In bài này

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần T 1/5)

Lượt xem: 5247

(Tỳ khưu Từ Quang tổng hợp nghĩa các từ và câu kinh được Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng trong tất cả các sách của Ngài)

Vần (1/5)

Ta đã chân chánh giác ngộ (PhậtDạy.2) đức Phật muốn giới thiệu pháp môn mà Ngài đã tu chứng quả thật sự giải thoát, đó là pháp môn “Giới, Ðịnh, Tuệ”.

Tam-Bảo (3Qui5Giới)(CữSĩTu) là ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. – Phật là đấng đã giác ngộ (Tánh toàn Chơn), và thuyết minh sự thật; Pháp là sự thật, là chơn chánh (Tâm toàn Thiện), còn Tăng là người đang thực hành và chứng đạt sự thật đó. Tăng là tịnh hạnh (Hạnh toàn Mỹ). Tam Bảo chứng tỏ Phật pháp không phải chỉ có lý thuyết, mà lý thuyết ấy đã có người giác ngộ chứng đạt và có người đang thực hành để đi đến sự chứng đạt giải thoát. Ba ngôi Tam Bảo ví như ba cái vòng tròn, có chung một tâm điểm, tuy một mà có đủ ba, mà Tăng Bảo là vô cùng hệ trọng. Tam Bảo cũng là ba đức tánh giác ngộ, chơn chánh, thanh tịnh, đang ẩn tàng nơi mỗi chúng ta. Ba đức: Sáng suốt (Giác ngộ), trong sạch (Thanh tịnh) và chơn thật bất hư (Chơn chánh) mà Phật và chư vị Thánh Tăng là những người đã phát huy viên mãn.

Tam Cang (ĐạoĐức.1)(ThanhQui) gồm có: quân thần cang, phụ tử cang, phu thê cang. Ðạo đức này của Khổng Tử đưa ra để dạy cho con người nhằm mục đích bắt buộc mọi người phải tuân thủ theo trật tự tôn ti của giai cấp chế độ phong kiến, biến con người thành công cụ để phục vụ vua chúa: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung".

Tam Đề (10Lành) là ăn ba miếng cơm lạt (không thức ăn), trước mỗi bữa ăn và thầm nguyện: Nguyện đoạn các điều ác, nguyện làm các điều lành, nguyện độ tất cả chúng sanh. Hay “Nguyện sẽ không làm khổ mình, nguyện không làm khổ người, nguyện cho tất cả chúng sanh không gây đau khổ cho nhau.”

Tam giới (ĐườngVề.6) theo các nhà Ðại Thừa hiểu Tam giới là ba cõi giới (ba cảnh giới). Sự hiểu như vậy là hiểu theo tưởng giải, ba cõi giới là ba cõi ảo tưởng các bạn ạ! Cho nên, kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy. Tam giới theo kinh sách Nguyên Thủy là ba trạng thái trong thân tâm của một con người, gồm có: 1- Dục giới (chỉ cho trạng thái ham muốn của con người), 2- Sắc giới (chỉ trạng thái của cơ thể con người), 3- Vô sắc giới (chỉ cho trạng thái tưởng của con người). Con người thường luân chuyển sống trong ba trạng thái này, lúc thì ở trạng thái này, lúc thì ở trạng thái kia, cho nên kinh dạy: “Luân hồi trong ba cõi”.

Tam Minh (PhậtDạy.2)(Phậtdạy.3)(ĐườngVề.2)(ĐườngVề.3)(ĐườngVề.6)(ĐườngVề.8)(CầnBiết.4)(ĐườngRiêng) Tam Minh là ba trí tuệ siêu việt của Ðạo Phật, là ba sự thông suốt hiểu biết vượt không gian và thời gian, là trí tuệ hiểu biết vũ trụ như thật, chứ không phải sự hiểu biết hạn hẹp của ý thức. Sự hiểu biết đó là liễu tri. Trí thức bị hạn chế trong không gian và thời gian nên thấy và hiểu biết mọi sự vật bằng tưởng, không như thật. Do thấy 2 thế giới hữu hình và vô hình là không có thật, không thật có nên không thấy có ta, của ta, bản ngã của ta. Do thật thấy không phải của ta như vậy, nên không thể tương ưng trong hai thế giới này. Không tương ưng tức là vô lậu, nên chấm dứt tái sanh luân hồi. Nhập được Tứ Thiền là làm chủ sự sống chết. Còn đạt được trí tuệ Tam Minh thì chấm dứt luân hồi tái sanh. Tam Minh gồm có: 1- Túc Mạng Minh là trí tuệ hiểu biết thấu suốt nhiều đời nhiều kiếp của mình, của những người khác trong thời gian quá khứ hay tương lai. Muốn sử dụng Túc Mạng Minh, phải dùng TUỆ NHƯ Ý TÚC thì mới thấy biết nhiều đời nhiều kiếp. 2- Thiên Nhãn Minh là đôi mắt sáng suốt nhìn thấy thấu suốt không gian và vũ trụ, dù cách núi, cách sông vẫn thấy biết rất rõ như thấy chỉ tay trong lòng bàn tay. Muốn sử dụng Thiên Nhãn Minh thì phải dùng Dục Như Ý Túc mới thấy biết như ý mình muốn. 3- Lậu Tận Minh là trí tuệ Tỉnh giác sáng suốt tuyệt vời nhìn thấu suốt tâm mình, khiến cho lậu hoặc bị diệt mất, chỉ còn lại một tâm Vô ậu hiện tiền. Muốn có một trí tuệ tỉnh giác sáng suốt như vậy thì phải sử dụng Tinh Tấn Như Ý Túc mới có trí tuệ Tỉnh Giác diệt tận lậu hoặc.Chỉ có Tuệ Như Ý Túc mới điều khiển Tam Minh được. Tam Minh thuộc về tuệ. Tam Minh thì thân tâm giống như người sống bình thường nhưng bất động trước các ác pháp, tâm luôn lúc nào cũng thanh tịnh và thanh thản, an lạc, vô sự. Sống, chết, bệnh, đau là việc vô thường của nhân quả không tác động được thân tâm họ. Họ sống những ngày an vui tuyệt vời của một đời sống còn lại. Tam Minh chỉ cho tâm vô lậu dứt hết nghiệp tái sanh luân hồi (Lậu Tận Minh), chứ không phải nói thần thông. Ðạo Phật không có dạy tu tập để có thần thông mà chỉ dạy đạo đức nhân bản nhân quả cho con người. Khi con người sống đúng đạo đức thì tâm thanh tịnh nghĩa là không còn tâm tham sân si nữa thì nơi tâm thanh tịnh ấy lưu xuất ra những thần lực Lục Thông, Tam Minh. Những thần lực này có khả năng nhập các định và thực hiện Tam Minh. Với khả năng ấy mới làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi. Cho nên, Lục Thông, Tam Minh không phải thần thông làm trò ảo thuật cho người.

Tam Minh, Lục Thông (ĐườngVề.2) là một phương pháp để rà soát lại tâm của người tu hành có sạch lậu hoặc hay chưa.

Tam Minh Tuệ (CầnBiết.3) gồm có ba tuệ: a/ Vô thời gian tuệ, b/ Vô không gian tuệ, c/ Vô lậu tuệ.

Tam Quy (TâmThư.2) là dạy về Quy y Phật, Quy y Pháp và Quy y Tăng.

Tam Thiền (ĐườngVề.6)(GiớiĐức.1) Tam Thiền đóng kín tưởng thức nên các loại hỷ tưởng đều xả (gọi là ly hỷ trú xả), tức là xả mộng (hết chiêm bao). Tam Thiền làm chủ tưởng (bệnh), thuộc về thọ. Ly hỷ là một danh từ để chỉ trạng thái tịnh chỉtưởng thức, chứ không phải lìa sự vui mừng của cảm giác ý thức. Trong kinh Phật dạy rất rõ ràng: “xuất Tam Thiền rồi mới nhập Tứ Thiền” chứ Phật không dạy ngay trong Tam Thiền chấm dứt hỷ lên Tứ Thiền.Ly hỷ trú xả là một tên khác của Tam Thiền chớ không phải là pháp hành.

Tam trọng ân (OaiNghi) ba lạy là tượng trưng ba ân nghĩa lớn: - Lễ thứ nhất là tượng trưng cho Trời. - Lễ thứ hai tượng trưng cho Ðất. - Lễ thứ ba tượng trưng cho Tổ Tiên. Trong Phật giáo lạy ba lạy có nghĩa là tam trọng ân: - Lễ thứ nhật là tượng trưng cho Phật bảo. - Lễ thứ hai tượng trưng cho Pháp bảo. - Lễ thứ ba tượng trưng cho Tăng bảo. Giáo Ðoàn Phật Giáo là theo gót chân Phật, nên lạy ba lạy đơn giản mà thôi. Lạy bình thường thì úp lòng bàn tay xuống. Lạy sám hối thì lật ngữa lòng bàn tay lên. Lạy người còn sống thì hai bàn tay để ngang nhau. Lạy người đã chết thì hai bàn tay đưa thẳng về phía trước.

Tam Vô Lậu Học (ĐườngVề.4)(ĐườngVề.5)(CầnBiết.1) Pháp môn Giới luật, pháp môn Thiền định và pháp môn Trí tuệ được gọi chung là “Tam Vô Lậu Học”, chia làm ba giai đoạn tu tập hay còn gọi là ba cấp tu học trong chương trình giáo dục đào tạo của Phật giáo: 1- Cấp Tu tập đức hạnh không làm khổ mình, khổ người tức là ly dục ly ác pháp. 2- Cấp Tu thiền định tức là phải nhập từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền đến Tứ Thiền. 3- Cấp Tu tập Tam Minh tức là hướng tâm đến Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh và Lậu Tận Minh. Ba pháp môn vô lậu này kỳ thật chỉ là một pháp môn duy nhất, nhưng chia làm ba giai đoạn tu tập. Trong ba giai đoạn này, chỉ có giới luật là giai đoạn quan trọng nhất và tu tập khó nhất, trên đường tìm cầu đạo giải thoát theo đạo Phật. Tam Vô Lậu Học là ba pháp môn tu tập không còn lậu hoặc, tức là ba cấp tu tập trong tám lớp học sẽ chấm dứt đau khổ của kiếp người hay nói cách khác là làm chủ sanh, già, bệnh, chết của đạo Phật. Tam Vô Lậu Học chính là pháp môn của đạo Phật. Nhờ biết Tam Vô Lậu Học chính là pháp môn của Phật nên không bị tà sư ngoại đạo nào lừa đảo, lường gạt chúng ta được.

Tay hành (4Tâm) Trau dồi tâm từ trong hành động tay là khi đang cầm, nắm, bắt tất cả những vật dụng, hoặc khi mặc áo, ăn cơm, ta phải luôn luôn như lý tác ý. Thí dụ tác ý câu: “Tất cả những vật dụng, cơm ăn, áo mặc, thuốc thang đều do mồ hôi, nước mắt của người. Vậy ta phải biết ơn, thương yêu họ và thương yêu mọi người, dù người đó có hay không có cúng dường cho ta. Thậm chí nếu có người đánh, mắng, chửi rủa ta, ta cũng không bao giờ đánh, mắng, chửi rủa, hay to tiếng với họ, làm cho họ khổ sở. Ta phải nói lời nhẹ nhàng cho người vui và không buồn khổ nữa”. Khi cầm, nắm, bắt, tay ta cũng phải nhẹ nhàng, từ tốn vì trên đồ vật ấy có thể có chúng sanh, nếu ta mạnh tay là ta có thể giết chết sinh vật ấy. Tập luyện như vậy là tập luyện tỉnh thức trong hành động để trau dồi tâm từ, bi, hỷ, xả chứ không phải là chánh niệm tỉnh giác định. Muốn trau dồi tâm từ trong các hành động nơi tay thì ta phải tác ý thường xuyên để không vô ý làm đau khổ chúng sanh. Khi tinh tấn, siêng năng tu tập tức là ta thực tập tỉnh giác, dần dần ta mới thật sự thương yêu chúng sanh. Khi nắm, bắt lấy một vật gì, ta phải hành động nhẹ nhàng, từ tốn. Đây là oai nghi, tế hạnh của thầy tu. Mỗi hành động của tay, chân đều hướng tâm, nhắc tâm ta thương yêu mọi loài. Từ đó tâm ta mới thấm nhuần sâu tận xương tủy lòng thương yêu, và biến mãn ra thân mình đầy lòng thương yêu chân thật.

Tác ý niệm ác (ĐườngVề.8) nghĩa là chúng ta tự khởi niệm ra, có ý muốn khởi ra.

Tác ý niệm ác của kẻ khác (ĐườngVề.8) Tác ý niệm ác nghĩa là chúng ta tự khởi niệm ác ra, có ý muốn khởi niệm ác ra. Nhớ đến niệm ác có nghĩa là một niệm ác tự trong tâm khởi ra ngoài ý muốn của chúng ta. Muốn không tác ý niệm ác của kẻ khác để ly dục, ly ác pháp nhập Bất Ðộng Tâm hay nhập Sơ Thiền thì thường tu “Ðịnh Sáng Suốt” giữ tâm thanh thản để không nhớ đến niệm ác của người khác. Tốt nhất là nên tránh tác ý niệm ác của kẻ khác. Phương pháp này có hai cách: 1- Không nên nhớ đến niệm ác của người khác. 2- Không nên tác ý niệm ác của người khác.

Tác ý sinh khởi ác pháp (PhậtDạy.2) là tác ý dục tham, dục sân, dục si... Người tu hành theo Phật giáo để cầu sự giải thoát thì không bao giờ tác ý dục tham, dục sân, dục si...

