc, không bị hoen ố một chút gì trong những ác pháp.
II.- GIAI ĐOẠN XUẤT GIA
1.- XUẤT GIA
Đó là so sánh để chúng ta bước vào một giai đoạn tu tập thứ 2. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải tài sản, sự nghiệp, sống không gia đình. Suy nghĩ như vậy sau một thời gian quý vị quyết tâm đoạn dứt. Từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn. Thật hành sự cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa và xuất gia từ bỏ nhà cửa, của cải tài sản sự nghiệp, sống không gia đình. Đây là giai đoạn thứ 2 trên đường tu tập. Nghĩa là sau khi so sánh rồi chúng ta mới thật sự cạo đầu, thật sự đắp áo cà sa, chỉ nhận ba y một bát.
Đây là giai đoạn thứ hai, giai đoạn này nghe thì nó có dễ nhưng nó khó vô cùng. Nếu một người có gia đình như hoàn cảnh của các cư sĩ trước mặt thầy đây, bây giờ các cư sĩ từ bỏ gia đình mà đi xuất gia có dễ không? Các cư sĩ muốn đó, nhưng vợ con các cư sĩ có muốn không, các cư sĩ có bỏ được không. Đó là cái khó. Cái bổn phận của các cư sĩ đã sinh con, con còn nhỏ dại, các cư sĩ bỏ được không? Điều đó quá khó, không phải chuyện dễ đâu. Một người làm được điều này cũng giống như một bầy cá trong một cái lưới, chỉ có con cá nào giỏi mới vọt ra khỏi lưới. Khó mà vọt ra khỏi lưới. Thầy thấy hầu như một trăm một vạn lưới cá của người chài lưới, ít có con cá nào nhảy ra khỏi cái lưới của họ. Cho nên khi các cư sĩ bị những cái lưới của gia đình, của đời sống, của vật chất bao vây rồi, khó có thể nhãy ra được. Trong muôn ngàn con cá bị lưới, may lắm chỉ có một con nhãy ra được mà thôi.
Ở đây Thầy xét chỉ thấy Minh Tông là một người có vợ, có con, tuy con còn nhỏ, còn đi học chứ chưa phải lớn khôn, có mẹ già đang bệnh đau, nhưng Minh Tông rất mạnh dạn trong giai đoạn quyết tâm tu hành, từ đó vượt ra khỏi mạng lưới gia đình để thực hiện con đường giải thoát cứu mình và có thể cứu người. Mạnh dạn quyết định như cư sĩ Minh Tông không phải ai cũng làm được hết.
Ở đây hầu hết các cư sĩ theo Thầy, chẳng qua chỉ để nghe mà thôi, chứ đi tìm sự giải thoát thật sự là phải cạo bỏ râu tóc, xuất gia, đời sống thay đổi hoàn toàn, phải cắt đứt những dây mơ, rễ má tình cảm của mình đối với gia đình thì lúc bấy giờ mới thực hiện được con đường thiền định của đạo Phật, mới làm chủ được sự sống chết, mới tịnh chỉ được các hành trong thân chúng ta, chứ không phải đơn giản.
Các thầy cứ nghĩ xem, các hành đang hoạt động trong thân chúng ta, như tim đập, gan phèo phổi và thần kinh đang hoạt động, hơi thở đang ra vô tự động như thế này, mà chúng ta muốn điều khiển làm sao cho chúng thật sự ngưng được, không phải là một chuyện dễ. Nếu tâm của quý thầy chưa thanh tịnh, còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, còn ham vật chất, không cắt bỏ được đời sống của thế gian thì chắc chắn quý thầy không làm cái chuyện vĩ đại này được. Chắc chắn như vậy, không thể nào khác hơn được. Đó là giáo lý của đức Phật, giáo án đức Phật đã vạch một con đường đi rất rõ ràng cho chúng ta thấy.
Cho nên khi thay đổi nghề nghiệp, chúng ta thấy có sự giải thoát liền. Rồi từ đó chúng ta đi vào con đường thiện, lấy nhân quả làm nòng cốt cho con đường tu tập của người cư sĩ để thực hiện trong các nghề nghiệp thiện nghiệp thanh tịnh, tốt đẹp này. Và từ đó chúng ta tuần tự lập những hạnh bố thí, cúng dường hoặc là tập những hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh thì chắc chắn là trong gia đình của quý vị sống vẫn đem lại hạnh phúc, vẫn an vui. Có hạnh phúc hẳn hòi rõ ràng. Còn tiến tới để xuất gia, chuyển mình qua một cuộc sống mới thì chắc chắn quý vị khó mà đi đến cái giai đoạn thứ 2 này. Đây là giai đoạn để chúng ta trở thành một người tu sĩ chứ không còn là một người cư sĩ. Nếu quý vị không thực hiện được đời sống của một tu sĩ thì chắc chắn con đường thiền định của đạo Phật đã vạch ra cho quý vị đi, quý vị khó mà thực hiện được. Đó là sự xác định thật sự của Thầy.
Cho nên khi quý vị nghe trong giáo án này đức Phật dạy tuần tự: suy nghĩ như vậy, sau một thời gian quý vị mới quyết tâm đoạn dứt. Bắt đầu từ bỏ tài sản nhỏ, nghĩa là lần lượt mình phải sắp xếp mà đức Phật gọi là từ bỏ tài sản nhỏ đó. Rồi lần lượt mới từ bỏ tài sản lớn, nghĩa là lần lượt mình sắp xếp đâu đó này kia nọ cho vén khéo rồi sau đó mới cạo bỏ râu tóc được. Rồi lần lượt mới từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, nghĩa là cắt đứt những tình cảm của chúng ta đối với những bạn bè xa xa, đó gọi là bà con quyến thuộc nhỏ đó. Bà con quyến thuộc nhỏ là anh em, chú bác xa gần trong dòng họ, đó là bà con quyến thuộc nhỏ. Rồi tuần tự cắt đứt tình cảm với những bà con quyến thuộc lớn, tức là những người như cha mẹ, vợ con mà đức Phật gọi là bà con quyến thuộc lớn. Lần lượt cũng phải từ bỏ tuần tự tài sản nhỏ, tài sản lớn. Quý vị phải hiểu tài sản nhỏ là những của cải tiền bạc. Còn tài sản lớn là những cái cuối cùng mà quý vị quét sạch ra, những cái dính mắc nhất cho đời sống của quý vị, đó là cái ăn chứ không phải cái gì khác. Bởi vì chúng ta có tài sản lớn, tài sản nhỏ chỉ là để phục vụ cho cuộc sống của chúng ta mà thôi. Ở đây, tài sản lớn nhất là hàng ngày chúng ta có những bữa ăn ngon lành, có những bữa ăn tốt đẹp đó. Đó là cái mà chúng ta khó bỏ lắm. Cho nên để thành một người tu sĩ thì đối với cái ăn người ta không còn ham thích nữa, cho nên đức Phật gọi đó là bỏ sạch những tài sản lớn tài sản nhỏ. Khi sắp xếp được, khi giải quyết được mọi cái như liệt kê trên thì lúc bấy giờ chúng ta mới đi qua được giai đoạn thứ 2 của giáo án, của phương án tu tập này.
Quý vị thấy trong hiện giờ, nghe Thầy thuyết giảng tới đây quý vị thấy mình có thực hiện được không, quý vị có thực hành được không, nghĩa là quý vị có bỏ được, có cắt đứt được các điều trên không?
Trong thập nhị nhân duyên, đức Phật có giảng nhị duyên trong 12 duyên này cho chúng ta: Sanh đã tận thì phạm hạnh mới xong. Tức là có cái duyên sanh thì mới có cái duyên ưu bi sầu khổ bệnh chết, nếu không có sanh thì sẽ không có ưu bi sầu khổ. Cho nên khi chúng ta đoạn duyên sanh thì ưu bi sầu khổ bệnh chết không có. Trong thập nhị nhân duyên thì 2 cái duyên cuối cùng này, Đức Phật bảongười tu sĩ ngay từ bắt đầu phải đoạn dứt tức là đoạn dứt duyên sanh.
Ở đây chúng ta phải xét cho đúng cái duyên sanh. Sanh ở đây là sanh y. Y là nương tựa. Sanh là sanh sống chứ không phải là sanh đẻ, không phải là đản sanh như người ta giải thích. Người nào giải thích như vậy là không hiểu. Chữ sanh ở đây là sanh y, là nhà cửa, của cải, tài sản, anh em ruột thịt, dòng họ... Cho nên khi người xuất gia đi tu thì sanh đã tận, nghĩa là đoạn tận, đoạn dứt các thứ sanh đó đi thì phạm hạnh, tức là con đường tu của đạo Phật mới đạt được. Nếu chúng ta không đoạn tận, còn thương, còn ghét, còn ngồi đây tu mà nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ cha, nhớ mẹ, ... thì chắc chắn là người đó không bao giờ đi trên con đường của đạo Phật được.
Quý vị có hai bàn tay, mà một bàn tay nắm đời và một bàn tay nắm đạo. Tay nào cũng muốn nắm hết thì quý vị không có thể nào nắm gọn được con đường tu của quý vị đâu. Quý vị phải buông bỏ cái tay nắm đời của quý vị ra, rồi dùng cái tay nắm đời đó ôm chặt đạo thì quý vị mới thực hiện được. Đạo Phật dạy rất rõ ràng, xác định rất rõ ràng: một người còn nắm hai tay hai cái là không thể nào thực hiện con đường của đạo giải thoát, chỉ tu tập trong thiện pháp mà thôi chứ không thể nào đi đến sâu sắc được. Cho nên nhìn chung, chúng ta thấy hầu hết số tu sĩ của chúng ta hiện giờ thực hiện Định Vô lậu, để đi sâu trên đường thiền định của đạo Phật, thì không ai vô lậu được. Và định làm chủthân tâm như định Hiện tại an lạc trú thì chưa ai nhập 1 tháng, 2 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm mà không ăn không uống được. Và cái định làm chủ được sự sống chết, muốn chết hồi nào, muốn sống hồi nào thì chưa có một người nào làm được. Do chỗ chúng ta tu hành mà còn nắm bắt hai tay, đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm. Vì vậy, mà giai đoạn thứ 2 của giáo án này chúng ta thấy đức Phật vạch rất rõ. Chúng ta phải suy nghĩ rất kỹ chớ không phải nói đơn thuần, nói sơ sơ mà thực hiện được.
Nhiều người cư sĩ vẫn ham tu theo Phật, vẫn ngồi thiền, vẫn nỗ lực tu nhưng không dám bỏ vợ con, không dám cắt lìa các tài sản, không dám bỏ một đồng bạc của mình ra nữa; luôn lúc nào cũng lo làm ra tiền ra bạc, thì thử hỏi họ tu tập như vậy sẽ tới chỗ nào, hay là ngồi cho có hình thức tu? Ngày nào, đêm nào cũng thức chong lên mà ngồi thiền. Thiền đó đi về đâu? Tâm thì không rời đồng bạc, không rời vợ, rời con, thì thử hỏi họ ngồi thiền đạt được những gì?
Cho nên trong giáo án, đức Phật vạch ra rất rõ. Đầu tiên là phải rời nghề nghiệp ác đểđi vào con đường thiện pháp, sống cho đúng cái sống của người cư sĩ, chứ chưa phải là người tu sĩ thật sự. Đây chỉ mới là giai đoạn của người cư sĩ thôi. Đến giai đoạn thứ hai, so sánh để chúng ta bước qua giai đoạn thứ 2 này, rất là khó khăn, phải đoạn dứt cho được sanh y, đoạn dứt được thì ưu - bi - sầu - khổ - sanh - tử mới chấm dứt. Bởi vì duyên sanh đoạn thì ưu - bi - sầu - khổ và bệnh - tử mới đoạn. Đó là nhị duyên mà đức Phật vạch ra, chúng ta thấy rất rõ ràng.
Bởi vậy khi nghe giải giảng về giáo án này thì quý thầy tự suy nghĩ cho kỹ xem mình có bắt hai tay hay không? Nếu còn bắt cá hai tay thì hãy chặt cái tay kia đi, đừng có bắt cá nữa, hãy xả tay đời xuống đi. Đã chọn lấy đạo là phải đạo, đừng chọn đời, chết là chết trong đạo, chết là chết trên bồ đoàn chứ không thể chết trong tình cảm của gia đình, của vợ của con. Cho nên, chúng ta thà chết ở trong đạo chứ không thể nào chết ở trong gia đình, chết trong tình cảm của con người. Vậy nên chúng ta phải bỏ hết, dẹp hết mới có thể đi vào con đường của đạo Phật được. Xả hết, từ bỏ, viễn ly, xa lìa tất cả những gì gọi là cuộc sống của thế gian. Chúng ta chấp nhận đời sống chỉ có một cái nghề chơn chính đó là nghề đi xin. Chúng ta không còn làm ra đồng bạc, không có đi ra cày ruộng, không có trồng rau, trồng cải để ăn. Đói thì chúng ta xin, ai cho cái gì chúng ta ăn cái nấy, mà không cho thì chịu đói chứ không bao giờ chúng ta hành cái nghề gì khác.