Tái sanh (PhậtDạy.1)(12Duyên)(CầnBiết.3) có nghĩa là sanh trở lại làm người, làm loài vật. “Các loài hữu tình thích thú chỗ này, chỗ kia như vậy, tái sanh trong tương lai sẽ xảy ra”. Mọi người đang sống trên hành tinh này luôn luôn ưa thích cái này cái kia, lúc nào cũng ưa thích. Do tâm ưa thích mà loài người cũng như loài vật đều phải chịu tiếp tục tái sanh luân hồi. Như vậy, muốn chấm dứt tái sanh luân hồi thì phải diệt trừ vô minh. Do vô minh mà có tham ái; do tham ái mà thích cái này cái kia; do ưa thích cái này cái kia mà phải chịu tái sanh luân hồi, khổ đau muôn kiếp.

Tám đức hạnh (CữSĩTu) là: 1- Ðức hiếu sinh. 2- Ðức buông xả, không tham lam. 3- Ðức chung thủy. 4- Ðức thành thật. 5- Ðức minh mẫn. 6- Ðức tự nhiên và thanh bần. 7- Ðức trầm lặng độc cư. 8- Ðức ly dục.

Tám giới (sát sanh, trộm cắp,…) (CữSĩTu) là thiện pháp, có công năng chuyển nghiệp ác pháp đau khổ. Bát Quan Trai là pháp môn tu tập của người cư sĩ phật tử, để chuyển bước qua giai đoạn tu tập thứ ba của người tu sĩ Phật giáo.

Tám giới tướng của Bát Quan Trai (8QuanTrai) 1.- Giới tướng thứ nhất: Chư Phật suốt đời không sát sanh, hại vật. 2.- Giới tướng thứ hai: Chư Phật suốt đời không gian tham, trộm cắp. 3.- Giới tướng thứ ba: Chư Phật suốt đời không dâm dục. 4.- Giới tướng thứ tư: Chư Phật suốt đời không nói dối. 5.- Giới tướng thứ năm: Chư Phật suốt đời không uống rượu. 6.- Giới tướng thứ sáu: Chư Phật suốt đời không đeo chuổi tràng hạt, anh lạc, tràng hoa thơm, thoa xức dầu thơm vào mình. 7.- Giới tướng thứ bảy: Chư Phật suốt đời không nằm, ngồi giường cao tốt đẹp, không ca hát và không nghe ca hát. 8.- Giới tướng thứ tám: Chư Phật suốt đời không ăn uống phi thời.

Tám Trai Giới (8QuanTrai) 1.- Không sát sanh, hại vật, 2.- Không gian tham, trộm cắp, 3.- Không dâm dục, 4.- Không nói dối, 5.- Không uống rượu, 6.- Không đeo chuổi tràng hạt, anh lạc, tràng hoa thơm, thoa xức dầu thơm vào mình, 7.- Không nằm, ngồi giường cao tốt đẹp, không ca hát và không nghe ca hát, 8.- Không ăn uống phi thời. Người cư sĩ một ngày một đêm thọ trì tám Trai Giớisẽ gieo duyên tu hành giải thoát của bậc xuất gia, lìa thế tục. Nhờ có gieo duyên Bát Quan Trai Giới nên đời đời kiếp kiếp sanh ra làm người liền gặp Chánh Pháp, không gặp tà sư ngoại đạo.

Tán loạn (ĐườngVề.1) là tâm thường khởi niệm tưởng chuyện này đến chuyện khác không dứt, gọi là vọng tưởng lăng xăng.

Tánh không (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) danh từ của Ðại Thừa, có nghĩa Chân Không diệu hữu, Trí Tuệ Bát Nhã, “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”.

(TâmThư.1) là ác pháp, là còn tham, sân, si.

Tà dâm (10Lành)(CữSĩTu) là hành dâm với người khác (không phải là vợ hay chồng của mình) là tà dâm. “GIỚI ÐỨC CHUNG THỦY” là không tà dâm. Người không tà dâm thì thân và tâm của họ chung thủy, trung thành, tình nghĩa, chân thật. Một người tà dâm thì không thể nào thân tâm chung thủy, trung thành, tình nghĩa chân thật được nghĩa là lúc nào cũng giả dối, không chân thật, không tình nghĩa. Một bậc Thánh cư sĩ thì không thể nào còn tà dâm, chỉ trung thành, chung thủy, chân thật với gia đình. Giữ gìn giới không tà dâm là người biết tôn trọng nghĩa tình với người phối ngẫu, là biết bảo vệ sức khỏe bản thân, đem lại an vui, hạnh phúc cho gia đình, góp phần làm lành mạnh xã hội.

Tà định (PhậtDạy.2) là những thiền định của ngoại đạo, như Bốn Thiền Vô Sắc: Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thức Vô Biên Xứ Tưởng, Vô Sở Hữu Xứ Tưởng, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Tưởng, Thiền Tri Vọng, Thiền Công Án, Thiền Minh Sát Tuệ, v.v... những loại thiền định này không làm chủ sanh, già, bệnh, chết, không chấm dứt tái sanh luân hồi. Nó là những Tà định là ở bờ bên nay, bờ đau khổ, bờ địa ngục không giải thoát.

Tà giải thoát (PhậtDạy.2) là tu tập cầu mong gặp Tổ, gặp Phật, có thần thông biến hóa tàng hình, biết chuyện quá khứ vị lai, ngồi thiền sinh hỷ lạc, ngồi thiền thấy xuất hồn, ngồi thiền thấy hào quang ánh sáng, nghe âm thinh trong tai, nghe mùi hương thơm ngào ngạt, nghe vị ngọt trong cổ, v.v... vì tâm còn tham sân si ngút ngàn. Ðó là Tà giải thoát, nên tâm còn tham sân si ngút ngàn, vì thế luôn luôn lúc nào cũng ở bên bờ bên này, bờ đau khổ.

Tà hạnh trong các dục vọng (12Duyên) là lòng ham muốn thấp hèn, đê tiện, xấu xa như thấy vợ người sinh tâm tà dâm, thấy của cải tiền bạc của người khác không cho mà muốn lấy, thấy gà, vịt, cá, tôm muốn bắt giết làm thịt để ăn.

Tà kiến (PhậtDạy.2)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3) là chấp chặt theo lối không chân chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả, phi đạo đức. Tà kiến nghĩa là mê tín, dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xâm, bói quẻ, buộc tôm đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v... Nghĩa là trên đời này, cái gì ý thức không hiểu được, mà phải dùng tưởng thức để hiểu, hiểu như vậy là hiểu một cách mơ hồ, trừu tượng, không rõ, không thực tế, không cụ thể, thì đều gọi là tà kiến. Tà kiến là không thấy nhân quả của sự việc mà chỉ thấy sự việc đúng-sai, thấy sự việc phải-trái, thấy sự việc trắng-đen, thấy sự việc tốt-xấu, v.v... do đó, thường chịu nhiều khổ đau. (Chánh kiến là thấy nhân quả của sự việc, thấy nhân quả như thật của sự việc).

Tà mạn (CầnBiết.2)(CầnBiết.3) Người tu về tà mạn được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người khác, xem trời đất không còn ai.

Tà mạng (PhậtDạy.2) là nuôi mạng sống không chân chánh có nghĩa là ăn uống và ngủ nghỉ phi thời, ăn uống không tiết độ, ăn uống những thức ăn độc vào thân, ăn uống thích món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị.

Tà nghiệp (PhậtDạy.2)(ĐườngVề.1) Tà nghiệp là những hành động làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai. Tà nghiệp là những nghề nghiệp giết hại chúng sanh, làm đau khổ người khác; là hành động, lời nói và ý nghĩ ác, hành động giết hại chúng sanh và làm đau khổ người khác hay mắng chửi người khác, nói xấu người khác, vu khống người khác, chuyện ít sinh ra nhiều, thêm bớt, v.v... Tà nghiệp còn là thói hư tật xấu như người ham mê bài bạc, rượu chè, đĩ thõa, điếm đàng, du đãng, v.v... Tà nghiệp còn là những hành động phóng dật, chạy theo dục lạc ác pháp thế gian làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh, v.v... Tà nghiệp còn là những hành động sai trái phi pháp luật, làm ra tiền của phi pháp đem về nuôi thân mạng cũng như những hành động bắt và giết hại chúng sanh để trao đổi và buôn bán làm ra tiền nuôi sống cha mẹ, gia đình, vợ con, ... (Hành động tà nghiệp nuôi dưỡng tà mạng). Tà nghiệp là nghiệp quả khổ. Nhân tà nghiệp thì quả phải khổ đau.

Tà ngữ (PhậtDạy.2) là lời nói ác. Lời nói ác có bốn: 1- Nói lời hung dữ, 2- Nói lời đâm thọc, 3- Nói lời lật lọng, 4- Nói lời không thật. Người nào nói những lời ác ngữ là còn ở bờ bên này là bờ đau khổ. Chính lời ác khẩu là sự đau khổ của người có lời nói ấy, khi ta nói lời tà ngữ ấy là địa ngục mở cửa đón ta.

Tà niệm (PhậtDạy.2) là tu theo pháp môn của ngoại đạo, người tu tập theo pháp của ngoại đạo (như: tụng kinh, niệm chú, niệm Phật bắt ấn, ngồi thiền ức chế tâm, tụng kinh cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, trừ tà yểm quỷ, v.v. Người nào chuyên tu hành những pháp môn ấy là mở cửa địa ngục, sẽ lọt vào thế giới tưởng, sẽ bị bệnh thần kinh điên khùng, là người ở bờ bên này là bờ đau khổ, bờ không giải thoát). Cũng gọi là tà niệm là những niệm thường xảy ra trong thân, thọ, tâm và pháp của chúng ta khiến cho cuộc sống của chúng ta bất an. Tà niệm loại này được chia làm hai phần: - Tà Niệm thuộc về tâm, có nghĩa là tâm buồn rầu, lo sợ, giận hờn, ghen tức, căm thù, thương nhớ, phiền não, v.v… , - Tà Niệm thuộc về thân, có nghĩa là thân bị bệnh khổ, đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia, ngứa ngáy, mỏi mệt, chóng mặt, đau lưng, đi đứng không vững vàng, v.v… Muốn loại trừ những tà niệm này thì phải tập sống trong Chánh Niệm tức là tu tập Tứ Niệm Xứ.

Tà niệm trên thân, thọ, tâm và pháp (ĐườngVề.4) là chướng ngại pháp, là đau khổ, là buồn rầu, lo sợ, là giận hờn, thương ghét, v.v…

Tà pháp của ngoại đạo (Tạoduyên) giáo pháp của Bà La Môn mạo danh là giáo pháp của Đức Phật,

Tà tín (ChùaAm) là tin có cõi Cực Lạc Tây Phương, là tin có linh hồn người chết, là tin có thế giới siêu hình, là tin có tà ma, quỷ quái, là tin có địa ngục, ngạ quỷ, là tin có Thần Thánh, Tiên Phật, là tin có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Chúa Trời, là tin có Thập Ðịa Diêm Vương, Thủy phủ, Thủy tề, Long Vương, Hà Bá, Bà Thủy, v.v... Những điều tà tín này là mê tín. Những điều tà tín này không phải do lời dạy của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI mà do những lời dạy của các Tổ ngoại đạo Bà La Môn, Ðại Thừa, Thiền Tông. Các ngài đã biến Phật giáo thành một Phật giáo mê tín của Trung Quốc hoàn toàn chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, Lão giáo.

Tà tinh tấn  (PhậtDạy.2) là siêng làm điều ác, luôn luôn làm khổ mình, khổ người, khổ tất cả chúng sanh. Người siêng năng làm điều ác là người mở cửa địa ngục cho mình là người ở bờ bên này, bờ đau khổ.

Tà trí (PhậtDạy.2) là tri kiến không có giới luật, tri kiến không có giới luật là tri kiến ác, ác với mình, với người và ác cả hai, tri kiến không giới luật là tri kiến làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Người có tri kiến này là người khổ đau, người ở bờ bên này, người ở trong địa ngục.

Tà trí tuệ (TruyềnThông.1) là tưởng tri, là cái hiểu không đúng như thật. Chính cái hiểu biết không đúng như thật đã đưa con người vào vòng lẩn quẩn của nhân quả nghiệp báo không có lối thoát ra. Do sự hiểu biết không đúng như thật nên mới chấp thân tâm này là ta, là của ta.

Tà tư duy (PhậtDạy.2)(Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) Tà tư duy là suy nghĩ một điều gì, điều đó làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Nói cho rõ ràng hơn là sự suy nghĩ làm cho chúng ta buồn khổ, phiền não, tức giận căm ghét, thương nhớ, lo sợ, âu sầu, v.v... Tà tư duy là tâm tính hung dữ, gian tham, sân hận, thù oán, ganh ghét, tị hiềm, kiêu căng, ngã mạn, xan tham, tật đố, v.v… Chính vì tà tư duy là ác tuệ. Ác tuệ là tri kiến suy nghĩ về tham dục, tri kiến về sân hận, si mê, ngã mạn, nghi ngờ... Sự suy nghĩ như vậy là không giải thoát, là đau khổ, địa ngục. Vì thế, Ðạo Phật không chấp nhận những sự tư duy như vậy, đó là những tư duy của người không có trí còn sống trong mê mờ ngu si.

Tài (10Lành) là tiền của, tài sản.

Tàng trữ (PhậtDạy.1)(CầnBiết.3) là giữ lại, nén lại.

Tạo duyên mới (PhậtDạy.2) phải tu tập đúng giới luật và pháp do lời dạy của Thầy, còn sống và tu tập không đúng lời dạy này là tạo hết duyên.