Quý thầy có nghe nói đức Phật ngày xưa đi ra trồng rau không? Đức Phật đi xin về, rồi ăn thôi, chứ không có bao giờ làm một cái gì hết. Ở trong khu rừng mà không trồng một cây có trái để ăn nữa. Thầy chưa từng nghe đức Phật trồng cây xoài để có trái xoài, Thầy cũng chưa từng nghe đức Phật trồng một cây thơm để có trái thơm ăn. Tất cả đệ tử của đức Phật trong thời đức Phật cũng vậy, Thầy cũng chưa từng nghe khác. Nhưng Thầy có nghe rằng khi đến chỗ nào đó thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất là sạch sẽ để chư tăng đến, và khi chư tăng rời khỏi khu vực đang ở thì ông Xá Lợi Phất dọn dẹp rất sạch sẽ, chỉ để lại một khu rất là vệ sinh sạch sẽ, chứ không có bừa bãi. Thầy chỉ đọc thấy trong kinh nói như vậy, chứ Thầy không thấy trong kinh nói rằng để lại một vườn xoài, hay để lại một vườn rau, để lại một sở ruộng ở đó. Không bao giờ có điều đó.
Cho nên chúng ta tu hành theo đạo Phật, chúng ta phải lấy cái nghề đi xin ăn. Tất cả áo quần chúng ta đang mặc, y áo chúng ta đang mặc, cái nào còn vá được thì chúng ta hãy tiết kiệm vá mà mặc, không được phí bỏ.
Nãy giờ Thầy đã giảng về phần thứ 2, là giai đoạn cắt, đoạn dứt đời sống thế gian, để chuyển qua đời sống xuất gia tu tập. Quý vị hãy suy nghĩ cho kỹ, khi đến với đạo Phật không phải đến với hình thức, như hình thức của bộ áo, hình thức ngày ngồi thiền hay niệm Phật hay tụng kinh. Đến với đạo Phật là đến với thực tế để tìm con đường giải thoát, chớ không phải đến đểcầu an, cũng không phải đi tìm cuộc sống cho nó đầy đủ vật chất hơn nữa. Đến với đạo Phật thì quý vị, quý thầy phải suy nghĩ rất kỹ là chúng ta phải thực hiện làm chủ cho được sự sống chết và chấm dứt sự tái sanh luân hồi. Đó là mục đích của đạo Phật để đem con người thoát khỏi sự đau khổ của chính bản thân họ.
Đến với đạo Phật ở giai đoạn thứ 2 này thì quý vị phải suy tư rất kỹ lưỡng. Đời là mình phải làm sao cho xứng đáng đời, lợi ích cho mọi người, lợi ích cho mình. Mà đạo thì phải hoàn toàn đoạn lìa đời, không được ngồi đây mà còn lo đời. Phật tử chỉ là những cái duyên để mà chúng ta độ họ tu hành mà thôi, chớ đừng biến họ trở thành những sự trói buộc của chúng ta. Nhiều khi làm một vị trụ trì ở một ngôi chùa nào đó, chúng ta không bị gia đình trói buộc mà bị Phật tử trói buộc. Họ cúng dường chúng ta cái này, cái nọ, cái kia, họ muốn sai chúng ta làm cái gì chúng ta cũng phải vâng lời làm hết. Đó là chúng ta đã lìa khỏi cuộc sống Đạo, chúng ta bị đời sai trong cái việc đạo. Cho nên chúng ta phải lìa khỏi những cái sai lệch này để thực hiện cho được sự giải thoát cho chính bản thân của chúng ta. Chúng ta tự cứu chúng ta cho được.
Vả lại, trong giai đoạn 2 này, chúng ta biết cái tâm đời chúng ta còn mang theo ở trong cái tâm đạo chứ chưa phải sạch, do đó cái bản ngã chúng ta vẫn còn. Khi chúng ta mới hiểu được một chút nào đó, chúng ta vội đem ra giảng dạy cho người khác, điều đó là cái tâm đời của chúng ta đó. Cái tâm danh của chúng ta đó. Cho nên quý vị nhớ rằng khi đoạn dứt đời là đoạn dứt cái tâm danh của mình, cái tâm lợi của mình. Do vậy, chúng ta dạy đạo chỉ khi nào chúng ta tu hành thành đạt giải thoát làm chủ thật sự, biết rõ rằng mình đã giải thoát hoàn toàn, tâm không còn lậu hoặc, thiền định làm chủ được sống chết, lúc nào chúng ta muốn, chúng ta tự tại trong lúc đó, bấy giờ chúng ta mới có đủ khả năng đi ra dạy đạo, dạy cho người tu hành. Tuy thế, nhiều khi chúng ta còn nên ẩn bóng, chúng ta còn không muốn dạy ai nữa, vì đâu phải dạy người ta tu hành là dễ. Nếu quý thầy, quý vị vừa học được 5, 3 chữ, hiểu được một vài khía cạnh nho nhỏ vội đem ra dạy đạo, trong khi mình chưa thực hành được gì hết. Mình giảng cho người này hiểu, người kia hiểu, đó là hành động tỏ ra danh của mình, tỏ ra bản ngã của mình chứ chưa phải là sự thực tu, thực chứng giải thoát cho chính mình. Cho nên chúng ta phải hiểu khi bước qua giai đoạn đạo thì coi chừng đời nó xen vào, mượn đạo để cầu danh, cầu lợi ở trong đó. Một số quý thầy đã bị vấp ngã trên giai đoạn này. Chúng ta cứ ngỡ rằng đó là đạo nhưng thật ra đó là đời qua cái danh hiệu đạo chứ không phải đạo.
Đó là giai đoạn thứ 2, quý vị cần phải suy nghĩ và xét cho kỹ rồi từ đó buông hết không còn để ở trong tâm một cái gì dính mắc nữa. Xưa đức Thế Tôn, Ngài từ giã ngai vàng, của báu, vợ đẹp, con xinh đi vào trong rừng núi tu tập, 6 năm khổ hạnh. Quý thầy có thấy Ngài đã cắt đứt toàn bộ không còn một tài sản nhỏ, tài sản lớn nào hết chăng. Còn có nhiều người nghĩ như thế này: Bây giờ mình làm cho có một ít tiền rồi mình để dành, chừng khi tu,mỗi tháng mình cứ bán ra một chỉ (vàng), mình ngồi tu khỏe re. Như ông Phật mà nghĩ như vậy thì chắc chắn không bao giờ ông khổ hạnh hết. Ngày ăn có bảy hạt mè, sống thì rờ da bụng đụng xương sống, rờ xương sống đụng da bụng, tiết thực đến mức độ, khổ hạnh đến mức độ đi không nổi, đứng không nổi, chỉ còn nằm. Tu tập như vậy mới thấy được, mới lìa được những dục lạc của thế gian, bởi vì những dục lạc của thế gian quá đầy đủ, quá nhiều, và thời đại của chúng ta nó còn nhiều vật để mà cám dỗ chúng ta hơn nữa. Ở giai đoạn đoạn trừ cái tâm đời, cái tâm danh, cái tâm lợi của chúng ta. Cho nên chúng ta phải sáng suốt, phải nhận định, phải đoạn dứt. Không phải đoạn dứt cái danh lợi của đời không, mà chúng ta phải đoạn dứt những danh lợi mang cái tên đạo, nhưng nó còn mang tính đời.
Vì vậy, khi quyết tâm tu hành rồi thì hãy sáng suốt suy nghĩ cho rõ. Giả như bây giờ quý vị chết đi thì vợ con quý vị ai sẽ lo đây? Vậy thì tại sao quý vị không bỏ được để đi vào thẳng con đường đạo? Khi quý vị đi thẳng vào con đường đạo thì vợ con phải tự sống như khi quý vị đã chết. Có cắt đứt tình cảm được như vậy thì quý vị mới thực hiện được con đường đạo ở giai đoạn thứ 2. Nếu giai đoạn thứ 2 không thực hiện được như vậy thì quý vị nên về sống lại cuộc sống cư sĩ ở giai đoạn thứ nhất, thực hiện nhân quả, làm đầy đủ bổn phận của một người cư sĩ. Đối với cha mẹ phải hiếu hạnh, vợ chồng phải có sự trung thành với nhau, chớ đừng có làm những điều tồi tệ để gây sự đau khổ cho gia đình. Làm hết bổn phận là phải nuôi con cái lớn khôn, có nghề nghiệp. Như vậy cũng xứng đáng là đệ tử cư sĩ của đạo Phật rồi. Cho nên Thầy chưa nói đến giai đoạn thứ 3, là vì giai đoạn thứ 3 nó còn nhiều cái khó khăn, không phải dễ đâu.
Bây giờ thầy sẽ tiếp tục ở giai đoạn thứ ba. Khi đã quyết tâm cắt ái, xuất gia, cắt ái là đoạn lìa những thương, ghét của quý vị đối với gia đình và đối với tài sản. Vào đời sống xuất gia, quý vị phải siêng năng học tập Giới luật. Nghĩa là lúc cạo tóc rồi thì tất cả những Giới luật của Phật phải học, chứ không được học Kinh. Quý vị nhớ kỹ, học Kinh quý vị không thấy được phạm hạnh của quý vị, không thấy được những oai nghi tế hạnh của quý vị đâu. Cho nên quý vị phải học Luật. Trong Kinh, học luật và sống theo luật cũng phải 5 năm, rồi sau thời gian 5 năm đó mới được học Thiền. Quý vị phải hiểu điều đó! Không có giới luật nào mà quý vị không thuộc và sống theo. Quý vị phải thường hằng cố gắng sống đúng Giới luật, không cho phạm phải một lỗi nhỏ, sống đúng nếp sống oai nghi tế hạnh của người tu sĩ đạo Phật. Nghĩa là bắt đầu vào giai đoạn thứ 3 thì quý vị phải đoạn dứt cái tâm đời, đoạn dứt cuộc sống đời của quý vị, và quý vị phải siêng năng học tập Giới luật, thuộc tất cả những hành động, những oai nghi tế hạnh trong Giới luật, quý vị phải cố gắng giữ gìn, không cho phạm những lỗi nhỏ ở trong Giới luật. Muốn sống đúng nếp sống của người tu sĩ đạo Phật, quý vị phảitu tập 4 pháp hạnh đầu tiên. Nghĩa là muốn sống đúng nếp sống của người tu sĩ của đạo Phật thì quý vị phải tu 4 pháp hạnh đầu tiên, đó là Tứ Bất Hoại Tịnh.
2.- DỨT BỎ NHỮNG GÌ CẦN DỨT BỎ
Bước qua lộ trình xuất gia, người tu sĩ phải dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ. Muốn dứt bỏ, người tu sĩ phải biết sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Ba la mộc xoa đề, hay còn gọi là Patimokkha. Luôn luôn phải sống đầy đủ oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ. Phải thấy rõ sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt của giới bổn. Phải luôn luôn thọ trì học tập, trau dồi, tu tập trong giới học.
Vậy dứt bỏ những gì?
Muốn dứt bỏ những gì chưa dứt bỏ người tu sĩ phải sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Ba la mộc xoa đề (Patimokkha). Nghĩa là người cư sĩ bước qua lộ trình của người tu sĩ theo đạo Phật thì phải lấy giới luật của Phật làm cuộc sống của mình. Cho nên hằng ngày phải chế ngự tâm mình, phải chế ngự thân mình, phải chế ngự lời nói của mình, phải sống đúng theo giới bổn Ba la mộc xoa đề (Patimokkha). Luôn luôn đầy đủ oai nghi chánh hạnh của người tu sĩ, phải thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, phải nhận ra được sự nguy hiểm khi phạm phải những lỗi nhỏ nhặt ở trong giới bổn, ở trong những oai nghi. Các thiếu sót làm người tu sĩ không còn xứng đáng là một vị tu sĩ thì chúng ta nên cẩn thận và cảnh giác. Vì có cẩn thận, ý tứ từng hành động thân - khẩu - ý của mình, nhờ vậy mà mình mới giữ gìn giới hạnh, mới chế ngự thân khẩu ý của mình trọn vẹn trong giới bổn Ba la mộc xoa đề. Nếu không chế ngự, không giữ gìn thân khẩu ý của mình thì những lỗi nhỏ, những oai nghi tế hạnh nhỏ sẽ bị phạm, mà bị phạm thì nó sẽ làm cho mình xấu hổ, làm cho mình luôn luôn có sự sợ hãi trong chúng tăng, với những vị tu hành.
Thân nghiệp, ngữ nghiệp luôn luôn phải nhờ giới hạnh trau dồi, rèn luyện, tu tập. Hằng ngày sinh hoạt trong cuộc sống tu sĩ luôn luôn được trong sạch là nhờ giữ gìn, trau dồi, tu tập giới hạnh trọn vẹn đầy đủ. Lúc nào người tu sĩ cũng phòng hộ 6 căn, giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Vì lúc bấy giờ mình biết mắt tai mũi miệng thân ý của mình mới bước vào lộ trình xuất gia tu hành thì còn rất yếu, dễ bị dính mắc 6 trần, dễ bị 6 trần làm say đắm lôi cuốn, nhất là đời sống giới hạnh và giới đức của đức Phật làm cho cuộc sống mới mẻ và khắc khổ đối với người mới vào tu. Vì vậy mà 6 căn tiếp xúc 6 trần dễ sanh sự bất mãn, sự thối chí của người mới tu, cho nên phải cố gắng phòng hộ 6 căn mắt tai mũi miệng thân ý của mình đừng cho duyên 6 trần sẽ sanh ra 6 thức và sanh nhiều cái lý luận để đưa đến chỗ bỏ đạo, xa thầy và trở về lại cuộc sống thế tục.