Tăng (PhậtDạy.2)(Phậtdạy.3)(ĐườngVề.9)(3Qui5Giới) là một người tu sĩ đạo Phật, những người còn đang sống hiện tiền, là gương hạnh sống động nhất cho cuộc đời tu hành của ta. Họ là giới luật sống mà hằng ngày. Họ là những cuốn tự điển sống để tra cứu các pháp hành không bao giờ sai. Tăng là tịnh hạnh (Hạnh toàn Mỹ), người đang thực hành Pháp và chứng đạt sự thật do đấng đã giác ngộ và thuyết minh. Họ sống giống như Phật, ăn như Phật, làm như Phật, đi như Phật, v.v… Họ là giới luật sống mà hằng ngày ta gặp. Tăng là người cạo bỏ râu tóc, mặc y áo thô xấu, sống chỉ có một bộ y, gồm y thượng, y trung và y hạ. Một chiếc bát để xin cơm ăn, sống không gia đình, không nhà cửa, giữ hạnh tri túc thiểu dục, ngày đi xin ăn, tối ngồi thiền xả tâm. Tăng là một người tu sĩ sống đúng 10 Thánh hạnh: 1- Thánh đức hiếu sinh, 2- Thánh đức buông xả, 3- Thánh đức thanh tịnh, 4- Thánh đức chân thật, 5- Thánh đức minh mẫn, 6- Thánh đức tự nhiên, 7- Thánh đức trầm lặng độc cư, 8- Thánh đức thanh bần, 9- Thánh đức ly dục, 10- Thánh đức ly tham.

Tăng Bảo (3Qui5Giới)(CữSĩTu) là những vị tu sĩ Phật giáo, là Bậc Thánh Tăng phạm hạnh, tu hành đã chứng đạt chân lý có đủ Dũng-Trí-Bi, có đủ Tứ vô lượng tâm… luôn làm gương hạnh thiện pháp cho Phật Tử làm nơi nương tựa Qui-Y để Tu tập. Có Tăng Bảo mới soi sáng cho chúng ta thấy được Pháp Bảo và Phật Bảo, sống như Phật, giới luật nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thường làm gương sáng hay làm ngọn đuốc Ðức Hạnh cho mọi người soi. Họ là những vị Tăng Sĩ cạo bỏ râu tóc, đắp áo Cà Sa, ta bà khất thực, ăn chay ngày một bữa, sống y như Phật, thiểu dục tri túc, giới đức tinh nghiêm, làm gương hạnh sáng cho mọi người soi. Tăng Bảo là người nêu cao Phạm hạnh của Phật giáo, là người mô phạm gương mẫu cho mọi người tu tập theo Phật giáo. Nương tựa vào vị ấy tức là QUY Y TĂNG BẢO. Chọn lựa một vị thánh tăng để quy y là phải chọn một vị tu sĩ cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia sống không gia đình, không nhà cửa, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không, vị tu sĩ ấy phải biết “thiểu dục tri túc”, tức luôn luôn biết đủ, không bao giờ thấy thiếu một vật gì. Tăng là một con người đang sống như mọi người, nhưng là một người đã tu chứng đạt chân lý, nên người ấy có nhiều kinh nghiệm trên đường tu tập để hướng dẫn những người khác. Nhờ có Tăng Bảo mà mọi người mới thực hiện đúng Phật pháp. Tăng Bảo là ngôi thứ ba nhưng lại quan trọng nhất trong ba ngôi Tam Bảo. Không có Tăng Bảo thì không bao giờ chúng ta giác ngộ chân lý; không giác ngộ chân lý thì biết gì mà hộ trì chân lý. Chân lý không được hộ trì thì làm sao chứng đạt được chân lý. Khi tu tập gặp những khó khăn hay rắc rối, hỏi kinh thì kinh không thể trả lời được. Cho nên Pháp Bảo quý mà không quý bằng Tăng Bảo. Khi nương tựa (quy y) vào người này, thì được người ấy khai ngộ chân lý, người ấy dạy chúng ta hộ trì chân lý. Chân lý được hộ trì thì không bao lâu chúng ta chứng đạt chân lý. Khi chứng đạt chân lý xong là chúng ta sẽ làm chủ: sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Đức Phật đã dạy: “Muốn tìm hiểu Phật giáo thì phải chọn một vị Thầy tâm hết tham pháp, sân pháp, si pháp”.

Tăng Bảo đầu tiên (3Qui5Giới) 5 anh em Kiều Trần Như.

Tăng bạt (OaiNghi) là lời nhắc nhở cho tu sĩ trước mỗi bữa ăn để nhớ cố gắng tu hành, đừng quên trách nhiệm và bổn phận của mình là lúc nào cũng phải cố gắng ly dục ly ác pháp. Tuy bài xướng tăng bạt này của Ðại thừa để nhắc nhở người tu niệm Phật, nhưng Tu Viện Chơn Như đã biến nó trở thành một bài kinh nhắc nhở cho người tu sĩ ly dục ly các ác pháp. (Bài tăng bạt này của Ðại thừa như sau: Phật chế: Tỳ kheo thực tồn ngũ quán. Đại chúng văn khánh thinh, các chánh niệm.)

Tăng đoàn (ThanhQui) trong một tăng đoàn ít nhất phải có 5 người, nhiều nhất phải có 20 người không được hơn số lượng này. Các đoàn viên phải sống đúng những oai nghi tế hạnh như sau: 1- Phải đầy đủ oai nghi Chánh hạnh. 2- Sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt. 3- Chấp nhận giữ gìn giới luật. 4- Giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý không cho dính mắc sáu trần (độc cư). 5- Ăn uống phải tiết độ, không nên ăn uống phi thời. 6- Ngủ nghỉ phải theo giờ giấc nhất. Nếu đoàn viên nào cảm thấy sống với sáu điều này không nổi thì hãy xin ra khỏi Tăng đoàn.

Tăng hiện tiền (GiớiĐức.2) Là chúng tăng hòa hợp làm pháp yết ma dứt sự rầy rà.

Tăng thượng (PhậtDạy.2) Tăng là giới luật; thượng là thanh tịnh. Trong Ðạo Phật nói đến Tăng là nói đến giới luật. Tăng Thượng là giới luật nghiêm chỉnh. Nghĩa chung của “Tất cả pháp lấy niệm làm tăng thượng” là “Tất cả pháp lấy ý niệm sống đúng giới luật không hề vi phạm”. Mới vào tu theo Phật giáo thì phải được học và tu tập pháp môn thứ nhất đó là pháp Tăng Thượng tâm tức là lấy ý thức tu tập Giới Luật, vì ý thức là pháp dẫn đầu ly dục ly ác pháp. Giới luật là thiện pháp, là Thánh hạnh (hạnh không làm khổ mình, khổ người.

Tăng thượng mạn (CầnBiết.2) Chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã chứng.

Tăng thượng tâm (PhậtDạy.2) tức là lấy ý thức (niệm) tu tập Giới Luật.

Tăng trưởng (Đường Về.7) là làm cho lớn, cho nhiều, cho mạnh.

Tâm (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5)(CưSĩTu)(4Tâm) là sự hiểu biết, sự tư duy, là niệm khởi, là vọng tưởng, là sự suy tầm, là tầm tứ. Tâm là quả của ý, tâm không có tâm căn. Tâm là một xứ trong bốn Niệm Xứ: thân, thọ, tâm, pháp. Người ở ngoài đời cũng như các tôn giáo khác, trong đó có Ðại thừa, Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông, Pháp Hoa Tông, Mật Tông, v.v... đều cho tâm này là linh hồn, là Phật tánh, là tánh Không, là Chơn như, là trí tuệ Bát Nhã, là bản thể của vạn hữu, v.v... Ðó là một sự hiểu biết lầm lạc bằng ảo tưởng.

Tâm bất an (ĐườngVề.1) tức là tâm vẫn còn trong chướng ngại pháp, tâm chưa xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp; tâm chưa xa lìa lòng ham muốn và các ác pháp mà vào thất ngồi tu, đó là cách thức ức chế tâm, nén tâm. Tu như vậy làm sao có giải thoát được con phải tu trở lại cho đúng pháp.

Tâm Bất Động (12Duyên)(CầnBiết.4)(ThiềnCănBản)(MuốnChứngĐạo)(OaiNghi)(TâmThư.1) là trạng thái chung của những người chứng đạo khi thân và ý thức không xúc chạm nhau. Tâm Bất Động chính là tâm vô ngã; tâm vô ngã chính là tâm ly dục ly ác pháp; tâm ly dục ly ác pháp chính là tâm không phóng dật; tâm không phóng dật chính là tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm bất động thì các thọ khổ không tác động vào tinh thần sắt đá, nhất là trước các loại cảm thọ của thân mà tâm bất động, đó là một loại thiền định xả cảm thọ thì tâm mới bất động. Tu hành muốn đạt được chỗ tâm bất động không phải dễ. Tâm bất động có hai phần: 1- Tâm bất động thuộc về tâm do tri kiến giới luật đức hạnh. 2- Tâm bất động thuộc về thân do tri kiến tỉnh thức định Tứ Thiền. Nhờ nhập vào Tứ Thiền, sức định lực của Tứ Thiền quét sạch các cảm thọ nên tâm không còn cảm nhận thọ khổ vì thế tâm mới bất động dễ dàng.

Còn có một tâm bất động, đó là ý chí ngút ngàn xem thường các cảm thọ, mặc dù tâm chưa có thiền định nhưng nhờ tín lực “chết bỏ” không sợ các cảm thọ nên thản nhiên trước sự đau đớn tận cùng sức chịu đựng của bãn thân.

Nếu Tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự kéo dài thời gian sáu giờ cho đến một ngày đêm, và từ một ngày đêm cho đến 7 ngày đêm là đã chứng đạo quả A La Hán hoàn toàn. Trong khi tâm bất động đó phải không có một niệm nào khởi lên, nếu còn có bất cứ một niệm nào khác khởi lên là không phải tâm bất động. Có bất cứ một niệm nào khác khởi lên, phải tác ý đuổi ngay liền. Phải giữ gìn và bảo vệ tâm bất động vô lậu, đó là niệm duy nhất, là chân lí của đạo Phật. Ðạo Phật chỉ có tu tập giữ tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự, nhờ đó tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi là chứng đạo. Tâm Bất Động là pháp giải thoát thực tế và cụ thể của Phật giáo. Người giữ gìn được tâm Bất Động thì khổ đau biến mất, chỉ còn lại sự thanh thản, an lạc và vô sự trong tâm. Ngược lại người nào lìa Tâm Bất Động thì ngay đó tâm tham lam, sân, si, giận hận, phiền não nổi lên ngút ngàn, v.v… Tâm Bất Động không phải là khó tu tập, chỉ cần chúng ta phá hết hôn trầm thùy miên và loạn tưởng thì tâm Bất Động ngay tại đó. Muốn phá hôn trầm thùy miên và loạn tưởng thì chỉ có tu tập pháp Thân Hành Niệm.

Tâm Bất Động hoàn toàn (MuốnChứngĐạo) là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự, tức là tâm ở trạng thái không phóng dật như Phật ngày xưa. Đức Phật đã xác định cho chúng ta biết trạng thái này là cứu cánh Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, muôn pháp lành cũng đều nơi đó sinh ra.” Khi tâm ở trong trạng thái bất động Niết Bàn thì tâm không phóng dật theo các pháp, nên tâm luôn luôn tự nhiên ở trên hơi thở ra, hơi thở vào. Cho nên câu tác ý “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra” là chỉ rõ tâm bất động luôn luôn biết hơi thở ra vào nhẹ nhàng, êm ái mà không do dụng công chút nào cả, nếu còn dụng công để tâm biết hơi thở ra vào là chưa giải thoát.

Tâm bất động Nguyên Thủy (ĐườngVề.3) không có nghĩa là tâm không có niệm thiện, niệm ác. Tâm bất động Nguyên Thủy là tâm ly dục ly ác pháp, nên tâm tham, sân, si đều xả sạch; tâm bất động là tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.

Tâm Bất động thanh thản an lạc (TrợĐạo) “Ly dục, ly bất thiện pháp. Do ly dục sinh hỷ lạc.” Danh từ Hỷ Lạc ở đây có nghĩa là Hân Hoan Vui Vẻ và An Lạc. Khi dẹp bỏ Lòng Tham Muốn thì lại được tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự. Biết rõ chân lý Diệt Đế là một trạng thái giải thoát trong thân tâm của mỗi người nên dùng pháp Như Lý Tác Ý, tác ý ngay chân lý tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc, Vô Sự để giữ gìn và bảo vệ nó, khiến cho nó luôn luôn hiện tiền trong tâm thì Lậu Hoặc không còn, có nghĩa là đau khổ không còn nữa.

Tâm bất lạc (TruyềnThống.1) là tâm phiền não, khổ đau lo rầu, sợ hãi, khóc thương, tâm trạo hối, tâm loạn động, v.v... Bất lạc tức là lậu hoặc bất lạc là sự chưa chứng đạt. Trong bài kinh Bát Thành này dạy chúng ta nên vững trú ở trạng thái hoan hỷ thì cái gì chưa chứng đạt sẽ được chứng đạt.

Tâm bi (TruyềnThống.1) là lòng thương xót tất cả chúng sanh. Lòng bi đối trị tâm hãm hại. Do lòng thương xót thấy mọi vật đau khổ, tàn héo, khô cằn, đang rên la kêu khóc, đang quằn quại rên rỉ khiến ta cầm lòng không được, nên bỏ qua tất cả lỗi lầm mà họ đang cố hại chúng ta. Lòng bi khiến cho ta nhớ đến những nỗi thương đau chung của muôn loài chúng sanh, do đó chúng ta không nỡ lòng nào ghen ghét, ganh tị cố tâm làm hại chúng được. Chúng sanh đã từng chịu nhiều khổ đau trong qui luật của nhân quả, thế sao ta lại nỡ đành lòng làm hại chúng? Làm giảm sự đau khổ cho đời thì ta nên cố gắng hết mình để không làm hại mình hại người hại cả hai.

Tâm bị dục tham ám ảnh (PhậtDạy.1) là lòng tham muốn hiện ra lởn vởn trong trí day dứt không yên.

Tâm bị dục tham ám ảnh, bị dục tham chi phối (PhậtDạy.1) là khi ngồi lại một mình nơi thanh vắng thì lòng tham muốn khởi lên day dứt, tác động điều khiển sai khiến chúng ta làm theo ý muốn của tâm, làm cho ta mất tự chủ. Người đời không biết tu hành nên dễ bị tâm tham dục sai khiến, khiến cho cuộc đời vốn khổ đau lại càng khổ đau hơn.

Tâm Bị Động (MuốnChứngĐạo) Khi tâm Bị Động thì chúng ta phải chịu biết bao nhiêu sự khổ đau. Không làm chủ được tâm tham, sân, si, mạn, nghi thì muôn ngàn ác pháp bên ngoài tấn công vào thân tâm khiến tâm Bị Động. Khi tâm Bị Động thì tâm có niệm.

Tâm bị hôn trầm, thùy miên, vô ký (TâmThư.1) thì phải tu tập pháp Thân Hành Niệm.

Tâm câu hữu (TruyềnThống.1) là “tâm tập hợp” hay “tâm kết hợp”. Tập hợp hay kết hợp có nghĩa là tập hợp hay kết hợp pháp này với pháp kia.

Tâm câu hữu với lòng từ (TruyềnThống.1) là đem tâm kết hợp với lòng yêu thương. Pháp môn của Phật dạy thường hay có sự kết hợp các pháp môn khác lại để trở thành một pháp môn độc đáo, khi tấn công vào giặc sanh tử với pháp môn ấy thì chúng đành phải bị tiêu diệt, vì những pháp môn ấy kết hợp quá chặt chẽ. Ví dụ 1: Tu Định Niệm Hơi Thở và kết hợp với lòng từ bằng cách nương vào hơi thở và tác ý: “Tất cả chúng sanh đều đau khổ cũng giống như ta vậy, ta phải thương yêuchúng như chính thương yêu ta, hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Khi tác ý như vậy và thở đúng năm hơi thở rồi chúng ta tác ý trở lại câu trên. Cách thức tu tập như vậy gọi là lòng từ câu hữu với hơi thở. Ví dụ 2: Đi kinh hành ta câu hữu với tâm từ “Tất cả chúng sanh đều có sự đau khổ như nhau, cũng sợ chết như ta. Ta phải thương yêu chúng như chính thương ta, tôiđi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi đi kinh hành đếm đúng 10 bước, đứng lại, nhắc câu tác ý trên. Khi tác ý xong ta lại bước đi trong im lặng và lắng nghe từng bước đi mà âm thanh tác ý còn vang mãi trong tâm chúng ta với lòng thương yêu chân thật đối với chúng sanh. Bất cứ làm công việc gì cũng đều có thể tu tập và kết hợp với lòng từ qua những hành động đang làm việc. Bền chí tu tập như vậy từ một tháng đến 7 tháng khi tâm vững trú ở trạng thái thương yêu này thì đoạn trừ tất cả các lậu hoặc.

Tâm Chân Như (ĐườngVề.3) là tâm chẳng niệm thiện, niệm ác. Tâm chẳng niệm, thiện niệm ác là tâm không niệm. Tâm không niệm là tâm chẳng có ích lợi gì cho đời sống tu hành giải thoát của mình. Tâm Chân Như khi xả ra, trở lại tâm bình thường thì tham, sân, si vẫn còn dẫy đầy, không muội lượt chút nào.

Tâm chủ động điều khiển sắc ấm (ThiềnCănBản) là tâm điều khiển vượt qua sáu trạng thái tưởng ấm: sắc tưởng, thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng.

Tâm chủ động điều khiển Thức ấm (ThiềnCănBản) là tâm xả Hành ấm.

Tâm chưa thuần thục (PhậtDạy.1) Ở đây đức Phật muốn nói giới luật chưa nghiêm chỉnh, tâm chưa ly dục ly ác pháp.

Tâm có định (12Duyên) Khi tâm bất động không còn niệm vọng tưởng và hôn trầm thùy miên vô ký xen ra, xen vô. Tâm có định sẽ có một niềm vui an lạc; tâm có định thì thân tâm phải nhẹ nhàng và an ổn; có duyên của LẠC là phải có duyên của KHINH AN; đó là duyên của chúng không thể tách lìa ra được.

Tâm có Định lực (ThiềnCănBản) là tâm diệt Thọ ấm.

Tâm có nội lực (ThiềnCănBản) là tâm chủ động điều hành Thọ ấm.

Tâm diệt tầm ác (ThiềnCănBản) là tâm dừng được sáu thức.

Tâm diệt Thọ ấm (ThiềnCănBản) là tâm điều khiển Thức ấm.

Tâm diệt tứ (ThiềnCănBản) là tâm nhập Nhị Thiền.

Tâm dừng được sáu thức (ThiềnCănBản) là tâm diệt tứ.

Tâm điều hành Thọ ấm (ThiềnCănBản) là tâm có Định lực.

Tâm điều khiển vượt qua sáu trạng thái tưởng ấm (ThiềnCănBản) là tâm ly hỷ.

Tâm điều khiển xả Thọ ấm (ThiềnCănBản) là tâm có nội lực.

Tâm định tỉnh (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là năng lực để nhập Bốn Thiền và thực hiện Tam Minh. Trạng thái định tỉnh là trạng thái bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ. Nhưng phải hiểu định tỉnh là trạng thái bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ, Chính nó là tâm không phóng dật, chớ không phải không niệm suông, nên lưu ý. Nếu nhận trạng thái bất động tâm trước các pháp và các cảm thọ là trạng thái không niệm của thiền Ðông Ðộ và Ðại Thừa thì nguy hiểm cho đường tu tập.

Tâm định tỉnh, nhu nhuyễn (ĐườngVề.3) Tâm định tỉnh, nhu nhuyễn là tâm ly dục ly ác pháp, tâm ly dục ly ác pháp là tâm sống đúng giới luật nghiêm túc, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả. “Khi tâm định tỉnh, nhu nhuyễn dễ sử dụng thì nhập định không có khó khăn, không mệt nhọc, không có phí sức”.

Tâm định trên thân (ĐườngVề.6)(ĐườngVề.8)(Tạoduyên) là tâm ly dục, ly ác pháp nhập Bất Ðộng Tâm Định. Tâm định trên thân luôn luôn biết hơi thở ra, vô và cảm giác toàn thân, suốt ngày đêm không ngủ. Chính lúc này tâm đang quán trên thân, khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống đều biết chỉ có một tâm đó, tức là đang tu tập Tứ Niệm Xứ. Lúc nhập Sơ Thiền là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật, tức là sáu thức đã quay vào trong thân, nên thân động dụng việc gì thì sáu thức đều biết rõ, biết rõ bên trong mà không biết bên ngoài, lúc này gọi là tâm định trên thân. Gom tâm đúng nghĩa của Phật dạy là tu tập “Tứ Chánh Cần”. Tu tập Tứ Chánh Cần là ngăn ác pháp và diệt ác pháp, ngăn ác pháp và diệt ác pháp, tức là ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp tức là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật, tức là tâm hướng vào trong thân, nói cách khác là tâm định trên thân; tâm định trên thân, tức là “gom ý thức diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền”.

Tâm định trên thân, thân định trên tâm (ĐườngVề.9) là một nội lực của tâm rất lớn và vi diệu, khiến cho tâm nhu nhuyễn, định tĩnh, dễ sử dụng. Tịnh chỉ hơi thở, tức là không còn đối tượng của tâm, nên thân định trên tâm và tâm định trên thân. Tịnh chỉ năm thức là điều khiển năm thức ngưng hoạt động; điều khiển năm thức ngưng hoạt động tức là tịnh chỉ hơi thở; tịnh chỉ hơi thở tức là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Ðến Tứ Thiền sao lại còn gom năm thức? Gom năm thức, ở đây cần phải hiểu, năm thức còn hoạt động bên trong nên gom năm thức, tức là tịnh chỉ năm thức. Tịnh chỉ năm thức là điều khiển năm thức ngưng hoạt động; điều khiển năm thức ngưng hoạt động tức là tịnh chỉ hơi thở; tịnh chỉ hơi thở tức là xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Hay nói một cách khác là “thân hành tịnh chỉ”.Thân hành tịnh chỉ tức là nhập Tứ Thiền hay nói cách khác là gom năm thức nhập Tứ Thiền.

Tâm đóng mở sáu căn (ThiềnCănBản) là tâm chủ động điều khiển sắc ấm (thân tứ đại).

Tâm giải thoát không còn khổ đau (12Duyên) sống với tầm thiện thì tâm ta thanh tịnh không có hoàn cảnh, đối tượng nào, khiến tâm ta dao động. Là nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh hay là nhập Vô Tướng Tâm Ðịnh..

Tâm hành (PhậtDạy.4)(MuốnChứngĐạo)(CầnBiết.5) là tâm khởi ra niệm này niệm kia, là tâm ở trong sự hoạt động tư duy, là sự hoạt động quán xét tư duy của tâm. “Cảm Giác Tâm Hành” là cảm nhận từng sự tư duy đó của tâm.

Tâm hết chiêm bao (ThiềnCănBản)) là tâm nhập Tam thiền.

Tâm hoang vu (Phậtdạy.3) là tâm rừng rú, tâm chưa được huấn luyện, tâm chưa được huấn luyện là tâm giống như con dã thú trong rừng rú hoang vu. Là Tâm chưa được huấn luyện, chưa được tu tập Tứ Niệm Xứ. Tâm rừng rú hoang vu có năm: 1.- Thứ nhất: nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư nên không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. 2.- Thứ hai:nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín đối với Pháp nên không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. 3.- Thứ ba: nghi ngờ đối với Tăng, Này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo nào nghi ngờ, do dự không quyết đoán, không tịnh tín đối với Tăng nên không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. 4.-Thứ tư: Nghi ngờ, do dự không quyết đoán, không tịnh tín đối với Học Pháp nên không hướng về sự nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. 5.- Thứ năm: Phẫn nộ đối với các vị đồng Phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động trở thành hoang vu nên không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn.

Tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự (ĐườngVề.3) là trạng thái mà chư Phật sau khi bỏ thân này đều ở nơi đó. Nếu giữ được tâm ấy, khi chết sẽ gặp chư Phật và Thầy. Cố gắng đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm, pháp thì tâm sẽ thành tựu tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Chỉ cần hai mươi bốn tiếng đồng hồ (tâm không phóng dật) tâm đạt được trạng thái như vậy là đã tu xong rồi, đó là tâm đã chứng đạt chân lí, tâm sẽ không còn phóng dật. Hãy nghe đức Phật nhắc nhở chúng ta trong lời dạy cuối cùng trước khi nhập Niết Bàn: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”

Tâm hướng về Tam Minh (ThiềnCănBản) là tâm nhập trí tuệ vô lậu.

Tâm hữu lậu (PhậtDạy.4) là Tâm chưa bất động, chưa an trú. Tâm còn dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu, phải chịu nhiều đau khổ.

Tâm không buông lung (ĐườngVề.2)(Đường Về.7)(TâmThư.1) là ý thức không phóng dật, không khởi niệm ham muốn cái này cái kia (là Tâm không phóng dật). Ý thức không phóng dật là ý thức không buông lung chạy theo pháp trần, nhưng các niệm thiện vẫn còn. Vì thế đức Phật dạy: “Vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung mà có được”. Cho nên, tâm không phóng dật, nhưng các pháp lành từ nơi tâm không phóng dật mà sanh ra. Khi dứt bỏ thất kiết sử thì tâm không còn phóng dật; tâm không còn phóng dật tức là tâm định trong thân; tâm định trong thân thì tâm thường thanh thản, an lạc và vô sự; tâm thường thanh thản an lạc và vô sự thì tâm luôn luôn biết hơi thở ra vô một cách tự nhiên không bị ức chế hay bị gom tâm tập trung vào một chỗ. Khi tâm định trên thân như vậy thì lúc bây giờ là lúc tu thiền định để nhập các định sâu hơn và khó hơn.

Tâm không hành (MuốnChứngĐạo) là tâm không khởi niệm; là tâm tịnh, tâm im lặng.

Tâm không nhân quả (TâmThư.2) là chỗ tâm bất đọng trước các ác pháp và các cảm thọ. Tâm còn động là còn nhân quả, còn nhân quả thì còn tái sinh luân hồi. Nếu ai biết dùng Ðức Hiếu Sinh trong cuộc sống hằng ngày thì tâm người đó không bao giờ thấy lỗi người, do không thấy lỗi người nên tâm Bất Ðộng. Tâm bất động là có giải thoát ngay liền.

Tâm không niệm (Đường Về.7)(TâmThư.1) là ý thức không khởi niệm vọng tưởng. Ý thức không khởi niệm là pháp môn của ngoại đạo. Người tu hành không phải diệt hết vọng tưởng. Diệt hết vọng tưởng để trở thành cây, đá thì còn ý nghĩa gì là sự giải thoát. Tu là để làm chủ những sự đau khổ, để hết đau khổ, chứ đâu phải tu là làm cho chúng ta trở thành người ngu ngơ, ngẩn ngơ như người mất hồn, đi thì gầm gầm không dám ngó nhìn ai; nói nói, cười cười một mình. Tu là đem lại cho người tu một tâm hồn hân hoan vui vẻ, hành động đoan trang, chánh trực; không liếc xéo, liếc ngang, không nói xấu, nói lỗi người khác, không li gián người này với người kia. Tu là đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng, thoải mái, chứ đâu phải đi cúi đầu, khom lưng, bước thấp bước cao.