Muốn được như vậy thì người tu sĩ phòng hộ 6 căn giống như một người lính gác cổng thành, luôn luôn phải tỉnh táo biết kẻ ra người vào, kẻ nào tốt, người nào xấu, kẻ nào gian, kẻ nào thật, phải luôn luôn đề cao cảnh giác ý tứ từng chút một. Đó là bổn phận, trách nhiệm của một người lính gác cổng thành. Đối với người tu sĩ mới vào đạo Phật xuất gia, mới đi vào lộ trình của người tu theo đạo Phật cũng giống như người lính gác cổng thành vậy. Bổn phận của người tu sĩ khi muốn tìm cầu sự giải thoát thì phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy, phải luôn luôn ý tứ và cảnh giác từng chút. Lúc nào thiếu một sự cảnh giác thì bị các trần, các pháp trần xâm chiếm tâm, tức là những kẻ gian ác lừa bịp sẽ dối trá, sẽ gạt gẫm xâm chiếm thành. Bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ, cần phải cảnh giác tâm mình giống như người lính vậy. Lúc nào thiếu cảnh giác là tâm bị 6 trần xâm chiếm. Nhờ có sự cảnh giác tâm mới được yên ổn, nhờ có sự cảnh giác tâm mới được bảo vệ và giữ gìn, được an ổn không bị dính mắc các trần cũng như người lính giữ trật tự an ninh trong thành. Đã cảnh giác canh phòng như vậy mà còn phải biết thiểu dục tri túc, tức là phải biết ít muốn biết đủ, chớ không phải nói rằng cảnh giác canh phòng như vậy là đủ mà còn phải giữ gìn sự ít muốn, ít ham muốn, biết đủ của mình. Cái gì có thì mình sống cái ấy, không được đòi hỏi nhiều hơn.
Đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu sĩ mới bước vào đạo Phật. Mới bước vào đạo Phật là phải hiểu biết như vậy, phải sống như vậy, không có đòi hỏi hơn. Lúc chưa bước chân vào đạo Phật thì cuộc sống đầy đủ vật chất, thỏa mãn sự ham muốn theo dục lạc thế gian, nhưng khi đã bước chân vào đời sống tu rồi thì phải hiểu rằng đời sống hôm nay không phải là đời sống của ngày qua, đời sống của hôm nay là đời sống đạo, không phải là đời sống của thế tục. Vì vậy tất cả những gì phải bỏ xuống là bỏ xuống sạch. Vì mục đích cao cả, vì mục đích lớn lao của cuộc sống tu là ra khỏi cuộc sống đầy đau khổ và sinh tử luân hồi, thì phải sống như thế này thì mới ra khỏi được. Còn muốn trôi lăn trong 6 nẻo luân hồi, sống đời sống đau khổ và tiếp diễn sinh tử luân hồi, không bao giờ có ngày giải thoát được, không bao giờ có ngày chấm dứt được luân hồi, thì cứ tiếp tục sống theo dục lạc thế gian như mọi người trên hành tinh này vậy. Vì chính tâm ham muốn dục lạc thế gian là tâm sanh tử luân hồi, không thể nào làm sao tránh khỏi. Biết được vậy, hiểu được vậy thì người tu sĩ phải thấy trách nhiệm đầu tiên của mình xuất gia theo đạo Phật là mục đích phải chấm dứt sinh tử luân hồi, làm chủ sự sống chết.
3.- OAI NGHI NGƯỜI TU SĨ
Sau khi quý vị đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa. Đây là một lối sống mà đối với người thế gian, được xem là rất mới và lạ lùng, sống không giống lối sống của mọi người trên thế gian này. Muốn sống được như vậy thì người xuất gia phải sống chế ngự thân mình, chế ngự lời nói của mình, chế ngự ý nghĩ của mình. Luôn luôn phải bằng lòng với nhu cầu tối thiểu về ăn uống, y áo, thuốc thang, sàng tọa. Vui theo nếp sống trong sự an tịnh. Thường sống cô đơn, trầm lặng, sống một mình, không bạn bè thân thuộc, không Phật tử thân thương. Sống với mục đích chủ động thân tâm. Bất động trước mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, mọi sự việc và mọi nhân duyên.
Đây là người muốn đi vào lộ trình thứ 2, lộ trình xuất gia của đạo Phật thì đương nhiên phải có một lối sống không như lối sống khi còn ở thế gian được, mà phải dứt bỏ hết của cải tài sản, lòng thương yêu, và dứt hết không còn có gì mang theo trong thân tâm của mình. Nghĩa là bỏ sạch, bỏ thật sạch và còn phải sống một đời sống cô đơn, trầm lặng; sống không còn thân hữu bạn bè, không còn thích vui chơi, nói chuyện; không còn thích ăn uống, không còn thích cái này cái kia nữa và cũng không còn sợ hãi không có Phật tử thân thuộc để lo cho mình miếng ăn, áo mặc mà chỉ cần phải sống một mình. Trước hoàn cảnh nào, trước sự việc nào, trước đói khát, trước bệnh tật đều luôn luôn chế ngự, giữ gìn thân mình, ý mình, lời nói mình, không để cho dao động trước mọi hoàn cảnh, mọi sự việc xảy ra.
Trước khi học tu Tứ Bất Hoại Tịnh, Thầy sẽ giảng cho quý vị oai nghi tế hạnh của người xuất gia theo lộ trình thứ 2 của đạo Phật.
4.- GIỚI LUẬT TU SĨ
Khi thực hiện tu tập Tứ Bất Hoại Tịnh, quý vị phải tu tập từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, từ bỏ trượng gậy, kiếm đao, bỏ những loại vũ khí giết hại chúng sanh. Đó là những giới đầu tiên của quý vị. Chúng ta phải thực hành từ bỏ sát sanh, tránh xa sự sát sanh, sẽ được Thầy giảng dạy từ bỏ sát sanh như thế nào mà tránh xa sát sanh như thế nào.
Người tu sĩ xuất gia cần phải biết dứt trừ sự sát sanh, tránh xa sự sát sanh, phải từ bỏ những vật dụng giết hại chúng sanh như gươm, đao, dao, mác, kiếm, cung, tên, trượng, gậy, kích, mâu, côn, chùy, thương, súng, đạn, bom, mìn, lựu đạn, chất nổ... Phải biết xấu hổ và sợ hãi khi lỡ tay làm đau khổ hay làm chết chúng sanh, phải biết luôn luôn tu tập trau dồi lòng từ, thương xót tất cả chúng sanh, làm cho chúng sanh được an vui; nghĩ đến hạnh phúc của chúng sanh, của tất cả loài hữu tình, phải làm sao cho chúng được an lạc thảnh thơi. Như vậy mới là giới hạnh của vị tu sĩ khi đầu tiên bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.