Tâm không phóng dật (PhậtDạy.2)(ĐườngVề.2)(ĐườngVề.6) Tâm không phóng dật là tâm bất động trước ác pháp và các cảm thọ do ly dục, ly bất thiện pháp, tức là tâm lìa tham, sân, si, mạn nghi, là tâm đã ly dục ly ác pháp. Tâm đã ly dục ly ác pháp nên lúc nào tâm cũng định vào thân. Nếu thân bất động thì nó định vào sự bất động của thân, nếu thân còn động thì nó sẽ định vào sự động của thân. Khi nó định vào thân thì thân đi nó biết thân đi, thân làm gì nó biết thân làm, thân ngồi nó biết thân ngồi, thân thở nó biết thân thở (nó biết hơi thở ra và hơi thở vô), thân nằm nó biết thân nằm. Khi tâm không phóng dật thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì tâm định trên ba nơi: 1/ Nếu thân đi hay làm việc gì thì tâm định nơi hành động đi hoặc nơi hành động việc làm. 2/ Nếu thân ngồi hay nằm thì tâm định nơi hơi thở vô, hơi thở ra. 3/ Nếu thân không hoạt động, không thở vô thở ra thì tâm định trên thân bất động của nó chứ nó không có phóng tâm chạy theo các pháp bên ngoài. Chỉ có xả ly tâm tham, sân, si mới có sự giải thoát chân thật. Tâm không phóng dật không phải do ức chế tâm, không phải là tâm chẳng niệm thiện niệm ác. Các pháp dạy tâm không phóng dật như: Ðịnh niệm hơi thở, Ðịnh sáng suốt, Ðịnh vô lậu, Ðịnh chánh niệm tĩnh giác, Tứ niệm xứ trên Tứ niệm xứ để khắc phục tham ưu và Thân hành niệm. Đức Phật đã xác định rõ ràng sự bất tử hay là sự ra khỏi sanh tử, chỉ duy nhất là làm sao phải đạt cho được kết quả là “tâm không phóng dật”, Tâm không phóng dật là có Bảy năng lực Giác Chi xuất hiện. Do Bảy năng lực Giác Chi xuất hiện mà đức Phật dạy: “Tâm thuần tịnh, định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng”. Nếu tu tập mà tâm chưa thấy Bảy Giác Chi xuất hiện là do tâm còn phóng dật, còn phóng dật là đã tu sai, hoặc tu không kỹ lưỡng, hoặc đã lọt vào thiền Ðại Thừa hay Thiền Ðông Ðộ. Nếu tâm không phóng dật trong lúc tu tập, khi xả ra thì phóng dật đó là tu tập ức chế bằng những pháp môn “Chẳng niệm thiện niệm ác” của Thiền Ðông Ðộ, tu ức chế tâm nên Bảy Giác Chi không xuất hiện. Bảy Giác Chi không xuất hiện thì không có đủ năng lực nhập các định, làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi. Những người trí tuệ xem sự phóng dật của tâm là một điều tối kị nhất trong đạo Phật. Muốn làm chủ sanh, già, bệnh, chết mà tâm còn phóng dật thì chẳng bao giờ làm chủ được.

Tâm không vọng niệm tức Tâm không vọng tưởng (PhậtDạy.4)(TâmThư.1) là tâm không niệm thiện niệm ác. Khi Tâm không vọng tưởng là lạc vào thiền Ðại Thừa, thiền Ðông Ðộ hay thiền Minh Sát Tuệ, không phải là thiền định của Phật giáo, không còn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ được nữa.

Tâm lìa ý muốn và diệt tầm ác (ThiềnCănBản) là tâm thanh tịnh.

Tâm Linh (LinhHồn) là những gì mà con người không thể giải thích được. Khi những gì không giải thích được thì con người chỉ còn biết dùng từ Tâm Linh để tránh né sự ngu dốt, sự không hiểu biết của mình, cái gì không hiểu, không giải thích được thì phủ nhận hoặc cho đó là Tâm Linh chứ không chịu khó tìm hiểu những điều Kỳ Lạ đó là do cái gì làm ra. Thật ra sự kỳ lạ và mầu nhiệm đó là vì chúng ta chưa hiểu biết mà thôi. Vài nhà bác học và hầu hết những người không tin những điều kỳ lạ này đều phủ nhận. Sự mầu nhiệm này thật sự thì không mầu nhiệm chút nào cả, nếu chúng ta biết rằng Tưởng Uẩn trong thân chúng ta làm ra những sự mầu nhiệm này. Cho nên khi biết sự hoạt động của Tưởng Uẩn thì cuộc sống quanh chúng ta đâu còn cho là Bí Ẩn Kỳ Lạ, đâu còn cho là Tâm Linh, tất cả những hiện tượng gọi là tâm linh đều hoàn toàn do Tưởng Uẩn mà chỉ có Phật giáo mới vạch trần bộ mặt tâm linh mầu nhiệm của thế giới siêu hình. Tâm Linh mà mọi người đều hiểu biết, đó là Linh Hồn người chết. Linh Hồn người chết chẳng qua là ảo tưởng của mọi người đặt ra qua những hiện tượng mà ý thức con người không giải thích được.

Tâm linh sống động (TâmThư.1) tức là 18 loại hỷ tưởng xuất hiện mà từ lâu các Tổ sư Ấn Ðộ, Trung Hoa và Việt Nam đã chịu ảnh hưởng kinh sách Vệ Ðà của Bà La Môn giáo mà dạy về thiền này.

Tâm luôn luôn phóng dật phá hạnh độc cư (TrợĐạo) vào thất tu tập cứ sống ít hôm thì viết thư hỏi thầy điều này điều kia, xin cái này cái khác.

Tâm định tỉnh thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản (CầnBiết.4) Khi tu tập Tứ Niệm Xứ được sung mãn thì tâm chúng ta đạt được định tỉnh. Khi đạt được định tỉnh thì tâm chúng ta có những kết quả mà Đức Phật đã xác định rất rõ ràng: “Với tâm định tỉnh”, thì phải có thuần tịnh, tâm không còn cấu nhiễm, không còn phiền não, lúc nào cũng nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc và bình thản. Ở đây cần lưu ý: Phải tu tập Tứ Niệm Xứ được viên mãn thì tâm chúng ta mới đạt được những kết quả như Phật đã dạy trên.

Tâm giải thoát (CưSĩTu) là đề mục cuối cùng của Ðịnh Niệm Hơi Thở, khi tất cả các đề mục trên đều đã hoàn tất viên mãn thì đến đề mục này là tâm bất động hoàn toàn, có nghĩa là tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự, tức là tâm ở trạng thái không phóng dật. Một đề mục chỉ cho trạng thái Niết Bàn. Chỗ tâm bất động là Niết Bàn, là cứu cánh của Phật giáo. Khi tâm ở trong trạng thái bất động Niết Bàn thì tâm không phóng dật theo các pháp, nên tâm luôn luôn tự nhiên ở trên hơi thở ra, hơi thở vào. Cho nên câu tác ý: “Với tâm giải thoát tôi biết tôi hít vô; với tâm giải thoát tôi biết tôi thở ra”, là chỉ rõ tâm bất động là luôn luôn biết hơi thở ra vào nhẹ nhàng êm ái, mà không do dụng công chút nào cả, nếu còn dụng công để tâm biết hơi thở ra vào là chưa giải thoát.

Tâm Ly Dục (ThiềnCănBản) nghĩa là tâm hoàn toàn Ly Chấp Ngã. Nếu người tâm chưa sống ly dục, mà thường học hỏi những thiện pháp trong kinh sách để làm kiến giải riêng của mình, rồi dùng đó xả ly ác pháp và tâm ham muốn của mình, thì không bao giờ ly dục, ly ác pháp được, mà đó chỉ là lối tu tập đè nén tâm mình, hoặc tránh né tâm mình, hoặc trốn chạy tâm ham muốn và ác pháp mà thôi. Người nghèo không có vật tùy thân, không phải là người ly dục. Người có đầy đủ vật chất trên thế gian mà không dính mắc vào những vật chất ấy, người ấy ly dục! Người không thèm ăn thực phẩm này, thực phẩm khác là người ly dục.

Tâm ly dục ly ác pháp (PhậtDạy.1) là giải thoát phần thô về vật chất (không cải tài sản, không gia đình, không nhà cửa, thiểu dục tri túc, ba y một bát, không có sự ràng buộc, không bị dính mắc), giải thoát phần nội tâm (năm triền cái). Hai phần này gom lại là tâm không phóng dật, tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Tâm ly dục ly ác pháp làtâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ.

Tâm ly dục ly ác pháp chưa thật sạch (ĐườngVề.5) coi chừng có tưởng lực xuất hiện. Khi còn đang dùng dụng cụ rốt ráo Thân Hành Niệm để tu tập cho tâm ly dục ly ác pháp thì đó là tu tập làm cho ý thức thanh tịnh. Ðạo Phật lấy “Thân Hành" mà tu tập cho tâm được tỉnh thức. Nhờ tâm tỉnh thức mà thấu suốt được lý nhân quả vô thường, do thấu suốt được lý nhân quả vô thường nên các pháp ác không tác động vào thân tâm được. Do các pháp ác không tác động vào thân tâm được nên tâm định tỉnh, tâm định tỉnh tức là tâm không phóng dật. Khi tâm không phóng dật là tâm giải thoát, tâm giải thoát là tâm có đủ Bảy Giác Chi. Bảy Giác Chi là bảy năng lực giúp chúng ta làm chủ sanh tử chấm dứt luân hồi. Pháp của Phật là pháp xả tâm, ly dục, ly ác pháp chứ không phải pháp tập trung tâm để nhập định. Chánh định của Phật muốn nhập được là phải có Bảy Giác Chi. Bảy Giác Chi có được là nhờ ý thức ly dục ly ác pháp, tức là ý thức thanh tịnh.

Tâm ly dục ly bất thiện pháp (ThiềnCănBản) là tâm nhập tứ niệm xứ. Sau khi nhập tứ niệm xứ xong ta mới ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền.

Tâm ly hỷ (ThiềnCănBản) là tâm hết chiêm bao.

Tâm nhập Nhị thiền (ThiềnCănBản) là tâm chủ động điều khiển sáu thức.

Tâm nhập Sơ thiền (ThiềnCănBản) là tâm lìa ý muốn và diệt tầm ác.

Tâm nhập Tam thiền (ThiềnCănBản) là tâm đủ sức điều khiển xả Thọ ấm.

Tâm nhập trí tuệ giải thoát (ThiềnCănBản) là tâm chấm dứt đau khổ và sanh tử luân hồi.

Tâm nhập trí tuệ vô lậu (ThiềnCănBản) là tâm nhập trí tuệ giải thoát.

Tâm nhập Tứ thiền (ThiềnCănBản) là tâm xả Thức ấm.

Tâm như cục đất (ĐườngVề.10) là câu pháp huấn luyện tâm để tâm huân thành thói quen như đất chứ không phải tâm là cục đất thật, đất là đất tâm là tâm; tâm như đất có nghĩa là tâm không làm khổ mình, khổ người nữa tức là tâm không còn mang bản chất hoang dã của loài cầm thú nữa. Tâm như cục đất có nghĩa là tâm không có dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu tức là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Tâm như mọi người đang sống nhưng không có tham, sân, si, mạn, nghi.

Tâm phạm giới (Tạoduyên) tâm thường dong ruổi chạy theo sáu trần. Khi tâm phạm giới thì không làm sao tâm ly dục ly ác pháp được.

Tâm phóng dật (Tạoduyên) là tâm sẽ phạm giới, thường dong ruổi chạy theo sáu trần. Khi tâm phạm giới thì làm sao tâm ly dục ly ác pháp được.

Tâm sắc dục (PhậtDạy.4) Tâm sắc dục là con đường tái sanh luân hồi. Tâm sắc dục đoạn tuyệt thì con đường sanh tử luân hồi mới chấm dứt và không còn tái sinh nữa.

Tâm tán loạn (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là tâm còn nhiều tham ưu, nên niệm này kế tiếp niệm khác, suy tư lo nghĩ ưu phiền, lúc nào tâm cũng bất an. Trong kinh Tứ Niệm Xứ dạy tu tập bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp, tức là phương pháp truy quét tâm hay còn gọi là pháp môn đẩy lui các chướng ngại pháp trên thân và tâm đểđối trị tâm tán loạn, để thân tâm được thanh thản, an lạc và vô sự, tức là tâm không tán loạn.

Tâm tham ái (PhậtDạy.1)(PhậtDạy.4) Tham là sự tham lam, ham muốn, thường con người ai cũng có tâm tham lam và ham muốn: nhưng có người tham muốn nhiều, lại có người tham muốn ít. Muốn từ bỏ tâm tham muốn thì nên lưu ý từng hành động nhỏ nhặt của như: ăn, uống, ngủ nghỉ, vui chơi, giao tiếp với bạn bè, v.v... xem coi nó còn tham ăn, tham ngủ, tham nói chuyện. Từ bỏ được tâm tham ăn thì không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt, đúng giờ thì ăn, không đúng giờ thì không ăn. Và không bao giờ thèm ăn cái này hay thèm ăn cái kia. Tâm tham ái diệt thì khổ đau và luân hồi chấm dứt. Nếu tâm không tham ái thì tâm được tịch tịnh. Tâm được tịch tịnh thì tâm mới an trú. Tâm có an trú thì tâm mới bất động trước các pháp.