Kế đến, người tu sĩ dứt bỏ lấy của không cho, dù cây kim sợi chỉ, những vật nhỏ nhất cũng không được lấy, chỉ lấy những của được cho, chỉ mong những của được cho. Tự sống thiểu dục tri túc, biết đủ, ít muốn, trong sạch, thanh tịnh, không có trộm cướp. Như vậy người tu sĩ phải hiểu đó là giới hạnh của người mới bắt đầu xuất gia trong giới luật của đạo Phật.
Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật mà nói, nói chắc chắn, nói đúng, lời nói đáng tin cậy, không nói lường gạt ai, không nói phản lại lời nói của mình, phản lại lời nói của đời sống, của mọi người. Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật mới bước vào lộ trình xuất gia của đạo Phật.
Kế tiếp, người tu sĩ phải dứt bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì chỗ này không được đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ với những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi đến chỗ này nói để sanh chia rẽ với những người kia. Như vậy vị tu sĩ sống hòa hợp với những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ, vui mừng trong sự hòa hợp, thoải mái trong sự hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.
Kế tiếp, người tu sĩ dứt bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, vị ấy nói những lời nói không có lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm với mọi người, lời nói tao nhã, nhẹ nhàng, êm ái, làm đẹp lòng nhiều người. Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ mới xuất gia trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.
Kế tiếp, người tu sĩ cần phải dứt bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh pháp, nói những lời về giới luật nghi, nói những lời hợp thời, hợp lý có mạch lạc, có hệ thống, có lợi ích cho mọi người. Như vậy là giới hạnh đầu tiên của người tu sĩ trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.
Kế tiếp, người tu sĩ cần phải ăn ngày một bữa, không ăn ban đêm, dứt bỏ ăn uống phi thời, dứt bỏ ăn uống lặt vặt; dứt bỏ đi xem múa, hát, nhạc, diễn kịch; dứt bỏ trang sức làm đẹp, làm sang; dứt bỏ nằm giường cao rộng lớn; dứt bỏ nhận vàng bạc, tiền bạc của người cư sĩ cúng dường; dứt bỏ cất giữ tiền, bạc, của báu; dứt bỏ nhận thịt sống, dứt bỏ nhận thịt chín. Như vậy là giới hạnh của người tu sĩ đầu tiên trong giới luật của lộ trình xuất gia đạo Phật.
Đây là giới hạnh của những người tu sĩ mới bước đầu vào lộ trình xuất gia đầu tiên theo đạo Phật. Những giới hạnh này người tu sĩ cần phải nhớ kỹ và ghi nhớ không được để vi phạm những lỗi lầm nào. Người mới tu cần phải ghi nhớ mãi mãi những điều này, không được vi phạm. Nếu có vi phạm những lổi nhỏ phải biết xấu hổ, phải hằng răn sám hối, phải hằng sửa sai, không được kéo dài, không được tiếp tục phạm nữa. Có như vậy mới xứng đáng là người bước đầu vào đạo Phật.
5.- BỐN CHÁNH CẦN
Và người tu sĩ mới bước đầu vào đạo Phật cần phải hiểu thêm, cần phải tu tập thêm theo những bài kệ dưới đây để dứt trừ những điều ác, và tăng trưởng các điều lành. Quý thầy hãy nghe những lời dạy này để cố gắng sống cho giai đoạn mới bước đầu vào đạo Phật:
Hãy mau mau làm điều lành,
Thường ngăn tâm làm điều ác.
Theo hai câu kệ đầu thì khi chúng ta mới bắt đầu vào đạo Phật, đi vào lộ trình thứ hai để trở thành một vị Tỳ kheo tu hành thì chúng ta đều thực hiện làm tất cả những điều lành. Còn những điều ác, dù lớn dù nhỏ, thì chúng ta phải ngăn chặn nó lại, không cho tâm mình làm. Đây là 4 câu kệ kế:
Nếu người làm điều ác
Chớ tiếp tục làm ác
Đừng ước muốn điều ác
Chứa ác chịu khổ đau
Ở đây, Phật dạy khi người mới bắt đầu vào tu thì tâm còn quen ở trong đời sống thế tục cho nên nó có những pháp ác còn đang lẫn lộn trong tâm hồn của chúng ta. Cho nên đức Phật dạy: Nếu người còn đang ở trong các pháp ác, chớ nên tiếp tục các pháp ác, dứt nó ra và đừng có ước muốn, ước ao, như bây giờ mình ham muốn cái này kia, hoặc là còn tham sân si, thì đó là các pháp ác đó. Cho nên đừng có ước muốn các điều ác, vì chứa ác thì cuộc đời chúng ta sẽ gặp nhiều sự đau khổ. Mặc dù hiện giờ chúng ta là những người tu nhưng còn gặp những cái khó khăn. Muốn cho được an ổn, yên ổn tu hành thì chúng ta phải nỗ lực dứt các điều ác. Đừng có ước muốn ác nữa, đừng có ham muốn ác nữa vì tất cả những ham muốn ác đó sẽ đem đến những khổ đau cho chúng ta.
Nếu người làm điều thiện
Tiếp tục làm thiện thêm
Lòng ước muốn điều thiện
Chứa thiện được an lạc
Nếu chúng ta bước vào lộ trình tu tập của đạo Phật, khi bắt đầu mới vào tu, chúng ta luôn luôn ước muốn làm điều lành, tiếp tục làm điều lành, và chất chứa những điều lành đó thì con đường tu của chúng ta được an lạc, không còn khó khăn nữa. Còn trái lại nếu chúng ta có những tâm niệm chất chứa những cái ác, như là nghi ngờ Thầy tổ của mình, nghi ngờ bằng cách này bằng cách kia. Trước khi chúng ta muốn đến với vị Thầy đó thì ít ra chúng ta cũng phải có đủ niềm tin với vị Thầy. Nếu không đủ niềm tin mà mình nhận người ta làm thầy mình, rồi đâm ra nghi cái này nghi cái kia, đứng núi này trông núi nọ, rồi dùng những lời lẽ phỉ báng thầy mình, chê bai thầy mình bằng cách này, bằng cách khác thì đó là mình đã chứa những điều ác trong tâm của mình. Và khi chứa những điều ác trong tâm của mình thì là tự mình đã đem lại sự bất an cho mình, muôn đời chẳng bao giờ tìm được con đường giải thoát.