Tâm thanh thản, an lạc và vô sự (PhậtDạy.2)(ĐườngVề.2)(TâmThư.1)(ĐạoĐức.2) là tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm không có dục. Muốn có Tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì tu tập pháp Xả Tâm Vô Lượng.Tâm Thanh Thản, An Lạc và Vô Sựlà trạng thái của một con người hết khổ đau, trạng thái thân tâm trong sáng, hồn nhiên, thanh thản, an lạc, thoải mái và dễ chịu rất là hạnh phúc, trạng thái của tâm khi các ác pháp không tác động vào được. Ðó là chân lý thứ tư của con người, nơi về khi bỏ thân tứ đại này, nơi đó mãi mãi không còn tái sinh luân hồi nữa; nơi đó không còn khổ đau, nơi chư Phật ba đời đều an trú.

Tâm thanh thản, an lạc và vô sự trước mọi nghịch cảnh (TâmThư.1) đó là cứu cánh; là giải thoát; là đạo đức thương mình, thương người. Ðạo Phật chỉ có tâm bất độngthanh thản, an lạc và vô sự trước mọi nghịch cảnh, không phóng dật theo các ác pháp và chấm dứt chạy theo lòng ham muốn của mình. Người hiểu biết và thâm nhập đạo Phật như vậy thì đâu có gì tu tập nhiều; thì đâu có gì tu tập khó khăn, mệt nhọc; thì đâu có pháp gì làm chướng ngại thân tâm họ được. Do đó sự chứng đạo dễ dàng.

Tâm thanh tịnh (PhậtDạy.2)(Phậtdạy.3)(ĐườngVề.5)(12Duyên) là tâm bất động, tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa. Tâm thanh tịnh là tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, là tâm có đủ đạo lực sai khiến (điều khiển) và làm chủ được sanh già, bệnh, chết, tức làm chủ nhân quả hay còn gọi là làm chủ sự sống chết. Tâm thanh tịnh (tâm như đất) là tâm thiền định của đạo Phật. Có Tâm thanh tịnh thì mới có Bảy Năng Lực Giác Chi, nhờ bảy năng lực ấy mới làm cho khẩu hành ngưng hoạt động.Khi chưa có Bảy Năng Lực Giác Chi thì không làm gì nhập được Sơ Thiền. Chưa nhập được Sơ Thiền không làm gì có thân, tâm được thanh tịnh.

Tâm thanh tịnh bất động (ĐườngVề.5) là tâm không còn tham, sân, si.

Tâm thiền định (12Duyên) của đạo Phật là Tâm thanh tịnh, là tâm có đủ đạo lực sai khiến làm chủ sự sống chết.

Tâm thức (PhậtDạy.1) thuộc về thức uẩn có sự ghi nhớ, nhớ lại vô cùng tận, không bị không gian và thời gian hạn cuộc.

Tâm thường thanh tịnh (ThiềnCănBản) là tâm tùy tức.

Tâm tỉnh thức (ĐườngVề.5) khi bất chợt có người hỏi thì phải nhạy bén đối đáp, không thể ngơ ngơ mất tỉnh thức được. Phải luôn luôn quán tâm, khi tâm thanh thản biết tâm đang thanh thản, khi tâm khởi niệm biết tâm đang khởi niệm, thì dùng câu pháp hướng đánh bạt niệm khởi xuống rồi, buông niệm, buông luôn câu pháp hướng không được ôm giữ khư khư câu pháp hướng, có nghĩa là quán xét xả tâm trong trạng thái câu pháp hướng đó, chứ không phải niệm pháp hướng. Xong rồi để tâm trở về trạng thái bình thường, thanh thản, an lạc và vô sự.

Tâm trạng tà dâm (ThanhQui) Tâm trạng tà dâm là tâm không ngay chính. Khi khởi ý nhìn ngó một người nữ khác hay một người nam khác, khi thấy họ có sắc đẹp và có tài đức mà sinh lòng yêu thích thì biết ngay đó là tâm trạng tà dâm, là tâm không ngay chính.

Tâm tư ô nhiễm (ĐườngVề.6) là tâm ác, tâm làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.

Tâm từ (TruyềnThống.1) là lòng thương yêu tất cả chúng sanh. Lòng từ đối trị tâm sân hận. Do lòng thương yêu của tâm từ mà tâm sân hận của chúng ta không phát khởi và được tiêu diệt, bởi lòng thương yêu luôn luôn sẵn lòng tha thứ dù bất cứ một điều ác gì. Do lòng thương yêu mà ta vượt qua tất cả mọi ác pháp và tất cả các chướng ngại vật đang tác động vào thân tâm ta.

Tâm tùy tức (ThiềnCănBản) là tâm diệt tầm ác. Tâm tùy tức không có nghĩa là “tâm nương theo hơi thở”. Tâm tùy tức là "tâm định trên thân” có nghĩa là tâm hết phóng dật, khi tâm hết phóng dật thì tâm ở trên hơi thở vì hơi thở là thân hành nội của thân. Tùy tức là do tâm ly dục ly ác pháp mà tâm đã ly dục ly ác pháp là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh nên tâm định vào thân gọi là “tùy tức”. Nếu tâm hết phóng dật mà không định trên thân thì tâm rơi vào Không, là một trạng thái của tưởng định tức là Không Vô Biên Xứ Tưởng Ðịnh. “Tùy tức” của Lục Diệu Pháp Môn là do tu tập ức chế tâm, bắt buộc tâm phải nương theo hơi thở.

Tâm vô lậu (PhậtDạy.4)(ĐườngVề.6) là tâm đoạn diệt ngũ triền cái và thất kiết sử, tâm không còn khổ đau phiền não, lo lắng, sợ hãi, tức giận, than khóc , v.v...Tâm vô lậu là khi nào người ta chê, nói xấu, mạ lị, mạt sát, chửi mắng, mà tâm vẫn thản nhiên không buồn giận hờn, không oán ghét v.v... Khi nào không thương, không ghét một người nào, không sợ hãi, lo lắng sống luôn luôn thanh thản, an ổn và không có một chướng ngại gì trong tâm. Khi nào tâm không còn tham muốn một vật gì, dù đó là một món ăn rất ngon, rất thích khẩu, nhưng cũng thản nhiên không thèm, không ham thích muốn ăn, có thì ăn, không có ăn thì thôi. Khi nào thấy sự lười biếng, hôn trầm, thùy miên không còn tấn công khi muốn thức dù bất cứ giờ nào, cũng đều tỉnh thức. Khi nào tất cả mọi cảm thọ đến mà tâm không lo, không sợ hãi. Khi nào tất cả mọi pháp làm động khiến tâm bất an, nhưng vẫn thản nhiên, với tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Khi nào tâm không lo, không sợ hãi tất cả mọi cảm thọ, làm chủ được các cảm thọ thì tham dục bị diệt trừ, do tham dục được diệt trừ thì đã được giải thoát; không nói thuận theo một ai, không tranh luận với một ai, chỉ nói theo từ ngữ đã được dùng ở đời, không có chấp thủ. Tâm vô lậu là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, là tâm không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai, là tâm không còn dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Tâm vô lậu bất động là chỗ an trú trong khi còn sống cũng như lúc đã chết. Như vậy chỗ tu tập để chứng đạt chân lí của Phật giáo chỉ có tu tập đúng pháp để diệt sạch lậu hoặc cho tâm vô lậu bất động. Tâm diệt sạch lậu hoặc là chỗ an trú của Phật.

Tâm vô minh (ĐạoĐức.2) là lòng ham muốn. Có sự ham muốn là có sự vô minh. Vô minh ở đâu là ham muốn ở đó, ham muốn làm tăng thêm vô minh, vô minh làm tăng thêm ham muốn.

Tâm vô sự (CưSĩTu) Cách giữ tâm vô sự, thư giãn thì điểm quan trọng cần biết là mỗi niệm khởi lên đều mang theo tính chất sai bảo mình làm, hoặc không có tính chất sai bảo làm. Phải nhớ là khi niệm nào sai bảo mình làm gì thì nhất định không làm. Không làm theo niệm tức là ly dục.

Tâm xả hành ấm (ThiềnCănBản) là tâm nhập Tứ thiền.

Tâm xả thức ấm (ThiềnCănBản) là tâm nhu nhuyến dễ sử dụng hướng đến Tam Minh.

Tầm (ĐườngVề.3)(ĐườngVề.6)(CầnBiết.5)(MuốnChứngĐạo) là sự tư duy, suy tư, nghĩ ngợi một điều gì, nó thuộc về ý thức.

Tầm ác (ĐườngVề.5)(ĐườngVề.6)(12Duyên) là những suy tư, nghĩ tưởng về một ác pháp để biến ra lời nói hay hành động làm đau khổ mình, đau khổ người và chúng sanh. Suy tư ác thì phải ngăn chặn và đoạn diệt. Ðó là cách thức tu tập tâm ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm.

Tầm thiện (12Duyên) là những suy tư, nghĩ tưởng không làm khổ mình, không làm khổ người. Tâm ở trong tầm thiện thì tâm thanh tịnh, không có hoàn cảnh, đối tượng nào khiến tâm dao động, gọi là tâm giải thoát không còn khổ đau vì cuộc sống làm người. Người sống được như vậy gọi là nhập Bất Ðộng Tâm Ðịnh hay là nhập Vô Tướng Tâm Ðịnh. Phát triển tầm thiện là cách thức tu tập tâm ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm.

Tầm tứ (ĐườngVề.3)(CầnBiết.5) là sự tác ý và sự tư duy, suy nghĩ của ý thức. Tầm tứ có hai loại: 1- Tầm tứ ác. 2- Tầm tứ thiện.

Tầm, tứ là khẩu hành (PhậtDạy.1) Có nghĩa là khi nhập Nhị thiền tầm tứ diệt. Tầm tứ là ý thức, thuộc trong nhóm sáu thức mắt, tai, mũi, miệng thân, ý. Khi tầm tứ diệt thì sáu thức mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý đều diệt.

Tân Tỳ Kheo (ThờiKhóaTu)  là Người tu sĩ giới luật chưa hoàn toàn thanh tịnh, còn vi phạm các lổi nhỏ nhặt, chưa nhập được Sơ thiền.

Tấn căn (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) Tấn là tinh tấn, siêng năng; căn là cội gốc. Vậy tấn căn có nghĩa là cội gốc của lòng tinh tấn, siêng năng. Muốn có được cội gốc tinh tấn, siêng năng thì phải tu tập “Tứ Chánh Cần”, phải rất siêng năng, tinh tấn tác ý để ngăn và diệt những ác pháp hằng ngày. Bởi, Tứ Chánh Cần là một pháp môn mang đến một đời sống giải thoát, đem đến sự an vui thật sự ngay liền, một kết quả cụ thể rõ ràng. Càng tu tập càng thích tu hơn, đó là tấn căn. Vì kết quả lợi ích như vậy, nên lòng ham muốn siêng năng phát sinh mạnh mẽ. Tứ Chánh Cần là cội gốc siêng năng, tinh tấn. Do vậy đức Phật dạy: “Tấn căn cần tu tập Tứ Chánh Cần”.

Tấn lực (TrợĐạo) là sự cố gắng nỗ lực tu tập hết mình, hằng ngày nỗ lực nhiếp tâm tu tập đúng pháp không hề sai sót một niệm nào cả, luôn luôn duy nhất có một niệm Tâm bất động từ giờ này đến giờ khác, từ đó niệm này trở thành một sức lực của niệm nên gọi là Niệm lực.

Tận (CầnBiết.3) là tận cùng, cuối cùng, chấm dứt.

Tất cả pháp (PhậtDạy.2) Tất cả pháp ở đây có nghĩa là sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, chứ không phải tâm niệm. Sáu trần xúc chạm với sáu căn sinh ra các cảm thọ; các cảm thọ sinh ra ái dục. Do ái dục con người mới sinh ra dính mắc, do sự dính mắc các pháp trần nên con người mới chịu nhiều cay đắng, phiền não, đau khổ và tật bệnh, v.v… Bởi ái dục không phải tự nó có mà do sáu căn xúc chạm vào nhau sinh ra cảm thọ, do cảm thọ mới có ái. Do vậy phải ly dục ly ác pháp, phải phòng hộ sáu căn. Chính độc cư là pháp phòng hộ sáu căn.

Tất cả pháp lấy bất tử làm chỗ thể nhập (PhậtDạy.2) tất cả các pháp lấy bất tử làm chỗ vào vĩnh cửu. Chỗ bất tử là tâm bất động. Những danh từ để chỉ cho nghĩa này: Bất tử tâm hay bất động tâm. Những trạng thái tâm này được gọi tên theo thiền định là Bất Ðộng Tâm Ðịnh hay Bất Tử Tâm Ðịnh.

Tất cả pháp lấy Niết Bàn làm cứu cánh (PhậtDạy.2) “Tất cả pháp lấy tâm bất động làm nơi tột cùng của sự giải thoát”. Phật giáo lấy mục đích là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Ðó là sự rốt ráo tận cùng của Ðạo Phật.

Tập Ðế (PhậtDạy.4)(ĐườngVề.2)(CầnBiết.2)(CầnBiết.3)(ĐườngRiêng)(TâmThư.1) Tập có nghĩa là nơi tập hợp mọi sự đau khổ, phiền não của con người. Tập còn có nghĩa là nơi chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày một nhiều hơn. Ðế có nghĩa là sự thật, đúng đắn không sai. Tập Ðế là nguyên nhân của mọi sự khổ đau đã chứa nhóm và tích trữ lâu đời nhiều kiếp trong mỗi chúng sanh, đó là cội gốc sanh tử luân hồi của loài người, là lòng ham muốn của con người, là nguyên nhân sinh ra đau khổ của con người, là chủ thể điều khiển các hành động nhân quả thiện ác từ ba nơi (thân, miệng, ý) trong thân. Thường mọi người ngồi im lặng bất động thì tâm hay lăng xăng nghĩ ngợi điều này thế kia, đó là do lòng dục của con người. Lòng ham muốn ấy là một sự thật. Nói một cách khác hơn, đó là cội gốc sanh tử luân hồi của loài người. Tập đế là chân lý thứ hai trong bốn đế mà đức Phật đã xác định của đạo Phật. Ðó là lòng tham muốn của con người là nguyên nhân sinh ra muôn sự đau khổ của con người trên hành tinh này. Nó là bản chất của của con người khi còn ở trong bụng mẹ. Người nào siêng năng trong từng phút, từng giây ly dục ly bất thiện pháp thì người ấy luôn luôn ở trong tâm bất động. Tâm luôn luôn bất động là chứng đạo. Cội nguồn sự đau khổ phiền não gồm có 10: 1/ Tham (lòng tham lam), 2/ Sân (nóng giận), 3/ Si (si mê, mờ ám, biết không rõ, không chính xác, không đúng), 4/ Mạn (ngã mạn, kiêu căng, tự đắc. Mạn có bảy thứ: a/ Mạn: Nghĩ mình hơn người. b/ Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người. c/ Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng. d/ Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người. e/ Tăng thượng mạn: Chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã chứng. f/ Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói mình thua ít. g/ Tà mạn: Người tu tập có được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người khác, xem trời đất không còn ai). 5/ Nghi (lòng nghi ngờ, ngờ vực, không tin. Nghi ngờ có ba phương diện: a) Tự nghi. b) Nghi pháp. c) Nghi nhân: nghi người dạy mình, không tin ông Thầy dạy mình). 6/ Thân kiến (chấp thân ngũ uẩn tứ đại giả hợp này cho là ta, là của ta, là bản ngã của ta). 7/ Biên kiến (chấp một bên, nghiêng về một phía, những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến lớn nhất là: a) Thường kiến: luận thuyết cho rằng người chết còn linh hồn, cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có thần thức,...luôn luôn không bị đoạn diệt. b) Ðoạn kiến: luận thuyết cho chết là hết, không còn gì cả. c) Vừa thường vừa đoạn kiến: luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không). 8/ Kiến thủ (chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình. Có ba trường hợp: a) Kiến thủ vì ảnh hưởng tư tưởng của người khác. b) Kiến thủ vì không ý thức được sự sai lầm của mình. c) Kiến thủ vì tự ái hay vì ngoan cố cứng đầu). 9/ Giới cấm thủ (làm theo, sống theo giới cấm của ngoại đạo, tà giáo, những giới cấm này phần nhiều vô lý phi đạo đức, mê muội, dã man, v.v…) 10/ Tà kiến(chấp chặt theo lối không chân chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả, phi đạo đức).

Tập khí (PhậtDạy.1)(ĐườngVề.8) là những hành động thân và tâm lặp đi, lặp lại nhiều lần trong một việc gì, trở thành những thói quen mà không thể bỏ được trong một sớm một chiều. Khi tu tập khéo giữ gìn tâm bằng cách dùng ý thức tri kiến ly dục, ly ác pháp thì tâm sẽ được thanh thản, an lạc và vô sự. Do tâm được thanh thản, an lạc và vô sự, nên không còn các sở hành tức là thói quen không còn, hay nói cách khác là tập khí không còn.

Tập thể thanh tịnh (Đường Về.7) là Tăng đoàn sống hòa hợp, giới luật nghiêm chỉnh.

Tẩy sạch tâm tư khòi các chướng ngại pháp (ThờiKhóa) dù đi kinh hành hay ngồi đều phải tu tập tẩy trừ dục và ác pháp vì dục và ác pháp làm cho tâm chúng ta chướng ngại, khổ đau; Tẩy sạch tâm tư khòi các chướng ngại pháp ứng dụng vào các pháp Tứ Nìệm Xứ, Tứ Chánh Cần và sống đúng giới luật thì tu tập mới có hiệu quả tẩy trừ các ác pháp chứ không phải ngồi thiền ức chế tâm chẳng niệm thiện niệm ác hoặc niệm lục tự Phật A Di Ðà, hoặc khán công án, tham thoại đầu mà tẩy sạch tâm tư khỏi chướng ngại pháp được. Giới, định, tuệ của Ðạo Phật là pháp môn duy nhất ly dục ly ác pháp diệt ngã xả tâm, đoạn dứt lậu hoặc, thực hiện đạo đức làm người làm thánh, không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

Tề chỉnh (GiớiĐức.1) nghĩa là: Thứ nhất nghĩa là phải bỏ tánh láu táu không nghiêm trang. Thứ hai: Vấn y không thụng xuống qua cánh chỏ, bày da thịt trong thân, hay cao quá bắp chân, hoặc thụng xuống một góc như vòi voi, hoặc thụng hai góc trước, hai góc sau vén lên cao, hoặc xếp nhỏ thành lai y.

Tích lũy (4Tâm) càng nhiều càng tốt.

Tích tập (Phậtdạy.3) là huân tập.

Tích tập tâm ly tham, ly sân, ly si (Phậtdạy.3) bền chí huân tập thì tích tụ được tâm ly tham, ly sân, ly si. Muốn tích tập tâm ly tham, ly sân, ly si thì cứ nhắc tâm nhiều lần câu “Ly tham (ly sân, ly si) là tâm của ta”. Ðó là cách thức kết tụ tâm ly tham (ly sân, ly si) thành một khối không tham, sân, si.

Tịch tĩnh (ĐườngVề.6) Khi người mới bắt đầu tu, tịch tĩnh phải hiểu là tĩnh giác chứ không phải là lặng lẽ, tịch chiếu. Tu tập tỉnh giác theo hành động của thân nội hoặc ngoại để xả niệm ác hay nói cách khác là để giữ tâm trong chánh niệm, nên có tên gọi loại định này là “Chánh Niệm Tĩnh Giác Ðịnh”. Phải kiên trì nội tâm tịch tĩnh, tức là phải kiên trì tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác Ðịnh, tu trong mọi hành động, tức là thân hành niệm, chứ không phải giữ tâm tịch tĩnh, Khi tâm chưa có định thì làm sao giữ tâm tịch tĩnh được. Nếu tâm chưa có định mà giữ tâm tịch tĩnh tức là ức chế tâm, ức chế tâm tức là tu sai thiền định của đạo Phật.

Tiếng của chư Thiên (TruyềnThống.2) nghĩa là tiếng nói của tưởng uẩn. Trong kinh Pháp Môn Căn Bản đức Phật đã xác định 33 cõi Trời là cõi tưởng (Tưởng tri chứ không phải Liễu tri).

Tiếng nói của loài Người (TruyềnThống.2) nghĩa là tiếng nói của sắc uẩn. Đức Phật đã xác định cõi Người là cõi tưởng (Tưởng tri chứ không phải Liễu tri), bởi vì cõi Người là cõi duyên hợp tạo thành không có một vật gì thường hằng bất biến luôn luôn thay đổi từng giây, từng phút.

Tiết độ trong ăn uống (PhậtDạy.1)(CầnBiết.4) Người tu sĩ và nguời cư sĩ nào đã tu tập mà biết tiết độ trong ăn uống, có nghĩa là không ăn uống phi thời, chỉ ăn ngày một bữa. Ðó là người đang thể hiện Hạnh Ðức. Hạnh Ðức về ăn uống không phải dễ, đối với những người còn mang đầy ắp thân kiến, sợ thân bệnh, sợ thân chết, v.v... Tiết độ trong ăn uống là pháp môn ly dục đệ nhất, ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt, không được ăn uống phi thời, tâm dục ít. Tâm dục ít thì ít bệnh tật khổ đau; ít ham muốn; dễ lìa xa ngũ dục lạc; thích sống độc cư, trầm lặng; ít hôn trầm, thùy miên, vô ký…Tiết độ trong ăn uống là một Thánh đức hạnh của bậc lìa xa ngũ dục thế gian, là Thánh đức hạnh của những bậc đã xa lìa mọi sự ràng buộc triền phược, kiết sử của thế gian, là Thánh đức hạnh của bậc giải thoát.

Tiểu ngã (Bà La Môn) (ĐườngVề.6) là thể tánh của mỗi sinh vật ví như giọt nước. Khi một chúng sanh chết thì thể tánh ấy giống như giọt nước tiểu ngã rơi vào biển cả đại ngã thì chỉ còn là một khối nước đại ngã.

Tìm hiểu ý nghĩa của pháp (PhậtDạy.4) thông suốt chân lí của pháp đó,không được tin mù quáng như tín đồ các tôn giáo khác, chỉ tin vào giáo điều mặc khải của một đấng thiêng liêng vô hình, truyền qua như kẻ lên đồng nhập xác hoặc là cơ bút tin theo những lối truyền dạy, không thực tế, không rõ ràng, lòng tin như vậy dễ bị những người khác lợi dụng tôn giáo lừa đảo làm tiền, làm danh và còn lợi dụng sắc dục nữa. Tìm hiểu ý nghĩa của pháp phải song hành với sự tu tập hành trì. Người chỉ tìm hiểu ý nghĩa pháp mà không có hành trì tu tập thì sự tìm hiểu ấy cạn cợt giống như các nhà học giả.

Tìm tội rầy rà (GiớiĐức.2) Tỳ kheo này cùng tỳ kheo khác tìm tội gây ra ba sự việc: 1- Phá giới. 2- Phá chánh kiến. 3- Phá oai nghi (thấy, nghe và nghi tội).

Tin đồn (PhậtDạy.1) là tin tức truyền miệng từ người này đến người khác. Tin đồn thường là những tin tức thất thiệt, không đúng sự thật.

Tín lực (ĐườngVề.3)(TrợĐạo) là lòng tin mạnh mẽ để người tu đạt được đạo. Trong Ngũ Lực, Tín lực là pháp tu hàng đầu, có lòng tin thì mới cố gắng tu tập, không có lòng tin thì tu cho có hình thức, chứ không có kết quả. Tín lực là lòng tin sâu sắc đối với Phật pháp, không bao giờ thay đổi, lòng tin bất di bất dịch dù cho ai chống trái bài bác Phật giáo cũng không bao giờ thay lòng đổi dạ, chỉ biết tin vào pháp Phật. Khi có Tín lực thì rất siêng năng tu tập không bao giờ biếng trễ. Muốn có được lòng tin như vậy thì phải sinh ra cùng thời với đức Phật ra đời hoặc phải sinh làm người được gặp một bậc tu chứng cũng làm chủ sinh, già, bệnh, chết như Phật.

Tín căn (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) Tín là lòng tin; căn là cội gốc của lòng tin. Vậy tín căn có nghĩa là cội gốc của lòng tin. Muốn có được cội gốc của lòng tin thì phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần là phương pháp tu tập ngăn và diệt các ác pháp, để rồi luôn sống và tăng trưởng trong các thiện pháp. Muốn được vậy, thì hằng ngày nên sống trong chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, để ngăn và diệt ác pháp, khiến cho tất cả ác pháp không tác động vào thân, tâm. Tâm chúng ta đạt trạng thái bất động tâm khiến cho tất cả ác pháp không tác động vào thân, tâm chúng ta được. Tu tập Tứ Chánh Cần là có kết quả giải thoát ngay liền khiến cho thân, tâm sống thanh thản, an lạc và vô sự, không còn phiền não, khổ đau hay giận hờn, thương ghét, v.v... có tu tập được như vậy thì mới có lòng tin sâu sắc vì tâm đã lìa tham, sân, si, mạn, nghi thật. Khi ác pháp không tác động vào thân, tâm được, thì đó là trạng thái bất động tâm, là trạng thái giải thoát, tương ưng với chư Phật và A La Hán. Tu tập “Tứ Chánh Cần” tức là tu tập lòng tin với Phật giáo. Tin một điều thấy, hiểu, biết và cảm nhận có thật.

Tinh cần (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) là siêng năng, chuyên cần, giờ nào cũng làm việc không nghỉ ngơi.

Tinh cần chế ngự (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) có nghĩa là bảo chúng ta “tu tập phải từng giây, từng phút, từng sát na siêng năng, chuyên cần liên tục, không được biếng trễ, không được gián đoạn sự ngăn chặn, không được làm theo lòng ham muốn và tâm hung ác của chính mình”tức là hằng ngày phải siêng năng, tinh cần ly dục ly ác pháp. Ðây là phương pháp tu tập để tu tập thiền định xả tâm, xả đến đâu là có giải thoát đến đấy; xả đến đâu là có tâm thanh tịnh đến đấy. Ví dụ: 1) Khi tâm khởi muốn ăn phi thời thì ngay đó ngăn chặn quyết liệt không cho ăn. đó là chế ngự lòng tham muốn (dục) hay nói cách khác là ly dục về ăn. 2) Chưa đến giờ đi ngủ mà thân tâm bị hôn trầm, thùy miên muốn đi ngủ, liền đi kinh hành làm cho thân tâm không ngủ được, ấy là chế ngự tâm ham muốn ngủ, hay nói cách khác là ngăn chặn sự buồn ngủ. Ði kinh hành ngăn chặn sự buồn ngủ tức là tinh cần chế ngự lòng ham muốn ngủ của mình và như vậy gọi là ly dục ly ác pháp. 3) Ngồi một mình cô đơn trong thất muốn đi nói chuyện cho vui với người khác, liền ngăn chặn không đi nói chuyện. Ngăn chặn không đi nói chuyện, tức là chế ngự lòng ham muốn vui chơi của mình. Chế ngự lòng ham muốn vui chơi của mình tức là ly dục ly ác pháp. 4) Khi tâm muốn đi làm một việc gì mà việc ấy phi thời thì phải ngăn chặn liền, sự ngăn chặn không đi làm là chế ngự tâm mình hay nói cách khác là ly dục ly ác pháp. Có tinh cần tu tập như vậy thì mới “chế ngự ”.