Một khi biết Thầy mình chưa đạt đến mức giới luật cũng như thiền định cao siêu, mà mình đến xin vị đó làm thầy mình thì mình vẫn quý trọng vị đó, đừng dùng lời lẽ phỉ báng thầy mình. Đối với một vị thầy đã đưa dắt mình lúc đầu mà mình phỉ báng thì mình không mang ơn, mà lại trả oán cho Người. Những hạng đệ tử như vậy thì suốt đời tu hành chẳng ra gì vì họ đã chứa trong tâm toàn những điều ác.
Người ác thấy là lành
Khi ác nghiệp chưa đủ
Đến khi đã chín muồi
Người ác mới thấy khổ.
Nghĩa là bây giờ chúng ta nói xấu như vầy, như kia thì cái nghiệp ác nó chưa có đến với chúng ta đâu. Nhưng khi nó đủ duyên rồi thì chúng ta mới thấy rõ cái khổ, đó là do hành động ác của mình, các hành động do cái tâm không tốt của mình.
Người hiền đang sống khổ
Khi thiện nghiệp chưa đến
Nay thiện nghiệp chín muồi
Người lành được an vui.
Nghĩa là hiện bây giờ chúng ta đang làm lành, nhưng cuộc sống chúng ta đang gặp những khó khăn là do nhân quả của đời trước mà hôm nay mình chịu lấy. Thiện nghiệp hiện giờ mình đang làm, nó chưa có đến đâu. Khi nghiệp thiện chín muồi rồi thì người làm điều lành đó sẽ được an vui và an vui mãi mãi trong cuộc sống của họ. Họ sẽ không có thiếu thốn một cái gì cả.
Bài kệ kế:
Chớ khinh chê điều ác
Cho rằng chưa đến mình
Như nước nhỏ từng giọt
Rồi bình cũng đầy tràn
Người ngu chứa đầy ác
Do chất chứa dần dần
Nghĩa là hiện giờ chúng ta coi chuyện ác nhỏ chẳng ra cái gì hết, mình chê người này thế này thế khác, hoặc mình làm đau khổ người khác, mình coi nó không có gì. Nhưng nó như là những giọt nước nhỏ lần lần vào bình rồi sẽ có ngày làm đầy cái bình của chúng ta. Cho rằng hôm nay, việc ác chẳng có hại gì mình được hết, nhưng cuối cùng khi đầy đủ rồi thì cái bình kia vẫn phải tràn đầy. Và khi tràn đầy thì chúng ta sẽ thọ lấy những quả khổ, mà không ngờ những quả khổ đó là do từng giọt nước ác nhỏ trước kia, tuy nhỏ nhưng mà lâu ngày sẽ làm đầy bình. Nước tuy mềm nhưng nó có thể xoi mòn được đá cứng và cũng vậy, giọt nước ác có thể giết hại đời sống của chúng ta, mang đến cho chúng ta nhiều đau khổ.
Chớ khinh chê điều thiện nhỏ
Cho rằng chưa đến mình
Như nước nhỏ từng giọt
Rồi bình cũng tràn đầy
Người trí chứa đầy thiện
Do chất chứa dần dần
Nếu trí óc chúng ta luôn luôn cố gắng làm việc thiện, dù nhỏ cũng cố gắng làm, giống như từng giọt nước nhỏ đến ngày nào đó sẽ làm thành một bình nước đầy, chúng ta mặc sức mà dùng, đời sống chúng ta được an vui và hạnh phúc.
Giai đoạn mà đầu tiên khi bước qua lộ trình thứ 2 này để trở thành một vị tu sĩ của đạo Phật thì chúng ta phải nhớ những bài kệ này. Đó là những hành động đầu tiên giúp chúng ta dứt trừ những điều ác. Những điều ác sẽ đưa đến cho đời sống của chúng ta nhiều quả khổ, mặc dù chúng ta tu hành nhưng phải gặp nhiều cái quả khổ. Chúng ta cố gắng dứt trừ nó thì may ra chúng ta sẽ được an vui trong cuộc đời tu hành của chính mình.
Bởi vì hằng ngày trên đường tu tập của chúng ta, chúng ta hãy tích lũy từng chút cái việc làm lành. Như thấy một con vật bị trôi trên một vũng nước, đang sắp chết đuối trên vũng nước nhỏ, chúng ta mau mau cứu chúng, thì đó là một việc làm lành nhỏ của chúng ta. Hay thấy một miểng chai, hoặc một cây đinh, hoặc một cây gai nằm trên đường mà người qua kẻ lại đông, thì chúng ta nên nhặt vật nguy hiểm đó đi, không khéo người vô ý sẽ đạp phải, sẽ gây đau khổ cho thân người đó. Đó là một cái việc làm lành nhỏ. Cũng như khi chúng ta đi, chúng ta nhìn xuống chân, tránh không dẫm đạp lên con kiến hoặc là con côn trùng dưới chân, chúng ta tránh sự chết hoặc là sự đau khổ của chúng chính cũng là một điều lành nhỏ mà hằng ngày chúng ta gặp phải. Thấy một con vật đang đói khát, đang quằn quại trên sự đau khổ của cơn đói hoặc là cơn bệnh của chúng, thì chúng ta ngồi nhìn rồi chúng ta khởi tâm thương yêu, mong rằng sự đau khổ của chúng sanh này sẽ giảm đi, sẽ bớt đi. Sự ước mong, sự ước muốn của chúng ta cũng được cảm thông với sự đau khổ của chúng sanh.
Đó là những việc làm lành nhỏ mà góp nhặt từng chút để tạo nên cái lành lớn. Nếu chúng ta không làm được những điều nhỏ này thì khó có thể dứt trừ được những điều ác. Hằng ngày chúng ta ngồi lại thấy 2 con vật đang cắn lộn nhau, đang giành nhau vật thực gì đó mà cắn nhau, chúng ta vội vàng can ngăn chúng ra, đừng để chúng đánh nhau, thì đó cũng là một việc lành nhỏ.
Hằng ngày chúng ta có những điều vô tình làm đau khổ chúng sanh, như khi chúng ta đang ngồi ăn, một con kiến hay một con vật gì rớt ở trên mình chúng ta, chúng ta bị nó cắn làm cho ngứa hoặc đau, sau khi bị đau ngứa chúng ta không có ý tứ, không nghĩ đến thương chúng cho nên chúng ta lấy tay vò đi, chà đi làm cho con vật bị chết đi, đó là chúng ta làm một điều ác nhỏ.
Cũng như chúng ta ngồi chơi có một con muỗi đáp trên mặt chúng ta hút máu, chúng ta bắt đầu nghe ngứa ở tại chỗ đó thì chúng ta phải ý tứ, trên mặt chúng ta có chỗ ngứa có lẽ có một con vật, con muỗi hay con gì cắn chúng ta, hãy từ từ nhẹ tay để cho con vật đó không chết, đó là một việc làm thiện nhỏ.
Hằng ngày còn biết bao nhiêu việc nhỏ, như chúng ta muốn đổ một cái xô nước nóng, chúng ta nên nhìn xem coi dưới đất chỗ ta đổ có chúng sanh không, nếu không có chúng ta sẽ đổ. Đổ nước nóng xuống đất mà không có chúng sanh thì không có chết hại chúng sanh, đó là một việc làm thiện của chúng ta.
Chúng ta nắm một cái cây mà chúng ta ném, cái cây rớt rủi ro trúng một con vật nhỏ như một con cuốn chiếu, hoặc là một con trùng, hoặc một con kiến, nó cũng làm cho con vật đau khổ. Tốt hơn, chúng ta đừng vô tình ném một cái cây, một khúc cây làm cho đau khổ chúng sanh. Chúng ta hãy để nhẹ nhàng để khúc cây vào vị trí của chúng, thì thứ nhất là oai nghi tế hạnh của chúng ta làm việc rất nhẹ nhàng, rất có oai nghi, và thứ hai là không làm đau khổ chúng sinh.
Đó là những việc làm thiện nhỏ mà chúng ta phải nhặt nhạnh từng chút, gom góp từng ngày để tạo cho chúng ta có những điều lành lớn sau này. Đối với hành động ác nhỏ hằng ngày chúng ta cần lưu ý tránh làm, và đối với hành động thiện nhỏ hằng ngày chúng ta cần lưu ý nên làm để trau dồi thân tâm của mình trong những oai nghi, tế hạnh của người tu sĩ mới bắt đầu tu tập giới hạnh của Phật, thực hiện oai nghi tế hạnh đầy đủ, nhẹ nhàng, trong đời sống hằng ngày của chúng ta, để giúp đỡ tất cả chúng sanh không vì mình mà bị đau khổ.
Đây là những điều căn bản đầu tiên trong giới hạnh của người tu sĩ mới bước qua lộ trình xuất gia cần phải thông hiểu rõ ràng để không có lỗi lầm, để không phạm phải. Nhưng bấy nhiêu đây chưa đủ để đi suốt quãng đường xuất gia tu hành, chấm dứt sanh tử luân hồi được mà còn phải tu tập nhiều hơn nữa. Phải tu tập nhiều hơn nữa.
5.- TU TẬP CÁC LOẠI ĐỊNH
Người tu sĩ Phật giáo mới bước đầu vào đạo cần vừa phải sống độc cư, sống trầm lặng, sống một mình, vừa còn phải tu tập Chánh niệm tỉnh giác định, Định vô lậu, Định sáng suốt.
Khi chúng ta không bước vào lộ trình của người tu sĩ thì thôi, mà đã bước vào cái lộ trình của người tu sĩ thì thứ nhất là chúng ta phải thấy hạnh độc cư rất là quan trọng đối với người tu sĩ, bởi vì cuộc sống ngoài đời chúng ta rất thích là ham vui, nói chuyện này, chuyện kia, cười cợt, nói diễu, nói đùa, nói móc, nói mỉa mai người này người nọ người kia... để cho mình thỏa thích cái tâm vui, cái tâm cô đơn của mình. Nhưng khi bước vào nẻo xuất gia tu hành rồi thì chúng ta phải thấy những lối sống như vậy nó không đúng hạnh của người tu sĩ, mà phải sống độc cư, sống một mình, sống không nói chuyện với ai, luôn luôn ưa thích trầm lặng, phải sống cuộc sống trầm lặng, phải luôn sống cho mình, phải luôn sống để tâm mình hợp nhất đừng bị các ngoại cảnh, các đối tượng, các hoàn cảnh phân tán. Vì vậy chúng ta thường xuyên phải tu tập Chánh niệm tỉnh giác định và Định vô lậu và phải sống hằng ngày trong Định sáng suốt.
Và muốn hằng ngày sống trong Định sáng suốt thì người tu sĩ mới bắt đầu qua lộ trình thứ 2, lộ trình của người xuất gia, phải tu tập ở trong Chánh niệm tỉnh thức.
Muốn tu Chánh niệm tỉnh thức thì lấy sự đi kinh hành, lấy việc làm hằng ngày của mình trong lao tác, trong lao động mà tập trung tâm của mình vào hành động, để biết hành động của mình đang ý tứ tỉnh táo, sáng suốt làm những công việc, và thường phải dùng pháp hướng nhắc tâm của mình. Thí dụ như mình đang lặt rau thì tác ý lặt rau, nói “Tôi biết tôi đang lặt rau", khi lặt rau xong rồi đến giai đoạn nấu cơm thì tác ý "Tôi biết tôi đang nấu cơm", thỉnh thoảng mình lại nhắc "Tôi biết tôi đang nấu cơm". Tập cho cái sức tỉnh thức của mình ở trong hành động đó để cho nó luôn luôn nó tỉnh thức, nó không có một niệm vọng tưởng xen vào và cũng không có niệm vô ký, quên đi cái hành động của chúng ta. Đó là phần tu Chánh niệm tỉnh thức, phần đó nó giúp cho chúng ta được ý tứ trong hành động để giữ gìn giới hạnh cho đừng có vi phạm, đừng có phạm phải.
Và kế tiếp thì chúng ta phải tu Định vô lậu. Với Định vô lậu thì chúng ta phải thường xuyên đặt niệm ở trước mắt của chúng ta. Chúng ta bây giờ vẫn là người mới rời khỏi gia đình, tình cảm chúng ta nó còn dính dấp đối với những người thân cho nên mình đặt niệm nhân quả đối với người thân như cha mẹ, vợ con, anh em... Chúng ta nhìn nó và quán xét về nhân quả. Nếu không có nhân quả thì làm gì ngày nay những người này trở thành con cái hoặc là trở thành cha mẹ của mình. Nếu không có nhân quả thì làm sao những người này trở thành vợ con mình được. Có nhân quả thì một là mình nợ họ, hai là họ nợ mình. Do chỗ đó chúng ta quán xét suy tư, từ đó mới dứt được tình thương yêu một cách rất là vô minh không sáng suốt. Làm cho cái tâm của chúng ta càng ngày càng lìa xa cái tình thương yêu nhỏ mọn, không rộng lớn như cái tâm từ bi của Phật dạy. Muốn được vậy thì hằng ngày chúng ta đặt cái niệm lòng thương yêu của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân, chúng ta phải quán xét nó bằng đường lối của Nhân quả. Bằng những cái nợ, hoặc là mình nợ họ, hoặc là họ nợ mình cho nên đây là một sự vay trả, một sự đòi hỏi để trả nợ với nhau trong hiện kiếp này, mà cái đời kiếp kia là con nợ với nhau mình nợ họ, họ nợ mình. Do như vậy chúng ta mới dứt được lòng thương yêu của chúng ta đối với gia đình, đối với những người thân.
***