Tinh cần đoạn tận (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) Khi tâm tôi có tham, tôi biết tâm tôi có tham tức là biết tâm có dục. Biết tâm có dục thì ngay đó tôi phải siêng năng làm cho nó hết dục. Làm cho nó hết dục tức là đoạn tận. Có tinh cần tu tập như vậy thì mới "đoạn tận" được lòng ham muốn, mọi ác pháp, mọi khổ đau của kiếp làm người trong từng giây, từng phút, từng giờ không được phí bỏ phút nào cả. Đức Phật dạy phương pháp đoạn tận tâm tham, tâm sân, tâm si,...: “Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra cần phải được khéo tác ý”. Về thân thì tinh cần đoạn tận: Mỗi khi thân có đau nhức hay bệnh tật thì cũng nên an trú vào hơi thở mà tác ý: “An tịnh toàn thân tôi biết tôi hít vô, an tịnh toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Bền chí mà tác ý như vậy cho đến chừng nào thân không bệnh, không còn đau khổ nữa mới thôi. Trước khi muốn đoạn tận các sự phiền não và tất cả bệnh khổ đau nơi thân và tâm thì quý bạn phải tu tập cách thức an trú tâm cho được trong hơi thở, trong bước đi, nói cách khác tổng quát hơn là an trú trong thân hành.

Tinh cần hộ trì (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) Trong thân chúng ta có sáu căn: - Mắt - Tai - Mũi - Miệng - Thân - Ý. Sáu chỗ này là sáu cửa ra vào của sáu trần. Vì thế Phật dạy: “Phải siêng năng luôn luôn hộ trì các căn”. Hộ trì Mắt: phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc nào cũng có, nên nó sẽ theo cửa mắt mà vào. Vậy giữ gìn mắt như thế nào? tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy bước chân đi, khi đi; phải thấy hơi thở ra hơi thở vào, khi ngồi. Không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc; mắt dính sắc thì tâm phóng dật; tâm phóng dật thì phá hạnh độc cư; phá hạnh độc cư thì tâm có tinh cần tu tập pháp gì thì cũng không kết quả; tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực; không có năng lực thì không đoạn tận dục và ác pháp; không đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được tâm. Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ. Hộ trì Tai: Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài, phải tác ý nhắc tai phải nghe vào tiếng chân bước đi, khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi. Có phòng hộ tai như vậy tai mới không dính mắc thinh trần; tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh; tai thanh tịnh thì tâm thanh tịnh. Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, mới đoạn tận, mới chế ngự dục và ác pháp. Nhờ đó con đường tu tập mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Hộ trì Mũi: Mũi thường hay ngửi mùi, tức là hương trần. Hương trần gồm có: 1- Mùi thơm 2- Mùi thối. Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích. Tính chất của hương trần, loài này cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối. Cách tu như thế nào đối trị với hương trần? Ðối trị với hương trần lúc nào cũng phải phòng hộ mũi bằng cách tác ý hướng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành). Thơm cũng không khởi dục tham đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ có duy nhất siêng năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng giống như dẫn tai và mắt vậy. Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình được và tâm mới an trú được trong thân hành tức là tâm định trên thân. Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi được như vậy, nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp. Hộ trì Miệng: Hộ trì miệng có hai phần: 1- Hộ trì miệng về ăn, uống. 2- Hộ trì miệng về nói. - Hộ trì miệng về ăn uống: thì không được ăn uống phi thời, ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc, ăn uống không được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán. Ăn uống phải sáng suốt, tư duy: ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn để sống để tu hành, để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống để hộ trì các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ người và tất cả chúng sanh. Ăn để sống để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn để sống để chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau. Ăn để sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh, lợi hơn thiệt ở đời. Ăn để sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thương đau, những nỗi mất mát mà con người đang, sẽ phải chịu. Ăn để sống để thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người không nên làm khổ mình, khổ người, chứ không phải ăn để sống để vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật khác... - Hộ trì miệng về lời nói: không được nói những lời thiếu chân thật (xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mười Giới Thánh Ðức Sa Di). Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói lời hung dữ; không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng, không được chửi thề nói lời tục tỉu, không được xưng hô mày, tao, nó hắn, y. Không được nói thêm bớt, nói xấu người khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói lật lọng... Không được nói móc lò, nói mỉa mai người khác, nói giễu cợt, nói châm chọc... Tóm lại, hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ mình, khổ người, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến. Lời nói luôn đem đến mình vui, người khác vui. giác ngộ: Hộ trì thân có hai phần: Hộ trì các hành động của thân: Mỗi thân hành phải được ý thức kiểm duyệt. không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân, phải nuôi thân bằng chánh mạng, Đẩy lùi các bệnh tật trên thân. Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh và vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở. - Bằng phương pháp Tứ Niệm Xứ. Bằng phương pháp Thân Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh bảy Giác Chi. Hộ trì ý: Hộ trì ý căn có ba phần: Sử dụng tri kiến - Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý - Sử dụng giới luật.Sử dụng tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu. Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý thường xuyên tác ý để tâm có một nội lực mạnh mẽ. Sử dụng giới luật: lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi.

Tinh cần tu tập (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) là phải siêng năng tu tập từng giây, từng phút, từng giờ không được phí bỏ những giây phút nào cả, tu tập những pháp môn mà Đức Phật đã dạy gồm có: 1/ Mười tám đề mục Định Niệm Hơi Thở. 2/ Định Vô Lậu. 3/ Định Chánh Niệm Tỉnh Giác. 4/ Định Sáng Suốt. 5/ Tác ý đẩy lùi các chướng ngại pháp trên Tứ Niệm Xứ. 6/ Tu Tập Thân Hành Niệm.

Tinh cần đoạn tận (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) Khi tâm tôi có tham, tôi biết tâm tôi có tham tức là biết tâm có dục. Biết tâm có dục thì ngay đó tôi phải siêng năng làm cho nó hết dục. Làm cho nó hết dục tức là đoạn tận. Có tinh cần tu tập như vậy thì mới "đoạn tận" được lòng ham muốn, mọi ác pháp, mọi khổ đau của kiếp làm người trong từng giây, từng phút, từng giờ không được phí bỏ phút nào cả. Đức Phật dạy phương pháp đoạn tận tâm tham, tâm sân, tâm si,...: “Định Niệm Hơi Thở vô hơi thở ra cần phải được khéo tác ý”. Về thân thì tinh cần đoạn tận: Mỗi khi thân có đau nhức hay bệnh tật thì cũng nên an trú vào hơi thở mà tác ý: “An tịnh toàn thân tôi biết tôi hít vô, an tịnh toàn thân tôi biết tôi thở ra”. Bền chí mà tác ý như vậy cho đến chừng nào thân không bệnh, không còn đau khổ nữa mới thôi. Trước khi muốn đoạn tận các sự phiền não và tất cả bệnh khổ đau nơi thân và tâm thì quý bạn phải tu tập cách thức an trú tâm cho được trong hơi thở, trong bước đi, nói cách khác tổng quát hơn là an trú trong thân hành.

Tinh cần hộ trì (PhậtDạy.2)(CầnBiết.3) Trong thân chúng ta có sáu căn: - Mắt - Tai - Mũi - Miệng - Thân - Ý. Sáu chỗ này là sáu cửa ra vào của sáu trần. Vì thế Phật dạy: “Phải siêng năng luôn luôn hộ trì các căn”. Hộ trì Mắt: phải giữ gìn trước nhất, vì sắc tướng của sáu trần lúc nào cũng có, nên nó sẽ theo cửa mắt mà vào. Vậy giữ gìn mắt như thế nào? tức là phòng hộ mắt thì phải chấp nhận sống độc cư, không tiếp duyên ra ngoài. Lúc ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài luôn luôn phải hướng tâm nhắc mắt phải nhìn vào trong thân; phải thấy bước chân đi, khi đi; phải thấy hơi thở ra hơi thở vào, khi ngồi. Không phòng hộ được như vậy thì mắt dính sắc; mắt dính sắc thì tâm phóng dật; tâm phóng dật thì phá hạnh độc cư; phá hạnh độc cư thì tâm có tinh cần tu tập pháp gì thì cũng không kết quả; tâm tu tập không kết quả thì không có năng lực; không có năng lực thì không đoạn tận dục và ác pháp; không đoạn tận dục và ác pháp thì không còn cách nào chế ngự được tâm. Và như vậy thì thân tâm của chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khổ. Hộ trì Tai: Phòng hộ tai khi ở trong thất cũng như lúc đi ra ngoài, phải tác ý nhắc tai phải nghe vào tiếng chân bước đi, khi đi; tiếng hơi thở ra, tiếng hơi thở vô, khi ngồi. Có phòng hộ tai như vậy tai mới không dính mắc thinh trần; tai không dính mắc thinh trần thì tai thanh tịnh; tai thanh tịnh thì tâm thanh tịnh. Tai thanh tịnh thì tu các pháp mới có năng lực, mới đoạn tận, mới chế ngự dục và ác pháp. Nhờ đó con đường tu tập mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Hộ trì Mũi: Mũi thường hay ngửi mùi, tức là hương trần. Hương trần gồm có: 1- Mùi thơm 2- Mùi thối. Mũi ngửi mùi thơm sanh ra ưa thích, gặp mùi thối thì không ưa thích. Tính chất của hương trần, loài này cho là thơm, nhưng loài khác cho là thối. Cách tu như thế nào đối trị với hương trần? Ðối trị với hương trần lúc nào cũng phải phòng hộ mũi bằng cách tác ý hướng dẫn mũi ngửi vào trong thân, thân hành nội (hơi thở) và thân hành ngoại (kinh hành). Thơm cũng không khởi dục tham đắm, thối cũng không trốn chạy, chỉ có duy nhất siêng năng cần mẫn liên tục tác ý dẫn mũi ngửi vào trong thân cũng giống như dẫn tai và mắt vậy. Có dẫn tai, mắt, mũi như vậy thì mới tu tập nhiếp phục tâm mình được và tâm mới an trú được trong thân hành tức là tâm định trên thân. Nhờ sống hộ trì mắt, tai, mũi được như vậy, nên tâm tu tập mới có đầy đủ năng lực để chế ngự, đoạn tận dục và ác pháp. Hộ trì Miệng: Hộ trì miệng có hai phần: 1- Hộ trì miệng về ăn, uống. 2- Hộ trì miệng về nói. - Hộ trì miệng về ăn uống: thì không được ăn uống phi thời, ăn uống phải có tiết độ, phải đúng giờ giấc, ăn uống không được ham thích ăn ngon, ăn uống phải biết quán thực phẩm bất tịnh để sanh tâm nhàm chán. Ăn uống phải sáng suốt, tư duy: ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Ăn để sống để tu hành, để thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Ăn để sống để hộ trì các căn không cho dục và các ác pháp tác động sai khiến hoặc xâm chiếm, làm khổ mình làm khổ người và tất cả chúng sanh. Ăn để sống để làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi tái sanh, chứ không phải ăn để sống để chạy theo dục lạc, để chấp nhận đời sống phải chịu nhiều khổ đau. Ăn để sống để làm chủ thân tâm, khiến cho thân tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, chứ không phải để tranh luận hơn thua, để tranh đua về ăn uống, để tranh chấp về danh, lợi hơn thiệt ở đời. Ăn để sống để biết thương yêu mọi người, để giúp đỡ mọi người bất hạnh trong xã hội, để an ủi, chia sẻ những nỗi thương đau, những nỗi mất mát mà con người đang, sẽ phải chịu. Ăn để sống để thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức làm người không nên làm khổ mình, khổ người, chứ không phải ăn để sống để vì sự sống của mình mà chà đạp lên sự sống của bao nhiêu người khác và loài vật khác... - Hộ trì miệng về lời nói: không được nói những lời thiếu chân thật (xin đọc lại Thánh đức chân thật trong Mười Giới Thánh Ðức Sa Di). Hộ trì miệng về lời nói thì không được nói lời hung dữ; không được chửi mắng, nạt nộ, hăm dọa người khác; không được la lớn tiếng, không được chửi thề nói lời tục tỉu, không được xưng hô mày, tao, nó hắn, y. Không được nói thêm bớt, nói xấu người khác, không được vu khống, vu oan giá họa, không được nói lật lọng... Không được nói móc lò, nói mỉa mai người khác, nói giễu cợt, nói châm chọc... Tóm lại, hộ trì miệng là giữ gìn lời nói không làm khổ mình, khổ người, luôn nói lời êm dịu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn, đầy lòng từ ái, ôn hòa, tha thứ, thân thương và yêu mến. Lời nói luôn đem đến mình vui, người khác vui. giác ngộ: Hộ trì thân có hai phần: Hộ trì các hành động của thân: Mỗi thân hành phải được ý thức kiểm duyệt. không cho các ác pháp xâm chiếm vào thân, phải nuôi thân bằng chánh mạng, Đẩy lùi các bệnh tật trên thân. Tìm mọi cách giúp cho thân được an trú, thanh tịnh và vô sự, theo pháp môn Định Niệm Hơi Thở. - Bằng phương pháp Tứ Niệm Xứ. Bằng phương pháp Thân Hành Niệm giúp cho thân tâm sanh bảy Giác Chi. Hộ trì ý: Hộ trì ý căn có ba phần: Sử dụng tri kiến - Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý - Sử dụng giới luật.Sử dụng tri kiến tức là tu tập Định Vô Lậu. Sử dụng pháp hướng tâm như lý tác ý thường xuyên tác ý để tâm có một nội lực mạnh mẽ. Sử dụng giới luật: lấy giới luật làm tiêu chuẩn để ý thức nhắm vào tư duy quan sát các pháp đang trùng trùng duyên khởi.


VIẾT TẮT CÁC SÁCH

(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai.