In bài này

Nghĩa Từ Nguyên Thủy Chơn Như (Vần M tiếp theo)

Lượt xem: 4525

M(2/2)

Muốn sống đầy đủ giới hạnh, giới bổn (ĐườngVề.8) thì người tu sĩ phải dùng pháp như lý tác ý, muốn pháp như lý tác ý có hiệu quả thì người tu sĩ phải sống thân tâm không phóng dật.

Muốn sống đúng “Giới hành chế ngự ý” (TruyềnThống.2) thì luôn luôn phải phản tỉnh lại tâm, mỗi khi có một ý nghĩ khởi lên là phải mau mau tư duy ngay liền, không được bỏ qua, dù một niệm không đáng kể. Hằng ngày nên như lý tác ý: “Phải tỉnh giác từng ý niệm, phải làm chủ từng ý niệm, phải ngăn và diệt từng ý niệm ác, không được bỏ sót một ý niệm nào ”.

Muốn sống đúng Thánh hạnh “Giới hành xả phú cầu bần” (TruyềnThống.2) thì hằng ngày phải chuyên cần siêng năng theo pháp như lý tác ý: “Muốn ra khỏi nhà sanh tử thì phải luôn luôn giữ gìn sống đúng Thánh hạnh xả phú cầu bần, nếu không giữ gìn đúng Thánh hạnh này thì dù có tu hành đến muôn ngàn kiếp vẫn hoài công vô ích, uổng phí mo ät đời”.

Muốn sống được giới đức buông xả (CữSĩTu) thì phải thường xuyên quán các pháp vô thường, vô ngã, do duyên hợp và thường đau khổ.

Muốn sống giống như Phật (CữSĩTu) thì phải học đạo đức,

Muốn sống không gia đình (TruyềnThống.2) thì hằng ngày nên tư duy: “Gia đình là sợi dây ái kiết sử, khiến cho các bạn rất khổ đau vì lòng yêu thương những người thân trong gia đình”; thường tác ý: “Gia đình là ái kiết sử, là nỗi khổ đau bất tận của loài người, là lộ trình của qui luật nhân quả để tiếp tục tái sinh luân hồi khổ đau mãi mãi, ta phải cố gắng bằng mọi cách vượt ra mạng lưới của gia đình”.

Muốn sống một đời sống Phạm hạnh (ĐườngVề.5) thì phải hết sức tránh sự ức chế thân tâm đúng như lời dạy của đức Phật, sống đầy đủ đức hạnh làm người “Không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai”, biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng với mọi người, với mọi hoàn cảnh, với mọi sự việc không làm chướng ngại mình, không làm chướng ngại người, chủ động điều khiển và chuyển hóa nhân quả. Giáo pháp của đức Phật là giáo pháp xả tâm, nếu tu sai một chút xíu thì sẽ bị ức chế tâm ngay liền. Hầu hết tu sĩ Phật giáo ngày nay tu sai lệch rơi vào pháp ức chế tâm mà không biết. Ðạo Phật là đạo trí tuệ, tu thiền định xả tâm. Thiền định xả tâm còn có tên gọi là “Bất Ðộng Tâm Ðịnh” là đạo đức nhân bản – nhân quả, sống đời sống Phạm hạnh thực hiện oai nghi tế hạnh của những bậc Thánh Tăng, là mục tiêu của đạo Phật.

Muốn sống MỘT MÌNH cho được trọn vẹn (TrợĐạo) thì phải dùng pháp như lý tác ý thường xuyên tác ý như sau: 1- Mắt phải nhìn vào trong thân. 2- Tai phải nghe vào trong thân. 3- Mũi phải ngửi mùi trong thân. 4- Lưỡi phải nếm vị cay, đắng, ngọt, bùi, mặn, lạt trong thân (miệng). 5- Thân phải cảm giác nóng, lạnh, mát mẻ, đau nhức trong thân để lôi các căn vào trong thân. Cuối cùng tác ý: “năm căn không được nhìn, nghe, ngửi, nếm, cảm giác năm trần bên ngoài mà hãy quay vào nhìn, nghe, ngửi, nếm, cảm giác trong thân”.

Muốn sống như Phật, như Pháp, như Tăng, như Giới (PhậtDạy.2) thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm.

Muốn sống Thánh hạnh chế ngự thân (TruyềnThống.2) thì khi thân muốn làm một điều gì thì phải tư duy suy nghĩ những hành động của thân trước khi khởi làm, tức phản ảnh lại hành động của thân. Muốn biết thân hành làm đúng, thân hành làm sai thì khi suy nghĩ thấy thân hành nào làm khổ mình, làm khổ người và làm khổ cả hai thì đó là những thân hành sai, thân hành ác, nhất định không nên làm những thân hành đó, đó là sống chế ngự thân. Sống chế ngự thân như vậy thì sẽ có một kết quả giải thoát không còn khổ đau phiền não giận hờn v.v…nữa, một thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Muốn sống toàn thiện (CầnBiết.4)(CầnBiết.5) thì phải có Chánh kiến, tức là thấy đúng nhân quả thiện và ác, chứ không phải thấy đúng, sai, phải, trái, tốt, xấu, v.v... Trong cuộc sống, bất cứ một việc gì xảy đến, chúng ta đều phải nhìn với lòng thiện, lòng từ, lòng bi, lòng hỷ, lòng xả. Nếu chúng ta nhìn thấy bất cứ việc gì với lòng bất thiện, lòng không từ, không bi, không hỷ, không xả thì ác pháp sẽ đến với chúng ta. Và vì thế tâm chúng ta sẽ khổ đau. Muốn sống toàn thiện thì chúng ta nương theo giới luật và giáo pháp của Đức Phật, hằng ngày phải học tập và rèn luyện tu tập cho đúng, đừng tu tập sai. Nhất là phải sống giới đức giới hạnh và giới hành của Phật Giáo thì chúng ta mới có đủ sức vươn lên sống toàn thiện như lời dạy “Tự mình vươn lên sống toàn thiện". Toàn thiện là tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ; toàn thiện chính là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Muốn sống trong thiện pháp (ĐườngVề.6) thì ngày ngày chúng ta phải chuyên cần tu tập ngăn ác diệt ác pháp không để tâm mình bị chướng ngại ác pháp. Ðấy là mình sống cho mình, sống trong thiện pháp; đấy là mình tu theo đúng pháp Phật để ly tham đoạn ác pháp. Tâm phóng dật thì dù có hiểu rộng biết nhiều kinh điển của Phật cũng chẳng có lợi ích gì, chẳng thấy được sự giải thoát nào, chẳng nếm được mùi vị giải thoát của Ðạo.

Muốn sống với tâm ly dục ly bất thiện pháp (TrợĐạo) thì nên sống một mình để phòng hộ sáu căn. Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều lưu ý chú tâm vào chỗ tâm Bất động. Khi tâm hoàn toàn ly dục ly bất thiện pháp thì tâm Bất động, tâm có một sự an lạc. Nhờ tâm Bất động an lạc mà các niệm tham, sân, si, mạn, nghi không khởi ra được. Sống với tâm Tâm ly dục ly bất thiện pháp là Sống với tâm Bất động, thanh thản, an lạc, vô sự, là Tâm đã diệt trừ năm hạ phần kiết sử thì chết cũng ở chỗ Bất động, đó là niết bàn, nên gọi là nhập niết bàn. Trong tâm Bất động có nhiều điều siêu việt mà không thể lấy trí thế gian nghĩ bàn.

Muốn sống với tâm không động chuyển (CầnBiết.4) thì phải hằng ngày nên nhắc tâm bằng câu pháp hướng: “Ta phải sống với tâm không động chuyển, dù bất cứ một ác pháp nào, một cảm thọ nào có tác động vào thân tâm ta đến đâu, ta nhất định chết bỏ, luôn luôn phải sống với tâm không động chuyển”, thì kết quả sẽ thấy ngay liền là tâm không động chuyển.

Muốn tâm bất động trước các ác pháp (ĐườngVề.3) thì nên nhớ hằng ngày phải trau dồi những pháp sau đây: 1- Pháp hướng tâm “Dẫn tâm vào đạo chứ đừng dẫn đạo vào tâm”, nghĩa là tu tập nhiều chứ đừng học nhiều, học nhiều không tu thì chẳng ích lợi gì, giống như cái tủ đựng kinh sách. 2- Triển khai trí tuệ tri kiến nhân quả “Ðừng thấy mọi sự việc đúng, sai, phải, trái, mà hãy thấy nó thiện và ác”. 3- Ðừng thấy lỗi người mà hãy thấy lỗi mình. 4- Hãy khởi tâm yêu thương những người đang sống trong ác pháp. 5- Hãy khởi tâm tha thứ những người đang sống trong ác pháp. 6- Chúng ta lớn hơn, cao thượng hơn mọi người là nhờ ở chỗ biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. 7- Chúng ta có được một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, đó là nhờ biết buông xả các ác pháp. 8- Chúng ta làm chủ được sanh, già, bịnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi là nhờ biết ly dục ly bất thiện pháp, biết diệt ngã, xả tâm, biết buông xả các ác pháp, biết giữ tâm bất động trước ác pháp và các cảm thọ và luôn luôn lúc nào cũng biết giữ tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Muốn tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự (ThanhQui) thì chỉ có tác ý xả những niệm ác thường làm cho chúng ta đau khổ.

Muốn tâm được thanh tịnh (Phậtdạy.3) thì phải tu tập tác ý kèm bốn loại định của Tứ Chánh Cần: 1/ Ðịnh Niệm Hơi Thở, 2/ Ðịnh Vô Lậu, 3/ Ðịnh Sáng Suốt, 4/ Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Muốn tâm không phóng dật (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.3)(ĐườngVề.6)(ĐườngVề.8)(CầnBiết.4) Muốn tâm không phóng dật tức là tâm không có vọng tưởng thì phải ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Hành giả phải sống độc cư, sống độc cư thì tâm phải thích sống trầm lặng; tâm ưa thích sống trầm lặng, đó là bước đầu khởi sự tâm vào thiền. Nếu tâm chưa ưa thích sống trầm lặng thì hành giả phải tập sống trầm lặng, bằng cách thọ Bát Quan Trai Giới, như đức Phật đã dạy trong các bộ kinh, bắt đầu chỉ giữ gìn một ngày đêm sống độc cư trầm lặng, ăn ngày một bữa giống như đời sống của đức Phật ngày xưa, nếu một ngày ăn một bữa, thấy ưa thích sống độc cư thì tăng lên hai ngày rồi ba ngày, bốn ngày, năm ngày, v.v... cho đến khi tâm không phóng dật, tức là tâm định trên thân. Khi tâm đã định được trên thân thì hành giả chỉ còn ra lệnh, tịnh chỉ các hành trong thân thì nhập các loại định, một cách dễ dàng, dù là Diệt Thọ Tưởng Ðịnh cũng không còn khó khăn nữa.

Biết rõ tâm không phóng dật là pháp tối thượng trong các pháp thiện, vậy thì muốn ly dục ly ác pháp thì phải bằng mọi cách giữ gìn tâm không phóng dật, tức là phải biết lấy pháp làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa vững chắc thì tâm sẽ không phóng dật. Muốn vậy thì phải phòng hộ sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Pháp phòng hộ sáu căn, có 4 pháp tu tập: 1- pháp độc cư. 2- pháp Tứ Chánh Cần. 3 - pháp Tứ Niệm Xứ. 4- pháp Thân Hành Niệm. Muốn phòng hộ năm căn thì phải sống đúng ba đức ba hạnh của một bậc Thánh. Ba đức gồm có: 1- Nhẫn nhục, 2- Tùy thuận, 3- Bằng lòng. Ba hạnh gồm có: 1- Ăn, 2- Ngủ, 3- Ðộc cư. Phải tu kỹ từng pháp một, tu hết sức mình, luôn cảnh giác, tĩnh thức cao độ trong mỗi niệm thân hành, khẩu hành, ý hành, để diệt và xả những niệm ác, phải phòng hộ sáu căn nghiêm ngặt. Nhờ tu tập ba đức, ba hạnh này mà tâm không phóng dật, tâm không phóng dật là tâm tỉnh thức; tâm tỉnh thức này là một loại tâm tỉnh thức tự nhiên chứ không có ức chế tâm như các loại thiền định khác. Giữ tâm không phóng dật tức là phải biết lấy pháp làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa vững chắc.

Chỗ tâm không phóng dật là thiện pháp tối thượng, là sự chuyển hóa nhân quả, là đạo đức không làm khổ mình khổ người. Mục đích tâm bất động của Phật giáo là Niết Bàn tại thế gian, là tâm thanh thản an lạc và vô sự, là bất động tâm định, là ly dục ly ác pháp... Phải khắc ghi trong tâm lời dạy này của lời Đức Phật: “lấy không phóng dật làm căn bản, lấy không phóng dật làm chỗ quy tụ, không phóng dật là tối thượng trong các pháp thiện ấy”. Chỉ có pháp độc cưlà đệ nhất, nếu ai giữ gìn được pháp độc cư thì sớm muộn gì người ấy tâm cũng sẽ không phóng dật. Đức Phật đã xác định: Người không phóng dật là người bất tử, là người sống mãi muôn đời.

Muốn tâm ly dục ly ác pháp (Phậtdạy.3)(Đường Về.7) thì pháp môn Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm phải siêng năng tu tập. Tâm ly dục ly ác pháp nhanh chậm tùy ở mức độ giữ gìn giới luật có nghiêm chỉnh hay không.

Muốn tâm như cục đất (ĐườngVề.3) thì chúng ta khéo léo giữ gìn tâm không phóng dật. Muốn giữ gìn tâm không phóng dật thì luôn lúc nào cũng phải nhớ nhắc tâm: “Tâm không được phóng dật, phải định vào thân đi” hay “Tâm định vào hơi thở đi”, hoặc “Tâm như đất lìa tham, sân, si, mạn, nghi đi”. Trong tất cả câu pháp hướng này, tùy theo mọi người mà chọn lấy cho mình một câu phù hợp với đặc tướng, còn riêng Thầy thì câu: “Tâm không được phóng dật phải định vào hơi thở đi”, thì rất phù hợp. Tại vì câu này có hai tác dụng: 1- Bắt buộc tâm không được phóng dật theo ra các pháp. 2- Bắt buộc tâm phải định vào hơi thở (định vào thân). Nếu tâm không phóng dật là tâm thành đất, tâm thành đất là tâm bất động, tâm bất động là đã viên mãn con đường tu tập theo Phật giáo.

Muốn tâm thành đất (CầnBiết.5) (tâm không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa) thi phải có sự tư duy, suy nghĩ thiện và ác trong bất cứ một sự việc gì xảy ra, thiện thì chúng ta tăng trưởng để mà sống, không làm khổ mình khổ người, còn ác thì chúng ta tư duy suy nghĩ quét sạch những pháp ác ấy ra khỏi tâm, để đem lại cho tâm một sự thanh thản, an lạc và vô sự. Nhờ có tu tập được như vậy thì cuộc sống mới có an vui, hạnh phúc. Muốn tâm thành đất thì chúng ta khéo léo giữ gìn tâm không phóng dật. Nếu không cố gắng khắc phục tâm mình ly tham, đoạn ác pháp thì không làm sao tâm thành đất được. Muốn cho tâm thành đất thì phải tu tập Bát Chánh Đạo. Tu tập Bát Chánh Đạo là cách thức sống ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp, hay nói cách khác là sống toàn thiện. Muốn sống toàn thiện thì phải có Chánh kiến, tức là thấy đúng nhân quả thiện và ác, chứ không phải thấy đúng, sai, phải, trái, tốt, xấu, v.v... Trong cuộc sống, bất cứ một việc gì xảy đến, chúng ta cũng đều phải nhìn với lòng thiện, lòng từ, lòng bi, lòng hỷ, lòng xả. Nếu chúng ta nhìn thấy bất cứ việc gì với lòng bất thiện, lòng không từ, không bi, không hỷ, không xả thì ác pháp sẽ đến với chúng ta. Và vì thế tâm chúng ta sẽ khổ đau.

Muốn tâm thanh tịnh (Phậtdạy.3) phải có tâm ly dục, ly ác pháp; phải tu tập tác ý kèm bốn loại định của Tứ Chánh Cần: 1/ Ðịnh Niệm Hơi Thở, 2/ Ðịnh Vô Lậu, 3/ Ðịnh Sáng Suốt, 4/ Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. Tâm thanh tịnh là tâm ly dục, ly ác pháp. Muốn tâm ly dục ly ác pháp thì pháp môn Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm phải siêng năng tu tập.

Muốn thành tựu trí tuệ về sự sống chết (PhậtDạy.1)(CầnBiết.4) thì phải dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi mà dẫn trí tuệ về sanh tử, về Bát Thánh Ðạo, về nhân quả. Khi thành tựu trí tuệ về sanh tử xong thì tiếp tục dùng Trạch Pháp Giác Chi dẫn trí tuệ nhập vào Thánh thể (Niết Bàn) để hoàn toàn đoạn tận khổ đau. Đây là phương pháp tu tập để thực hiện trí tuệ Tam Minh. Và đây là phương pháp cuối cùng trong bảy pháp tu tập trong Ðạo Phật. Cho nên đức Phật kết luận bài pháp này bằng câu: “Như vậy, vị Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp”.

Muốn thọ năm cấm giới (3Qui5Giới) thì cần phải hiểu biết rõ ràng những Giới Ðức, Giới Hạnh, Giới Hành và thực hiện bổn phận của một người Phật tử sau đây: 1) Chánh tri kiến – Chánh tri kiến đối với năm giới là xác nhận năm giới đức này làm căn bản đạo đức – nhân quả, của một đời sống nhân bản, sống có đạo đức hợp lý. 2) Bất phóng dật – Không lúc nào, dù là nguy nan, hay khoái lạc cực độ, cũng không xao lảng sự ngăn ác và diệt ác pháp, làm lành sanh trưởng thiện pháp. 3) Thành kính lục phương: biết bổn phận và tận lực đối với (lục phương): - Cha Mẹ - Tam Bảo. - Vợ con - Thân quyến - Thiện hữu - Tôi tớ).

Muốn thoát khỏi bệnh tật của thân và sự đau khổ của tinh thần (10Lành) thì phải sống với Mười Ðiều Lành, vì Mười Ðiều Lành là pháp môn buông xả những hành vi ác của thân, khẩu, ý. Nếu Nghiệp Ác dần dần buông xuống thì Nghiệp Thiện dần dần tăng trưởng hiện lên. Lúc sống với Mười Ðiều Lành phải ý thức được những từ trường hành động làm lành đang bao trùm tất cả bệnh khổ và luôn cả sanh tử. Nếu từ thân, khẩu, ý xuất phát những hành động làm lành thì ngay đó có giải thoát bệnh tật, tai nạn, phiền não, khổ đau từ thân và tâm của mình một cách rõ rệt. Ví như có người chửi mắng mình, mình hành pháp nhẫn nhục không chửi mắng lại, thì cảnh đang động biến thành cảnh tịnh, cảnh khổ biến thành cảnh an vui, đó là sống với Mười Ðiều Lành.

Muốn thông suốt những gì cần thông suốt (TâmThư.2) thì phải theo chương trình giáo dục lớp Ngũ Giới và Thập Thiện. Nếu chưa thông suốt những lớp học đạo đức này thì con đường tu tập sẽ mất căn bản, thì Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định đừng mong nếm được mùi vị giải thoát của nó.

Muốn thực hành Tứ Thánh Ðịnh (ĐườngVề.6) thì phải có Ðịnh Như Ý Túc. Không có Ðịnh Như Ý Túc thì Tứ Thánh Ðịnh chỉ có đứng ngoài cổng nhìn vào, chứ không bao giờ nếm được mùi vị gì của Thiền định. Ðịnh Như Ý Túc từ giới luật sinh ra “Giới sinh định”, tức là giới sinh ra Ðịnh Như Ý Túc. Có Ðịnh Như Ý Túc mới nhập Tứ Thánh Ðịnh được. Cho nên, Tầm tứ có tầm tứ thiện và có tầm tứ ác, có tầm tứ nội và có tầm tứ ngoại; còn hỷ thì có 18 loại hỷ. Vậy xả loại hỷ nào và bằng cách thức tịnh chỉ hỷ như thế nào? Người nào muốn thực hiện nhập được định Tứ Thiền thì phải tâm ly dục ly ác pháp, tức là giới luật phải thanh tịnh và pháp hướng tâm phải có hiệu quả, chứ không phải ngưng sổ tức mà nhập được Tứ Thiền. Ðức Phật đã dạy rất rõ ràng, muốn nhập Bốn Thánh Ðịnh và Diệt Thọ Tưởng Ðịnh thì phải tịnh chỉ ngôn ngữ, phải tịnh chỉ tầm tứ, phải tịnh chỉ 18 loại hỷ tưởng, phải tịnh chỉ hơi thở và phải tịnh chỉ thọ tưởng, lời Phật dạy: “Tịnh chỉ tầm tứ là ngưng khẩu hành. Tịnh chỉ hỷ là ngưng tưởng hành. Tịnh chỉ hơi thở là ngưng thân hành. Tịnh chỉ thọ tưởng là ngưng ý hành. Tịnh chỉ ngôn hành là nhập Sơ Thiền. Tịnh chỉ khẩu hành là nhập Nhị Thiền. Tịnh chỉ tưởng hành là nhập Tam Thiền. Tịnh chỉ thân hành là nhập Tứ Thiền. Tịnh chỉ thọ hành và tưởng hành là nhập Diệt Tận Ðịnh còn gọi là nhập Diệt Thọ Tưởng Ðịnh”.

Muốn thực hiện được Tam Minh và Thần Túc Thông (ĐườngVề.5) thì phải dùng pháp như lý tác ý, ngoài pháp môn như lý tác ý ra, không có pháp môn nào thực hiện được.

Muốn thực hiện sống đời đạo đức từ tâm (ĐạoĐức.2) thì cần phải có sự suy nghĩ chân chánh. Khi một người oán ghét tức giận một người khác, thì người ấy là người đang chịu khổ đau đầu tiên, là người ôm giữ ác pháp vào lòng; là người sống trong điên đảo tình (nếu vì con cái người thân... của họ mà làm cho họ phiền muộn, tức giận); điên đảo tâm (nếu vì của cải vật chất nhà cửa ruộng đất... mà sanh ra buồn phiền, tức giận); điên đảo kiến (nếu vì ý kiến, ý thức hệ bất đồng giữa họ và các bạn, v.v...). Người điên đảo như vậy là người đáng thương, chứ sao ta lại ghét họ? Một người đang sống trong điên đảo tình, điên đảo tâm, điên đảo tưởng, điên đảo kiến, thì họ là người đang sống trong đau khổ tận cùng. Người như vậy là kẻ đáng thương hơn là đáng ghét. Khi người ấy dùng lời nói chửi mắng hay có những hành động làm khổ ta, thì nên suy nghĩ: “Họ là những người đã làm khổ đau họ trước nhất. Họ là những người vô đạo đức với họ, họ là những người khùng điên, những người ngu si”. Do lòng oán ghét, tức giận, họ không kham nhẫn, không chịu đựng được nên mới tìm ta chửi mắng hoặc đánh ta cho đã cơn giận, tức là làm cho hết cơn khổ đau tức tối trong lòng họ. Khi suy tư như vậy ta không còn giận hờn họ. Người ta đang sống trong đau khổ thì mình phải thương chứ sao! Khi suy nghĩ quán xét biết họ là người đang khổ đau như vậy thì ta không còn phiền não tức giận họ nữa. Nếu tư duy đúng như vậy thì chúng ta thoát khổ, chúng ta biết thương mình, không làm hại mình. Một sự cần hiểu biết đơn sơ như vậy đã hóa giải được tâm chúng ta không còn đau khổ. Ðó là hành động hiểu biết sống về đạo đức thương mình rất đơn giản, chỉ cần có hiểu đúng nhân quả là đã biến chúng ta thành người có đạo đức cao thượng. Khi chúng ta hiểu biết như vậy, thì thương xót họ. Sự thương xót như vậy là “Ðạo Ðức Từ Tâm”. Ðức Từ Tâm xuất phát từ sự tư duy chân chánh, từ sự hiểu biết khổ đau của người khác như thật. Nên tự nơi sự hiểu biết chân thật đó phát khởi lòng thương yêu chân thật người đang chửi mắng mình, người thù hận mình, chứ không phải thương yêu một cách giả vờ để nén tâm chịu đựng sự bực tức trong mình. Ðạo đức từ tâm ở đâu thì sự tu duy chân chánh ở đó, sự tư duy chân chánh ở đâu thì đạo đức từ tâm ở đó. Ðạo đức từ tâm chính là sự tư duy chân chánh, sự tư duy chân chánh tức là đạo đức từ tâm. Ðạo đức từ tâm làm cho sự sống cao thượng, sự sống cao thượng là hành động của đức từ tâm.

Muốn thực hiện Tứ Chánh Cần được trọn vẹn (ĐườngVề.6) thì phải tu tập “Tứ Niệm Xứ”, muốn thực hiện Tứ Niệm Xứ để khắc phục tâm tham ưu ở đời, thì suốt ngày đêm phải thực hiện ba loại định: 1- Chánh Niệm Tĩnh Giác Ðịnh. 2- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 3- Ðịnh Vô Lậu.

Muốn thực hiện Tứ Niệm Xứ để khắc phục tâm tham ưu ở đời (ĐườngVề.6) thì suốt ngày đêm phải thực hiện ba loại định: 1- Chánh Niệm Tĩnh Giác Ðịnh. 2- Ðịnh Niệm Hơi Thở. 3- Ðịnh Vô Lậu. Ba loại định này sẽ thực hiện cộng chung với đời sống giới luật nghiêm túc và hạnh độc cư thì sẽ đạt được tâm bất động trước các ác pháp, tức là nhập “Bất Ðộng Tâm Ðịnh”. Bất động tâm định là một pháp môn thiền định, kết quả của sự ngăn ác và diệt ác pháp rất tuyệt vời mà không có một pháp môn nào hơn được.

Muốn tích tập sự ly tham, ly sân, ly si (Phậtdạy.3) thì hằng ngày phải thường tinh tấn, siêng năng như lý tác ý 1/ “Ly tham là tâm của ta”, 2/ “Ly sân là tâm của ta”, 3/ “Ly si là tâm của ta”. Ngày ngày tác ý như vậy, tâm sẽ huân tập vào không tham, không sân, không si. Tâm không tham, không sân, không si là tâm giải thoát. Những lời đơn giản này là cả một vấn đề bền chí tu tập, nếu không bền chí huân tập thì không tích tụ được tâm ly tham, ly sân, ly si. Không tích tụ được tâm ly tham, ly sân, ly si thì không làm sao hết tham sân si được. Phật pháp không dối người, pháp đơn giản nhưng phải thực hành bền chí gắng sức thì kết quả mới thấy. Hoặc theo như lý này mà tác ý: 1/ “Tánh không có tham là tâm của ta”; 2/ “Tánh không có sân là tâm của ta”; 3/ “Tánh không có si là tâm của ta”. Nếu tu tập 3 câu này không thấy có hiệu quả thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: 1/ “Tánh không chuyển hướng về dục hữu là tâm của ta”, 2/ “Tánh không chuyển hướng về sắc hữu là tâm của ta”, 3/ “Tánh không chuyển hướng về vô sắc hữu là tâm của ta”. Nhưng tốt nhất là tu theo đặc tướng của mình hợp với nhóm nào thì nên tu theo nhóm ấy. Càng tác ý nhiều là tích tập nhiều. Ðó là cách thức kết tụ tâm ly tham, ly sân, ly si... thành một khối không tham, sân, si... Phật dạy chỉ có hằng ngày tu tập tác ý như vậy, lần lượt tâm tham, sân, si bị đoạn diệt, cho nên ta biết rất rõ tâm có thanh tịnh hay không thanh tịnh. Nhưng phải biết cách vừa nương vào thân hành niệm nội hay ngoại vừa tác ý ly tham, sân, si. Với sự chuyên cần tinh tấn hằng ngày tu tập rèn luyện như vậy cho đến khi tâm tham sân si bị diệt sạch thì chúng ta đã thành công trên đường tu tập giải phóng được giặc sanh tử luân hồi, không còn bị qui luật nhân quả chi phối vượt thoát ra ngoài không gian và thời gian.

Muốn tiết độ ăn uống (CầnBiết.3) thì phải Ăn uống đúng cách, không ăn uống phi thời nên tâm mới ly dục ly ác pháp.

Muốn tìm được nguồn vui chân thật (4Tâm) thì hàng ngày phải trau dồi thân tâm của mình trong ba hành động của thân bằng pháp môn cụ thể:

Muốn tín ngưỡng theo một tôn giáo nào (CưSĩTu) thì phải tìm hiểu, nghiên cứu tôn giáo ấy cho tường tận. Nếu tôn giáo đó là một chân lý của loài người thì nên tin theo và sống đúng những lời dạy của tôn giáo ấy. Còn ngược lại, những tôn giáo xây dựng thế giới siêu hình, lấy nhất thần hoặc đa thần làm chỗ tín ngưỡng, đó là những tôn giáo ảo tưởng, thiếu thực tế, không cụ thể, thì cần nên xem xét lại đừng quá vội tin. Nó không mang đến lợi ích thiết thực cho đời sống, mà còn truyền đạt những tưtưởng mê tín, dị đoan, trừu tượng, lạc hậu, biến các bạn trở thành những người cuồng tin, mê tín, mù quáng, lạc hậu...

Muốn tịnh chỉ các hành trong thân (ĐườngVề.1) thì nên xem tham, sân, si đã quét sạch chưa? Nếu chưa thì nên hướng tâm như cục đất. Nếu tham, sân, si đã vắng bóng thì hướng tâm tịnh chỉ các hành và sẽ có kết quả ngay liền, không còn thấy khó khăn một chút nào cả. Vì khi tâm tham, sân, si vắng bóng thì bảy năng lực Giác Chi phải xuất hiện để giúp ta làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi.

Muốn tịnh chỉ hơi thở ra, hơi thở vô (PhậtDạy.1) thì phải có đủ bảy năng lực của Giác Chi, nếu không có đủ bảy năng lực Giác Chi thì khó mà nhập được Tứ Thiền.

Muốn tịnh chỉ ngôn ngữ (Phậtdạy.3) phải có Tâm thanh tịnh. Muốn tâm thanh tịnh phải có tâm ly dục, ly ác pháp; phải tu tập tác ý kèm bốn loại định của Tứ Chánh Cần: 1/ Ðịnh Niệm Hơi Thở, 2/ Ðịnh Vô Lậu, 3/ Ðịnh Sáng Suốt, 4/ Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. Tâm thanh tịnh là tâm ly dục, ly ác pháp. Muốn tâm ly dục ly ác pháp thì pháp môn Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm phải siêng năng tu tập. Nếu hiểu nghĩa tịnh chỉ ngôn ngữ bằng cách không nói chuyện (tịnh khẩu), thì ngàn đời tu hành cũng chẳng nhập được Sơ Thiền chút nào. Nhưng cũng nên nhớ, khi tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm, thì phải thực hiện phòng hộ sáu căn, do đó tránh hội họp, tránh nói chuyện, sống trọn vẹn trầm lặng độc cư, mà còn phải giữ tâm độc trú nữa. Có như vậy sự tu hành mới có thể đi đến nơi, đến chốn.

Muốn tỉnh giác trên thân hành (PhậtDạy.2) thì hãy phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình, khi phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình là hãy chủ động điều khiển thân hành, khẩu hành và ý hành, khiến cho thân hành, khẩu hành, ý hành của mình không có lỗi lầm. Thân hành, khẩu hành, ý hành không có lỗi lầm tức là Chánh Niệm, còn có lỗi lầm là có Tà Niệm.

Muốn tỉnh thức trên thân hành (ĐườngVề.5) thì phải dùng ý thức điều khiển tâm (Như lý tác ý) cho tâm ly dục ly ác pháp lìa hết tham, sân, si. Tâm lìa hết tham, sân, si thì ý thức dừng, tu tập như vậy thì không bị ức chế tâm. Dừng ý thức không có nghĩa là dừng vọng tưởng.

Muốn trau dồi lòng từ (4Tâm) thì hàng ngày phải siêng năng, nỗ lực tu tập tác ý trong khi đi “Dưới bước chân ta đi có rất nhiều sinh vật nhỏ bé và thảo mộc đang sống. Ta phải đi cẩn thận để tránh thương tổn, hoặc giết hại các sinh vật”, đứng “Chúng sanh chung quanh ta có rất nhiều, ta đừng đứng trên chúng để chúng khỏi bị tổn thương, héo úa, hoặc bị đè bẹp mà chết”, nằm “Ta hãy xem xét kỹ chỗ nằm có chúng sanh ở dưới đó không rồi mới nằm”, ngồi “Khi ngồi ta có thể đè bẹp chúng sanh ở phía dưới” thì mới có kết quả. Tâm ta dần dần sẽ thấm nhuần tâm từ rộng lớn bao la. Hàng ngày ta phải tránh né để cho chúng sanh sống an vui, ca hát là ta trau dồi lòng từ. Từ thuộc về nhân, khi chúng sanh không bị đau khổ. Bi thuộc về quả, khi chúng sanh đang bị đau khổ. Có lòng từ thì không có tâm chấp chặt, chỉ có sự bình đẳng, thương yêu nhau xuất phát từ trong đáy lòng của ta.

Muốn được thật sự có lòng từ thì hàng ngày ta phải trau dồi nó. Nhờ đó mà bản ngã ta mới tiêu mòn và ta thấy trong vạn vật có mình, mà như không có mình. Mỗi hành động của tay, chân đều hướng tâm, nhắc tâm ta thương yêu mọi loài, tâm ta mới thấm nhuần sâu tận xương tủy, và biến mãn ra thân mình đầy lòng thương yêu chân thật. Trau dồi lòng từ không phải là chuyện đơn giản. Đạt được phân nửa là ta đã sống an vui, thanh thản. Nếu muốn đạt lòng từ trọn vẹn một trăm phần trăm thì ta phải vứt bỏ hết tất cả tài sản, của cải thế gian. Trau dồi lòng từ là tu cái tham, sân, si, trong khi tham, sân, si chưa dứt thì làm sao có lòng từ. Trau dồi tâm từ là ngăn ngừa những điều kiện có thể làm cho chúng sanh đau khổ.

Muốn trau dồi tâm hỷ vô lượng (4Tâm) thì ta phải nhắc tâm ta bằng như lý tác ý: "Hỷ của dục lạc là tai nạn, là bệnh tật, là khổ đau; vậy ta phải lánh xa cái hỷ này."; "Hỷ của ngũ dục lạc là ảo giác, là thuốc độc, là rắn độc giết hại con người. Ta hãy lánh xa các loại hỷ này.” ; "Vui theo hỷ tâm vô lượng là ác pháp, là đau khổ. Ta hãy tránh xa hỷ này, yểm ly hỷ này, từ bỏ hỷ này.”

Muốn trau dồi tâm xả các pháp (4Tâm) thì phải tìm một nơi thanh vắng, tịch mịch như trong rừng, gốc cây, hang đá, khe núi, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, bóng mát, trong chòi lá để tập xả các pháp. Sau khi ăn cơm độ hai tiếng đồng hồ, khi thức ăn đã tiêu hóa, lúc không thấy no, ta mới bắt đầu tu tập: ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú, đặt niệm trước mặt, quán sát: 1) Sắc dục, phải như lý tác ý: “Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đau khổ từ kiếp này sang kiếp khác. Ta phải xả bỏ, từ khước, thoát ly ra khỏi, từ giã, không nên để tâm vướng mắc nó " Ta phải tu tập hoài để cho nó thấm nhuần tận xương tủy mới thôi. "Sắc dục là bất tịnh, là uế trược, hôi thúi, khó chịu vô cùng, tạo muôn ngàn tật bệnh, tai ương, và truyền nối nhau nhân quả luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, nối tiếp nhau vô cùng vô tận. Ta phải xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, xem Sắc dục như rắn độc, như ung nhọt, Sắc dục là hiểm nguy, là tai họa, là ác độc, là bệnh truyền nhiễm, nan y, khó chữa. Dứt khoát từ bỏ Sắc dục". Nhắc xong, ta ngồi để lặng tâm, giữ tâm thanh thản. Một lúc sau ta lại nhắc nữa. Muốn xả ly tâm sắc dục thế gian thì ta phải siêng năng trau dồi tâm xả của ta hàng ngày không được biếng trễ. Hãy tinh tấn, chớ có phóng dật theo nó, nhất là đối với nữ sắc. 2/. Của báu, vàng bạc của cải thế gian. Dùng pháp như lý tác ý câu này: "Tiền bạc, của cải, châu báu làm cho tâm ta ưa thích, say mê mà chạy theo, tạo ra biết bao điều tội ác."; "Tiền bạc của cải, châu báu thế gian là tên chủ độc tài. Ta tạo ra rất nhiều tội lỗi khi làm cho có chúng. Vậy ta phải từ giã, xa lìa, ông chủ này để thoát kiếp nô lệ."; "Tài sản, của cải, vật chất thế gian là rắn độc, là ung nhọt, là bệnh truyền nhiễm. Có ngày ta sẽ bị rắn độc cắn, hoặc bị bệnh truyền nhiễm. Ta hãy xa lánh nó." 3/. Tâm danh: Danh là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tán thán, tốt đẹp, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ, thiền đức, cao tăng, giới đức...Khi được danh thì ta thích thú, nên bị thu hút chạy theo danh. Danh là thứ dục nuôi lớn bản ngã con người. Thực hành từ bỏ tâm danh ta phải chọn một nơi thanh vắng, như bãi tha ma, sơn lâm, đống rơm, chòi lá, gò mả, đồng trống, gốc cây, gộp đá. Sau khi ăn cơm xong, nghỉ ngơi độ hai giờ, ta ngồi thẳng lưng, như lý tác ý: "Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn. Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, chỉ biết có tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử, luân hồi mà thôi."; - "Danh là tên giặc hão huyền không có thật. Ta chỉ là một con người như bao nhiêu người khác, một con người rất tầm thường mà thôi."; - "Danh là một thứ dục lạc, vô hình, thu hút, cám dỗ ta rất mạnh, khiến cho ta thêm ngã mạn, cống cao, do đó sanh ra ngũ triền cái (tham, sân, si, mạn, nghi), vậy ta phải cương quyết từ bỏ, viễn ly, xa lánh cái danh." - "Danh là một dục lạc có một ma lực vô hình, cám dỗ, lôi cuốn con người vào trong sanh tử luân hồi. Vậy ta từ phải bỏ, viễn ly, xa lánh cái danh dù bất cứ danh nào." . 4/. Tâm ăn: Chính là xả cái tâm tham ăn. Nó là một dục lạc lớn trong đời ta. Hãy quán cái ăn như uống thuốc, như trị bệnh. Chừng nào không ưa thích ăn ngon, không chê thức ăn dở, không ngán, không ớn là không bị dục lạc ăn cám dỗ. Không khắc phục được ma dục ăn thì làm gì tu được chánh thiền, chánh định! Người tu làm chủ sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, sầu khổ là chỗ lìa được ba cái dục danh, sắc, lợi nói trên. 4/. Tâm ngủ: Ngủ là một trong năm thứ ngũ dục lạc, khiến cho ta thích thú, ham ngủ. Ngủ cũng là trạng thái ngu si, mê muội, bần thần, dã dượi, lười biếng.

Muốn triển khai “Minh” trí tuệ (CầnBiết.3) (trong 12 duyên) kinh điển Nguyên Thủy nhắm vào duyên “sanh” (sanh y) để đoạn dứt nó. Đoạn dứt nó thì ưu bi, sầu khổ, bịnh chết cũng đoạn dứt. Nếu không đoạn tận sanh y, thì không thể thực hiện được, con đường giải thoát của Đạo Phật. Tu theo Phật Giáo, người tu hành phải đoạn dứt "sanh y", có đoạn “sanh y” thì tâm mới được giải thoát đau khổ. Người không đoạn dứt “sanh y”, không thể nào ly dục ly ác pháp và nhập Tứ Thánh Định được, do không ly dục ly ác pháp và nhập Tứ Thánh Định được, thì không còn pháp nào tu tập làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi. Các nhà Đại thừa và Thiền Đông Độ muốn triển khai “Minh” trí tuệ (trong 12 duyên) dùng pháp hành ức chế niệm thiện niệm ác, cho tâm không niệm thiện niệm ác là định và do tâm định thì phát tuệ (chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền), bản lai diện mục hiện tiền là Phật Tánh, mà Phật Tánh là tánh giác, tánh giác tức là trí tuệ. Do những pháp hành tu tập để triển khai trí tuệ nhưvậy, họ đã lầm, không ngờ đường lối tu tập ấy lại khai mở tưởng tuệ. Khi tưởng tuệ được khai mở thì lý luận của các nhà Đại thừa siêu việt tưởng, nên không tôn giáo nào tranh luận hơn được, nhất là lý Bát Nhã của Đại Thừa. Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc: «Vô khổ, tập, diệt, đạo».

Muốn triệt tiêu sanh y (ĐườngVề.3) là phải sống đúng đời sống giới luật của Phật, có nghĩa là sống đúng Phạm hạnh của một vị Thánh Tăng. Phạm hạnh của một vị Thánh Tăng, kinh dạy: “Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa, thiểu dục, tri túc, ba y một bát, tâm hồn trắng bạch như vỏ ốc, phóng khoáng như hư không”. Có lối sống triệt tiêu sanh y thì tâm mới ly dục ly ác pháp, có đoạn dứt sanh y thì tâm mới bất động trước các ác pháp.

Muốn trừ tâm tham dục (10Lành) thì nhìn lại thân mình và thân người từ lúc còn trẻ cho đến bây giờ, ta thấy biết bao nhiêu đổi thay (vô thường); quán cái thân này chứa nhiều thứ bất tịnh mà Đức Phật gọi là cái đãy da hôi thối (nước miếng, đờm, dãi, ghèn, cứt ráy, phẩn, nước tiểu, mồ hôi, ...). Nếu chưa đủ sức diệt trừ tâm ái dục thì phải tập quán tưởng: tử thi sình thối; dòi bọ rút rỉa; chó sói, kênh kênh đến rỉa thịt; con người chỉ còn là bộ xương; cuối cùng thì cái xương ấy cũng rã tan và một cơn gió thổi là lớp bụi trắng tung bay, không còn lại dấu vết. Tham tiền bạc thì phải đọa đày thân xác, lao động vất vả, đầu tắt mặt tối: làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm luôn cả ngày cuối tuần.

Muốn trưởng dưỡng trạng thái khinh an, hỷ lạc, lạc thọ (ĐườngVề.6) thì phải tập luyện khéo léo giữ tâm yên lặng trong trạng thái định đó, thỉnh thoảng hướng tâm bằng sự ước muốn (không phải là tác ý thô tháo). Ðối với đạo Phật chỉ cần tìm sự “làm chủ sanh, già, bệnh, chết”, chứ không có đi tìm thọ hỷ lạc, khinh an. Trạng thái hỷ lạc, khinh an có giải thoát cái gì cho con người đâu. Ði tìm chi cái hỷ lạc của thiền định không ra gì, ngồi như con cóc để thọ hưởng cái hỷ lạc đó, không lẽ tu hành rồi thành con cóc sao? Tu hành có hỷ lạc cũng tốt, không hỷ lạc cũng tốt. Phải biết rằng kết quả của sự tu là tâm ly dục ly ác pháp, chứ không phải chỗ hỷ lạc, khinh an, lạc thọ. Khi tu hành tâm có hỷ lạc thì loại hỷ lạc đó do ly dục sanh hay do ức chế tâm mà sanh ra, phải tự suy xét mình có sống đúng giới luật chưa? Nếu sống không đúng giới luật thì hỷ lạc sanh ra là do dục lạc tưởng, là do loại thiền định ức chế tâm.

Muốn từ bỏ tâm tham muốn (PhậtDạy.4)(CầnBiết.5) thì nên lưu ý từng hành động nhỏ nhặt như: ăn, uống, ngủ nghỉ, vui chơi, giao tiếp với bạn bè, v.v... Khi muốn từ bỏ tâm tham muốn phải xem xét kỹ lưỡng từ cái ăn, cái mặc, cái vui chơi xem coi nó còn tham ăn, tham ngủ, tham nói chuyện không? Ăn ngủ và nói chuyện là tướng tham sẽ hiện nơi đó. Khi tướng tham còn hiện là tâm chưa thanh tịnh; tâm chưa thanh tịnh dù có tu pháp nào đi nữa cũng đều là tu sai pháp, tu lạc đường cả. Do đó, sự tu tập chỉ uổng công mà thôi. khi tu tập từ bỏ tâm tham thì nên xem mình ưa thích ăn cái này, cái kia không? Nếu còn thích ăn cái này, cái kia thì tâm còn tham ái. Biết tâm còn tham ái thì phải cố gắng nhiếp phục tâm mình để từ bỏ tâm tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ phi thời. Khi từ bỏ được tâm tham ăn là không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt, đúng giờ thì ăn, không đúng giờ thì không ăn. Và không bao giờ thèm ăn cái này hay thèm ăn cái kia. Như vậy là đã lìa hay từ bỏ tâm tham ăn.

Muốn từ bỏ thân ngũ uẩn này (Phậtdạy.3) có rất nhiều pháp môn tu tập để từ bỏ thân ngũ uẩn, nhưng có một pháp môn hay nhất đó là pháp Như lý tác ý: Sắc là vô thường, cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật thấy với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Thọ là vô thường, cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật thấy với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Tưởng là vô thường, cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật thấy với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Các hành là vô thường, cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật thấy với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Thức là vô thường, cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật thấy với chánh trí tuệ là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Nói thì dễ, nhưng tác ý để biết như thật thì phải có thời gian tu tập không phải là ít.

Muốn tu cho tâm được an (ĐườngVề.1) thì phải theo lời đức Phật đã dạy: “Tỉnh thức trong thân hành niệm ngoại”, tức là đi, đứng, nằm, ngồi, làm tất cả mọi việc đều phải tỉnh thức trong mọi hành động, việc làm của mình. Tỉnh thức trong hành động ngoại để khắc phục tham ưu tức là lìa các chướng ngại pháp trong tâm. Lìa chướng ngại pháp trong tâm thì tâm được an ổn. Muốn được như vậy, thì tâm luôn luôn phải tỉnh thức trên thân hành, và luôn luôn phải tác ý ly tham, đoạn ác pháp. Cho nên, tu trong thân hành niệm tức là lấy hành động của thân để tỉnh thức mà xả các niệm ác, xả các chướng ngại pháp để tâm không còn bất an. Bởi vì, tâm đã huân thành nghiệp bất an lâu đời, nên hở ra một pháp nào va chạm vào tâm là tâm chướng ngại bất an liền, cho nên cần phải siêng năng tu tập xả tâm, chứ không phải nhìn lại chỗ bất an mà tâm an. Kỳ thật, không bao giờ có tâm an như vậy.

Muốn tu chứng quả A La Hán (Phậtdạy.3)(CầnBiết.2) phải sống đúng giới luật, tức là phạm hạnh của một vịThánh tăng, ngoài phạm hạnh của một vị Thánh tăng ra thì không thể nào chứng quả A La Hán được, và phải tu tập Thiền Thứ Tư tịnh chỉ hơi thở, xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh. Muốn tịnh chỉ hơi thở xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh (nhập Thiền Thứ Tư) thì phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, người lạ, ốm đau, người lạ hủy hoại, rỗng không, vô ngã. Khả năng tu chứng của bậc A La Hán là một siêu nhân, không thể lấy trí hữu hạn mà hiểu thấu năng lực siêu việt ấy được. Phật và A La Hán đều chứng quả nhưnhau, nhưng Phật là người sáng lập ra đạo Phậtnên được gọi là Phật, còn A La Hán là những người tu chứng giải thoát như Phật nhưng phải theo giáo pháp của đức Phật, vì thế nên không được gọi là Phật, chỉ được gọi là A La Hán mà thôi. Nếu gọi tất cả A La Hán là Phật thì cũng không sao, nhưng lòng người muốn phân biệtdanh từ A La Hán và Phật như vậy là vì họ muốn tỏ lòng tôn kính đức Phật Thích Ca Mâu Ni hơn. Đức Phật là người đã dầy công tu tập mới sáng lập ra đạo Phật và để lại cho loài người mộtgiáo pháp đạo đức tuyệt vời, công ơn ấy rất lớn. Phật có thể gọi mình A La Hán, nhưng A La Hán không thể gọi mình là Phật được.

Muốn tu Giới luật giai đoạn một (ĐườngVề.6) thì phải tu tập Tứ Chánh Cần. Tu Tứ Chánh Cần gồm có bốn loại định: 1- Chánh Niệm Tĩnh Giác, 2- Vô Lậu Ðịnh, 3- Sáng Suốt Ðịnh, 4- Ðịnh Niệm Hơi Thở gồm có 18 đề mục tu tập.

Muốn tu hành để thoát ra lưới nhân quả (PhậtDạy.2) thì duy nhất chỉ có Pháp Thiện, vì thế phải từ trên pháp Tứ Niệm Xứ. Trên pháp Tứ Niệm Xứ ta phải tu tập từ pháp dễ đến pháp khó hơn. Bắt đầu phải tu pháp Tứ Chánh Cần, trên Tứ Chánh cần ta phải tu Tứ Bất Hoại Tịnh. Tu Tứ Bất Hoại Tịnh là phải sống như Phật, như Pháp, như Tăng, như Giới. Muốn sống như Phật, như Pháp, như Tăng, như Giới thì phải tu tập Tứ Vô Lượng Tâm. Muốn tu tập Tứ Vô Lượng Tâm phải tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở, Ðịnh Sáng Suốt, Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. Khi chọn pháp xong, mỗi khi muốn tu tập một pháp nào hãy ăn mặc tề chỉnh, hướng về pháp mà đảnh lễ ba lạy, rồi bắt đầu sống như pháp. Sống như pháp, chúng ta gọi là tu tập.

Muốn tu hành dứt bỏ tâm dâm dục (CữSĩTu) thì phải thực hiện: 1- Phòng hộ sáu căn (Sống độc cư trầm lặng một mình). 2- Hằng ngày phải tu tập các pháp Chánh niệm tỉnh giác định. 3- Tu tập 18 đề mục Ðịnh Niệm Hơi Thở. 4- Tu tập Ðịnh Vô Lậu. 5- Tu tập Tứ Niệm Xứ. 6- Tu tập Thân Hành Niệm. 7- Tu tập Ðịnh Sáng Suốt. Tâm còn dâm dục thì không thể nhập vào dòng Thánh được (tức quả nhập lưu hay quả Tu Ðà Hoàn).

Muốn tu hành theo Phật giáo (TâmThư.1) thì đầu tiên chọn một vị thầy tu chứng đạt chân lý, giới luật sống nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Khi chọn được một thầy như vậy thì nên thân cận thưa hỏi. Vị Thầy đó chỉ dạy cho hiểu biết chân lí tức là giác ngộ chân lí; sau khi giác ngộ chân lí xong, vị thầy ấy chỉ cách thức hộ trì chân lí. Khi chân lí được hộ trì đúng cách thì chứng đạt được chân lí; nghĩa là thấy rõ tâm hoàn toàn đoạn diệt tham, sân, si. Tham, sân, si đã đoạn diệt thì tâm định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng, lúc bấy giờ mới có đủ Tứ Thần Túc. Dùng Tứ Thần Túc nhập thiền, nhập định bằng pháp hướng tâm tác ý. Như vậy sự nhập thiền định của Phật không có liên quan đến vấn đề điều thân, điều tức, điều tâm.

Muốn tu pháp an trú tâm thanh thản, an lạc, vô sự lập đức nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng (ThiềnCănBản) (là dẫn tâm tập nhập Sơ Thiền) để lập đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Lập đức nhẫn nhục, tùy thuận bằng lòng là để ly dục ly ác pháp. Tâm có thanh thản thì tâm mới bình tĩnh, sáng suốt. Tâm có bình tĩnh sáng suốt thì tâm mới nhẫn nhục. Tâm nhẫn nhục thì tâm mới tùy thuận. Tâm có tùy thuận thì tâm mới bằng lòng. Tâm có bằng lòng thì tâm mới xả được. Tâm có xả được thì tâm mới ly dục ly ác pháp.

Muốn tu pháp môn Tứ Niệm Xứ (ĐườngVề.6) là phải ở trên thân quán thân tu về nhân tướng, tức là tu về “Ðịnh Vô Lậu” quán xét thân, thọ, tâm và các pháp bằng “luật nhân quả”; bằng “Tam pháp ấn” vô thường, khổ, vô ngã, v.v… bằng quán Thập Nhị Nhân Duyên; bằng quán Tứ Diệu Ðế; bằng quán Thân Ngũ Uẩn không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta và bằng quán thân, thọ, tâm, pháp bất tịnh, hôi thúi, uế trược, bẩn thỉu. Nhờ có tu tập như vậy, các pháp ác mới đẩy lui được, mới đoạn dứt được, mới đem lại sự thanh bình cho tâm hồn, mới làm nên một cuộc cách mạng tư tưởng, mới chiến thắng được tâm mình.

Muốn tu pháp niệm Tăng cho đúng (PhậtDạy.1)(TứBấtHoại)(CữSĩTu) thì trước tiên phải chọn những vị Tăng nghiêm trì giới luật. Những vị Tăng nghiêm trì giới luật là những vị sống thiểu dục tri túc, ba y một bát, sống không có chùa to Phật lớn, sống xa lìa những vật chất tiện nghi đầy đủ, sống không có ăn mặc sang đẹp, sống thường đi xin từng miếng mà ăn, sống ngày một bữa không có ăn uống phi thời, sống không cất giữ tiền bạc của cải tài sản, thường lấy gốc cây làm giường nằm.

Muốn tự sống thanh tịnh thân tâm của mình (TruyềnThống.2) thì phải thực hiện sáu giới đức hạnh này: 1/ Từ bỏ lấy của không cho, 2/ Tránh xa sự lấy của không cho, 3/ Chỉ lấy những vật đã cho, 4/ Chỉ mong những vật đã cho, 5/ Tự sống thanh tịnh, 6/ Không có trộm cắp. Khi giới luật giữ gìn sống nghiêm chỉnh không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì đó là đã tự sống làm cho thân tâm thanh tịnh.

Muốn tu tập “Định lực” có kết quả (TâmThư.2) thì chỉ cần giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh và luôn luôn thể hiện đức hạnh để xả tâm ly dục ly ác pháp. Vì thế khi nào tâm đã bất động thì tu tập định lực mới có kết quả. Nên nhớ lời dạy này để xả tâm cho tận gốc: “các pháp vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta cả”.

Muốn tu tập bốn thiền (CầnBiết.4) (bốn thiền là Tứ Thánh Định: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền) thì phải tu tập ly dục ly ác pháp mà ly dục ly ác pháp là giới luật, là thiện pháp. Nghĩa là muốn tu tập làm chủ sự sống chết thì phải sống nghiêm chỉnh Giới luật và tu tập Tứ Niệm Xứ để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thánh Định.

Muốn tu tập chứng đạt giải thoát (PhậtDạy.4) thì không gì hơn là tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác “Khi đi biết mình đi”.

Muốn tu tập để chứng bốn Thánh quả (PhậtDạy.2) (Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán) thì phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác tức tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ, tu tập làm cho sung mãn Tứ Niệm Xứ. Có tu tập bốn Thiền mới có chứng bốn Thánh quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.

Muốn tu tập để đoạn diệt lậu hoặc (CầnBiết.3) Muốn tu tập đoạn diệt lậu hoặc thì Trạch Pháp Giác Chi là pháp môn tu tập thứ nhất. Trạch Pháp Giác Chi có nghĩa là chọn lựa pháp môn tu tập để được giác ngộ giải thoát. Người tu tập mà không biết chọn pháp môn tu hành là người thiếu cân nhắc, thiếu tư duy, thiếu sáng suốt, thường nhẹ dạ, yếu lòng, dễ bị người khác lừa đảo. Trong pháp môn Bảy Giác Chi gồm có: Trạch Pháp Giác Chi, Niệm Giác Chi, Tinh Tấn Giác Chi, Khinh An Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Định Giác Ch,i Xả Giác Chi. Khi bắt đầu vào tu tập thì phải sử dụng pháp Bảy Giác Chi, và phải dùng pháp như lý tác ý đi song hành theo dù là sống đời sống Phạm hạnh vẫn phải sử dụng Giác Chi, nhưng khi pháp tu cuối cùng để nhập các định và thực hiện Tam Minh thì phải dùng bảy năng lực Bảy Giác Chi.

Muốn tu tập Ðịnh Như Ý Túc (Phậtdạy.3) thì dùng Trạch Pháp Giác Chi hướng tâm nhập Sơ Thiền bằng câu tác ý “Tâm ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền”. Ðó là câu trạch pháp hướng tâm của Thất Giác Chi. Hướng tâm đúng pháp và đầy đủ lực Giác Chi thì nhập định được ngay liền.

Muốn tu tập Định Niệm Hơi Thở (MuốnChứngĐạo) thì phải ngồi kiết già (nếu chưa quen thì tạm thời ngồi bán già, nhưng phải tập ngồi kiết già cho được); giữ lưng ngay thẳng, không khòm, không nghiêng tới trước hay ngả sang bên phải bên trái, cũng không rướn người quá cao, chỉ giữ ở mức thoải mái mà thẳng lưng. Lúc này phải kiểm soát lưng cho thẳng sau mỗi vài phút. Đầu ngửng lên thẳng với lưng, không cúi tới trước, không nghiêng sang bên, phải kiểm soát giữ đầu thẳng sau mỗi vài phút. Mắt nhìn xuống phớt thấy chóp mũi, ý tập trung ở điểm giữa nhân trung để cảm nhận hơi thở đi vào và đi ra ngang qua điểm này. Hai tay úp trên đầu gối, hay buông thỏng trước hai ống chân, hay để ngửa chồng lên nhau tựa sát bụng đặt trên hai gót chân, để tay đâu cũng được miễn sao cho thoải mái. Sau khi ngồi đúng thế xong, không nhúc nhích động đậy nhưng không gồng cứng cơ bắp nào, giữ yên tỉnh toàn thân ít nhất vài phút, thoải mái cảm nhận toàn thân và cảm nhận hơi thở vô ra tự nhiên, lưu ý và giữ sự tự nhiên này của hơi thở. Chuẩn bị như thế xong, tác ý nhắc tâm “Mắt nhìn chóp mũi, ý tập trung ở nhân trung”, nhắc xong thì tác ý trong khi nín thở “Hít vô dài tôi biết tôi hít vô dài ; thở ra dài tôi biết tôi thở ra dài”. Nếu cảm thấy nín thở tác ý câu dài này có khó chịu thì có thể tác ý theo một trong hai câu được cắt ngắn bớt như sau và khi đã chọn ổn định câu nào thì chỉ sử dụng câu đó cho sự tập luyện, không nên thay đổi tới lui. - “Tôi biết tôi hít vô dài; tôi biết tôi thở ra dài”, hay “Hít vô dài tôi biết, thở ra dài tôi biết.”, hay - “Hít dài, thở dài.” . Tác ý xong đếm “Một” rồi theo dõi Hơi Thở đi vô từ lúc bắt đầu vô đến khi ngưng thở ra. Đếm “Hai” cho hơi thở kế, rồi “Ba”, “Bốn”, “Năm”. Mỗi lần đếm số xong thì phải theo dõi hơi thở từ lúc bắt đầu vô đến khi ngưng thở ra. Đó là cách đếm số trước mỗi hơi thở. Quí vị có thể chọn cách đếm số sau mỗi hơi thở. Cứ hít vô vừa đủ thì thở ra vừa hết, đếm “một”, nghĩa là một hơi hít vô và một hơi thở ra xong đếm một số. Theo dõi kĩ hơi thở từ lúc bắt đầu hít vô cho đến khi ngưng thở ra. Và cứ như thế tiếp tục đếm lên tới hơi thở thứ năm là đủ 5 hơi thở vô ra. Sau khi đã hít thở xong hơi thở thứ năm thì nín thở tác ý lại câu tác ý đã chọn. Thời gian tập như vậy kéo dài trong 5 phút thì nghỉ xả 5 phút, rồi tập lại 5 phút khác. Cứ như vậy mà tập luyện cho hết thời gian đã chọn, nhưng tối đa cũng chỉ nửa giờ thôi, đừng lâu hơn. Trong lúc nghỉ xả giữa hai lần tập hít thở, chỉ ngồi thoải mái, không làm gì khác cũng đừng suy nghĩ gì nhiều. Quí vị hãy tập cho đến khi nhiếp phục được tâm. Tập thời gian chỉ 5, 10 phút thôi. Tâm bám thật kĩ từng hơi thở để an trú trong hơi thở tức là nhiếp phục được tâm trong hơi thở. An trú có nghĩa là không một niệm nào xen vào trong khi hít thở. Hãy nhớ kĩ vậy. Luôn luôn phải giữ ý thức. Đừng để mất ý thức. Phải rõ ràng tỉnh giác.

Khi mới làm quen với hơi thở không nên tu tập nhiều mà chỉ nên tu tập thời gian ngắn từ 1 phút đến 5 phút rồi xả nghỉ 5 phút, khi nghỉ 5 phút xong lại tiếp tục tu tập 5 phút khác. Tu tập phải có chất lượng, tức là nhiếp tâm và an trú tâm cho được, có nghĩa là không còn có một niệm nào xen vào trong hơi thở, nghĩa là lúc bấy giờ tâm chỉ duy nhất biết có hơi thở ra vào một cách nhẹ nhàng, thoải mái và dễ chịu. Đấy là tu tập đúng pháp, còn ngược lại có chướng ngại pháp, tức là hô hấp rối loạn, tức ngực, đau đầu, hơi thở khó thở thì đó là tu sai pháp, có phần ức chế tâm và hơi thở, cần phải dừng lại không nên tu tập nữa, phải chờ thiện hữu tri thức kiểm tra lại hơi thở, chừng nào thiện hữu tri thức cho phép thì mới tu lại.

Muốn tu tập Ðịnh Sáng Suốt (ĐườngVề.2)(CưSĩTu) Khi tu tập Ðịnh Sáng Suốtthì tìm một nơi an tịnh ngồi buông xả các pháp ra, có nghĩa là không còn tu tập pháp nào cả, buông thả các cơ trong tay, chân và thân ra, và tác ý: “Các cơ và tinh thần buông xuống! Buông xuống hết!”. Nhắc như vậy để rồi toàn thân sẽ thư dãn, và tinh thần sẽ thấy thoải mái, an lạc và dễ chịu. Lúc chưa ngồi kiết già được thì có thể ngồi tựa, buông thõng hai tay hai chân, các cơ trong thân cũng phải đều buông thõng xuống hết rồi hướng tâm nhắc: “Các cơ trong thân buông xuống hết, thần kinh trong thân đều thư giãn hết, thân tâm phải thoải mái, nhẹ nhàng, thanh thản, an lạc và vô sự”, khi nhắc như vậy xong thì buông thõng các cơ xuống không được gồng một cơ bắp nào cả, và tâm thì không được tập trung vào một đối tượng nào, để tự nhiên cho thân tâm tự do một cách dễ chịu.

Muốn tu tập Định Vô Lậu (PhậtDạy.1)(ĐườngVề.9)(CầnBiết.3) Tu Ðịnh Vô Lậu tức là quán xét như thế nào để cho tâm ham muốn và các ác pháp lìa xa khỏi thân tâm khiến cho thân tâm không còn phiền não đau khổ nữa. Muốn Tu Ðịnh Vô Lậu thì phải dùng ý thức, tức dùng pháp tác ý và pháp như lý tác ý tu tập đúng cách thì mới ly dục ly ác pháp; nhờ ly dục ly ác pháp mà tâm mới nhập định; nhờ định mà có Tam Minh; nhờ Tam Minh mà vô minh mới diệt trừ tận gốc hay nói cách khác nhờ Tam Minh mà tham ái được diệt trừ tận gốc. Bắt đầu vào tu, hành giả ngồi kiết già hoặc ngồi bán già lưng thẳng hoặc ngồi trên ghế thường hoặc đi kinh hành hoặc làm mọi việc. Tuy đi, đứng, nằm, ngồi hoặc làm mọi việc mà lúc nào cũng để ý bốn chỗ thân, thọ, tâm và pháp, nếu trên bốn chỗ này có xảy ra chướng ngại pháp thì nên quán xét chướng ngại pháp đó rồi dùng pháp hướng đẩy lui ra khỏi bốn chỗ này, khi chướng ngại pháp đã được đẩy lui ra khỏi thân tâm thì ngay đó thân tâm được giải thoát. Thân tâm được giải thoát tức là vô lậu, vô lậu tức là thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự.

Muốn tu tập định Vô Lậu để chứng quả A La Hán (Phậtdạy.3) thì phòng hộ sáu căn là đệ nhất pháp. Phòng hộ sáu căn là pháp môn độc cư.

Muốn tu tập đức bằng lòng (ThiềnCănBản) thì phải có chánh kiến.

Muốn tu tập đức bằng lòng (ThiềnCănBản) thì phải lập hạnh tôn kính, kính trọng mọi người. Nhờ tu hạnh tôn kính nên tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an vui, bằng lòng trước mọi cảnh, mọi việc, xa lìa các ác pháp, được giải thoát.

Muốn tu tập tâm như gió (TruyềnThống.1) thì chúng ta phải nương vào hơi thở mà tác ý: “Tâm ta phải như gió, thổi cho thật sạch tất cả các pháp tham, sân, si, mạn, nghi; hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Nhớ câu tác ý này và ngày ngày bền chí tu tập thì tâm có một nội lực mạnh sẽ thổi tan tất cả, dù là núi non hùng vĩ, dù có cứng chắc và trơ trơ như sắt đá vẫn bị sức mạnh của tâm như gió thổi tan nát.

Muốn tu tập giải thoát (ThanhQui) thì tâm phải thấm nhuần giới luật đức hạnh nhân quả, do đó mới xả tâm ham muốn và các ác pháp một cách dễ dàng. Bởi vì, khi ý thức thấm nhuần giới luật đức hạnh nhân quả thì rất tỉnh táo nên vừa chớm thấy sanh khởi các ác pháp và niệm ham muốn thì tri kiến nhân quả giải thoát tự nó phản xạ ngăn, diệt ác pháp và lòng ham muốn ngay một cách tự nhiên, chứ không phải chờ chúng ta quán xét suy tư rồi mới xả, nhờ vậy mà ác pháp và tâm ái dục không còn tác động vào thân tâm được.

Muốn tu tập Hỷ Giác Chi (ĐườngVề.9) thì hãy nhập vào trạng thái tâm ly dục ly ác pháp, hay nói cách khác là nhập vào Bất Ðộng Tâm Ðịnh. Hỷ Giác Chi thuộc về tâm.

Muốn tu tập Khẩu Thiện Hành (PhậtDạy.2)(CầnBiết.4) thì phải tu tập Tứ Chánh Cần. Hằng ngày nên giữ gìn lời ăn tiếng nói. Không nói thì im lặng như Thánh, nhưng khi nói ra thì phải nói ra lời thiện, không được nói dối, không được nói thêu dệt, không được nói lời hung dữ, nói lật ngược, nói xấu người khác, v.v... Ăn uống đúng giờ giấc, ăn uống có tiết độ, ăn uống có lòng từ bi, không ăn uống thực phẩm động vật, vì thực phẩm động vật là có sự đau khổ của loài động vật. Người giữ gìn Khẩu Thiện Hành thì khẩu hành mới được thanh tịnh.

Muốn tu tập Khinh An Giác Chi (ĐườngVề.9) thì chỉ có nhập vào Bất Ðộng Tâm Ðịnh.

Muốn tu tập Khổ, Tập, Diệt, Ðạo Thánh Ðế trên Tứ Niệm Xứ (ĐườngVề.9) thì bắt đầu sanh khởi, xả ly, diệt trừ và an trú tại bốn chỗ: “Thân, thọ, tâm, pháp”: 1/ Thứ nhất bắt đầu quan sát và xem xét nơi “Thân” Niệm Xứ coi có các chướng ngại pháp trên đó hay không? Nếu có (sanh khởi) tức là “Khổ, Tập Thánh Ðế” đang tạo tác trên thân khiến cho thân bất an, thì nên dùng Ðịnh Vô Lậu quét sạch (xả ly) “khổ, tập” trên đó xong rồi thì dùng câu pháp hướng tâm để tạo cho tâm có một nội lực sung mãn để Tập Ðế không còn tập họp (diệt trừ) trên thân Tứ Niệm Xứ được và cuối cùng thân Tứ Niệm Xứ được an lạc và vô sự “Diệt Ðế” (an trú). Ðây là sự tu tập Khổ, Tập, Diệt Thánh Ðế từ sanh khởi, xả ly, diệt trừ và an trú trên thân Tứ Niệm Xứ. 2/ Thứ hai kế tiếp cũng quan sát và xem xét (sanh khởi) “Thọ” Niệm Xứ của chúng ta và cũng tu tập như thân Tứ Niệm Xứ vậy. Ðây là sự tu tập Khổ, Tập, Diệt Thánh Ðế từ sanh khởi, xả ly, diệt trừ và an trú. 3/ Thứ ba, sau khi tu tập Thọ Niệm Xứ xong tiếp tục quan sát xem xét “Tâm” Niệm Xứ và cũng tu tập như Thân Niệm Xứ ở trên vậy. Ðây là sự tu tập Khổ Tập, Diệt Thánh Ðế từ sanh khởi xả ly diệt trừ và an trú. 4/ Thứ tư, sau khi tu tập “Tâm” Niệm Xứ xong tiếp tục tu tập “Pháp” Niệm Xứ. Pháp Niệm Xứ chia ra làm hai loại: 1- Pháp Niệm Xứ ngoại. 2- Pháp Niệm Xứ nội. Pháp Niệm Xứ ngoại gồm có hai phần: a- Pháp Niệm Xứ ngoại thế gian. b- Pháp Niệm Xứ ngoại xuất thế gian. Pháp Niệm Xứ nội gồm có hai phần: a- Pháp Niệm Xứ nội Thế gian. b- Pháp Niệm Xứ nội xuất thế gian. Dù chia chẻ các pháp ra như vậy, nhưng chúng ta phải hiểu các pháp thế gian dù nội hay ngoại đều là ác pháp cả, còn ngược lại pháp xuất thế gian dù nội hay ngoại đều là thiện pháp cả. Vì thế đức Phật dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp” đó là pháp thế gian, “sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” đó là pháp xuất thế gian. Sau khi chia ra và phân biệt rõ pháp nội và ngoại, thế gian và xuất thế gian, từ trên pháp chúng ta tu tập như thân Tứ Niệm Xứ vậy. Ðây là sự tu tập Khổ, Tập, Diệt Thánh Ðế từ sanh khởi, xả ly, diệt trừ và an trú.

Muốn tu tập làm chủ bốn sự đau khổ (ChùaAm) thì nên tu tập làm chủ TÂM trước tiên, khi làm chủ TÂM được rồi thì mới tu tập làm chủ THÂN.

Muốn tu tập ly bất thiện pháp (ThiềnCănBản) thì phải dùng ba đức: Nhẫn nhục, Tùy thuận, Bằng lòng. nghĩa là đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi sự vật, mọi đối tượng, phải tu tập Pháp Hướng Tâm (hay Pháp Dẫn Tâm) triển khai những trí tuệ nhân quả, duyên tan hợp để thấu rõ lý Vô Thường, Khổ, Vô Ngã của đạo giải thoát thì chừng đó mới nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng được. Pháp Hướng Tâm là nhắc tâm. Hướng Tâm Như lý tác ý: “Cái tâm từ đây về sau không được kiến chấp cái tâm là có thật, mà phải thấy nó không phải của ta, không phải là ta, không phải bản ngã của ta, khi chúng ta quán xét như vậy nên không còn chấp ngã, do không chấp ngã nên đau khổ, phiền não trong tâm không còn nữa”.Hướng Tâm Như lý tác ý: “Các duyên tan hợp theo nhân quả, diễn biến luân hồi nên không có thật thể bản ngã, toàn là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã”.Hướng Tâm Như lý tác ý: “Ðời sống của con người là duyên tan hợp của nhân quả, cho nên không có bản ngã chân thật, toàn là vô thường và đau khổ. Từ đây cái tâm phải bỏ xuống, không được chấp cái ta nữa, vì chấp cái ta là tạo thêm đau khổ và ác pháp trong tâm”.Hướng Tâm Như lý tác ý: “Ai theo cái duyên nhân quả, tạo ác, là phải thọ lấy cái quả khổ, ta không dại gì đem khổ vào thân. Từ nay, cái tâm hãy bỏ xuống đi để được an vui, thanh thản và vô sư”.

Muốn tu tập ly dục ly bất thiện pháp (ThiềnCănBản) thì phải diệt ngã xả tâm, phải luôn luôn dè dặt từng ý tứ, từng lời nói, phải tư duy quán xét rồi mới nói. Ðối với người khác không được nói, cười đùa, không được nói mỉa mai, không được nói móc lò. Phải cẩn thận trong lời nói. Phải tập suy nghĩ kỹ rồi mới nói, nếu không suy tư kỹ, lỡ nói ra không lấy lại được và nó sẽ làm mất giá trị đạo đức. Nên phải cẩn ngôn, lời nói ra càng nuôi dưỡng bản ngã thêm lớn nên cần phải ý tứ tư duy lời nói để ly ngã xả tâm, để ly dục, ly ác pháp. Ðây là phương pháp cách thức bảo vệ tâm qua khẩu nghiệp để xả tâm, ly dục, ly ác pháp. Cần phải tịnh tu khẩu nghiệp (ý tứ tư duy lời nói) để diệt ngã ác, xả tâm rốt ráo. Đây là con đường tu tập Ðịnh Vô Lậu, luôn luôn nhờ vào tri kiến giải thoát, chính tu tập pháp xả tâm này đi đến chỗ rốt ráo để hộ trì và bảo vệ chân lí. Khi nào chơn lí hiện tiền thì lúc bây giờ là đã chứng đạo.

Muốn tu tập một pháp nào (PhậtDạy.2) ta hãy ăn mặc tề chỉnh, hướng về pháp mà đảnh lễ ba lạy, rồi bắt đầu sống như pháp. Sống như pháp mà chúng ta gọi là tu tập. Ngoài những pháp 37 phẩm trợ đạo đã học, chúng ta không cung kính và tùy thuận những pháp khác.

Muốn tu tập niệm thiện (ĐườngVề.9) thì bắt đầu tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần. Mục đích của Tứ Chánh Cần là chấp nhận niệm thiện loại trừ niệm ác. Niệm thiện tức là Chánh Niệm. Chánh Niệm tức là Tứ Niệm Xứ mà Tứ Chánh Cần là pháp môn tu tập trên Tứ Niệm Xứ. Nói đến Chánh Niệm là nói đến Tứ Chánh Cần, Chánh tinh Tấn, Tấn lực, Tấn căn.

Muốn tu tập Pháp Hướng Tâm (ThiềnCănBản) (tức là Pháp Dẫn Tâm) nhắc tâm như vầy: Như lý tác ý: “Cái tâm từ đây về sau không được kiến chấp cái tâm là có thật, mà phải thấy nó không phải của ta, không phải là ta, không phải bản ngã của ta”. Khi chúng ta quán xét như vậy nên không còn chấp ngã, do không chấp ngã nên đau khổ, phiền não trong tâm không còn nữa. Như lý tác ý: “Các duyên tan hợp theo nhân quả, diễn biến luân hồi nên không có thật thể bản ngã, toàn là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã”.Như lý tác ý: “Ðời sống của con người là duyên tan hợp của nhân quả, cho nên không có bản ngã chân thật, toàn là vô thường và đau khổ. Từ đây cái tâm phải bỏ xuống, không được chấp cái ta nữa, vì chấp cái ta là tạo thêm đau khổ và ác pháp trong tâm”.Như lý tác ý: “Ai theo cái duyên nhân quả, tạo ác, là phải thọ lấy cái quả khổ, ta không dại gì đem khổ vào thân. Từ nay, cái tâm hãy bỏ xuống đi để được an vui, thanh thản và vô sư”.

Muốn tu tập pháp môn Chánh Niệm Tỉnh Giác (ĐườngVề.5) thì phải nhiếp tâm trong thân hành nội hay thân hành ngoại.

Muốn tu tập pháp môn Thân Hành Niệm (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.5)(MuốnChứngĐạo) thì phải tu tập tác ý theo thân hành niệm nội hay ngoại. 1- Điều thứ nhất, nên chọn cho mình một vị thầy đã tu chứng đạo. 2- Điều thứ hai, nên xin thân cận với người thiện hữu tri thức này. 3- Điều thứ ba, mỗi hành động trước khi được tu tập đều được trình lên cho thiện hữu tri thức biết. 4- Điều thứ tư, khi tu tập có kết quả hay không kết quả đều thưa hỏi kĩ lại với người thiện hữu tri thức. 5- Điều thứ năm, khi tu tập có chướng ngại pháp gì đều phải thưa trình với người thiện hữu tri thức. 6- Điều thứ sáu, khi tu tập có kết quả tốt đẹp nào thì cũng nên thưa trình với người thiện hữu tri thức. 7- Điều thứ bảy, khi người thiện hữu dạy như thế nào thì tu tập như thế nấy, đừng nên tự kiến giải ra pháp tu hành mới mà lọt vào tà thiền của ngoại đạo. 8- Điều thứ tám, lấy người thiện hữu làm thước đo sự tu tập của mình, đừng tự mãn cho mình tu là đúng, trong khi tu tập sai mình không thể nào biết mình tu sai mà chỉ có người thiện hữu tri thức mới biết mình tu sai. 9- Điều thứ chín, khi mình tu tập sai mà người thiện hữu dạy mình sửa thì nên sửa ngay liền, không nên tu tập theo lối cũ mà phải tu tập theo người thiện hữu tri thức hướng dẫn. 10- Điều thứ mười, khi tu tập chỉ cần tu hành đúng pháp, đừng cầu mong phải đạt pháp này pháp kia, nhất là đừng cầu mong phải ngồi thiền nhập định một hai giờ hoặc biết chuyện quá khứ vị lai hoặc thị hiện thần thông biến hóa tàng hình v.v… Trong khi tu hành chỉ cần biết tâm mình Bất Động hay đang Bị Động đủ sức tỉnh giác làm chủ thân tâm mình. Trước tiên muốn tu tập Pháp môn Thân Hành Niệm là phải chọn lấy hơi thở. Đừng nghĩ rằng: khi tu tập Hơi Thở là chỉ biết nương vào Hơi Thở ra và Hơi Thở vô. Không phải vậy. Khi tu tập hơi thở (Thân hành niệm nội) thì phải ngồi. Do ngồi tu tập nên có tám yếu tố cần phải biết như sau: 1- Tìm nơi thanh vắng, yên tịnh như rừng, núi, đồng trống vắng vẻ hoặc ngôi nhà bỏ trống v.v… 2- Ngồi lưng thẳng trong tư thế ngồi nào cũng được, nhưng lưng phải thẳng, đầu không được cúi. 3- Phải an trú chánh niệm trước mặt. 4- Chánh niệm biết hơi thở vô, hơi thở ra. 5- Chánh niệm biết hơi thở dài vô, hơi thở dài ra. 6- Chánh niệm biết hơi thở ngắn vô, hơi thở ngắn ra. 7- Chánh niệm cảm giác toàn thân tôi sẽ thở vô, chánh niệm cảm giác toàn thân tôi sẽ thở ra. 8- Chánh niệm an tịnh thân hành tôi sẽ thở vô, chánh niệm an tịnh thân hành tôi sẽ thở ra. Phải giữ gìn tâm không phóng dật, siêng năng tu tập không bỏ phí giờ giấc nào cả, mỗi lần tu tập thì phải hết sức nhiệt tâm ghi nhận vào pháp tu tập, phải tu tập rất kĩ lưỡng, nhưng không được tu quá sức, tu đúng với sức của mình. Nhờ có tu tập đúng pháp, đúng sức lực của mình thì vọng niệm về thế tục tham, sân, si, mạn, nghi sẽ được đoạn trừ, khi nó được đoạn trừ thì tâm không còn khởi niệm nữa, nội tâm được An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tỉnh.

Hơi Thở được gọi là pháp môn Thân Hành Niệm là để cho những người đã tu tập xong 19 đề mục Hơi Thở, người tu tập pháp môn Thân Hành Niệm là người không còn bị rối loạn hô hấp. Còn những người nào tu tập chưa xong 19 đề mục thì không nên tu tập Hơi Thở trong pháp môn Thân Hành Niệm. Người mới tu tập chỉ làm quen với Hơi Thở, chớ không thể tu tập pháp môn Thân Hành Niệm Hơi Thở được. Sau khi tu tập 19 đề mục Hơi Thở thuần thục nhuần nhuyễn thì mới nhận ra được trạng thái nội tâm An Trú, An Tọa, Chuyên Nhất, Định Tỉnh.

Muốn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ (ĐườngVề.5) thì phải tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần. Trong pháp môn Tứ Chánh Cần có pháp môn Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Muốn tu tập pháp ý tứ khẩu hành niệm để ly bất thiện pháp, lập đức nhẫn nhục (ThiềnCănBản) Khi ý niệm khởi xong phải quan sát ý niệm đó, tìm nguyên nhân, mục đích của nó. Khi thấu rõ ý niệm đó thì mới nói ra lời.

Muốn tu tập pháp ý tứ ý hành niệm, ly ác pháp, lập đức nhẫn nhục (ThiềnCănBản) Khi tâm khởi lên một niệm phải quan sát niệm đó, phân tích, tìm ra nguyên nhân và mục đích của nó, nó đến có sự việc gì trong tâm. Khi thấu rõ đó là pháp ác thì nó liền tan biến.

Muốn tu tập Sơ Thiền (ĐườngRiêng) thì phải tu tập trên pháp môn Tứ Chánh Cần rồi đến Tứ Niệm Xứ.

Muốn tu tập Tam Minh (CầnBiết.4) thì phải nhập Tứ Thánh Định; muốn nhập Tứ Thánh Định thì phải tu tập Tứ Niệm Xứ; muốn tu tập Tứ Niệm Xứ thì phải tu tập Tứ Chánh Cần; muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì phải tu tập bốn loại định: 1/ Định Chánh Niệm Tỉnh Giác 2/ Định Vô Lậu 3/ Định Sáng Suốt 4/ Định Niệm Hơi Thở. (Thở Định Niệm Hơi Thở gồm có mười tám đề mục: Hít thở dài, Hít thở ngắn, Cảm giác toàn thân, An tịnh thân hành, Cảm giác toàn tâm, An tịnh tâm hành, Quán thân vô thường, Quán thọ vô thường, Quán tâm vô thường, Quán các pháp vô thường, Quán ly tham, Quán ly sân, Quán từ bỏ tâm tham, Quán từ bỏ tâm sân, Quán đoạn diệt tâm tham, Quán đoạn diệt tâm sân, Quán tâm định tỉnh, Với tâm giải thoát). Trên đây là những pháp cần tu tập để đạt được Tam Minh hay nói cách khác, đó là những pháp tu Tam Minh.

Muốn tu tập Thiền định của đạo Phật (Tứ Thánh Ðịnh)(ĐườngVề.1) thì nên theo bản tóm lược này mà tu tập từng giai đoạn một để có kết quả như ý: I – SƠ THIỀN: 1- Tịnh chỉ ngôn ngữ. 2- Sống đúng giới hạnh. 3- Lấy giới bổn Patimokkha phòng hộ sáu căn. 4- Tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh. 5- Tu tập Ðịnh Vô Lậu, diệt ngã xả tâm, quét sạch ngũ triền cái, đoạn dứt thất kiết sử tức là ly dục ly ác pháp. 6- Thiểu dục tri túc. II – NHỊ THIỀN: 1- Tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở. 2- Ðịnh Diệt Tầm Giữ Tứ. 3- Ðịnh Diệt Tầm Diệt Tứ. 4- Hướng tâm tỉnh chỉ tầm tứ. 5- Tịnh chỉ tầm tứ. III – TAM THIỀN: 1- Tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở khéo tác ý. 2- Nương hơi thở hướng tâm, xả ly sáu loại hỷ tưởng đầu tiên: sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp tưởng (ly hỷ trú xả). 3- Tỉnh thức trong giấc ngủ xả mộng tưởng. 4- Dùng pháp hướng xả ly 18 loại hỷ tưởng. IV – TỨ THIỀN: 1- Nương Ðịnh Niệm Hơi Thở khéo tác ý. 2- Hướng tâm tịnh chỉ âm thanh. 3- Hướng tâm tịnh chỉ các thọ. 4- Hướng tâm tịnh chỉ hơi thở. 5- Hướng tâm tịnh chỉ các hành và hơi thở. 6- Tịnh chỉ các hành và hơi thở. 7- Nương Ðịnh Niệm Hơi Thở khéo tác ý. Ðây là phần lý thuyết của bốn Thiền, còn phần thực hành để nhập Tứ Thiền Thánh Ðịnh thì phải tu học có căn bản, từ thấp đến cao. Phải tu học tám lớp Bát Chánh Ðạo gồm có như sau: 1- Lớp Chánh kiến; 2- Lớp Chánh tư duy; 3- Lớp Chánh ngữ; 4- Lớp Chánh nghiệp; 5- Lớp Chánh mạng; 6- Lớp Chánh tinh tấn; 7- Lớp Chánh niệm; 8- Lớp Chánh định. Trong tám lớp tu học Bát Chánh Ðạo có ba cấp “Giới, Ðịnh,Tuệ”. Cho nên, muốn nhập được bốn Thánh Ðịnh, thì phải học từ lớp 1 đến lớp 8. Còn nếu, ngay lý thuyết trên đây mà tu tập bốn Thánh Ðịnh thì phải có người tu xong hướng dẫn, nếu không có người hướng dẫn thì chỉ tu chơi, chứ không bao giờ nhập được.

Muốn tu tập thiền định của Phật giáo (CầnBiết.4) thì bắt đầu phải học và tu tập sống đúng giới luật theo phương pháp Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ và cuối cùng phải thực hiện pháp môn Thân Hành Niệm cho trở thành căn cứ địa. Từ tu tập pháp môn Thân Hành Niệm, nó mới xuất hiện những năng lực siêu phàm, từ những năng lực đó sẽ giúp chúng ta nhập các Thiền Định và thực hiện Tam Minh. Năng lực pháp môn Thân Hành Niệm giúp chúng ta nhập định một cách dễ dàng, không phải ở trên pháp Tứ Thánh Định mà tu tập. Cho nên muốn nhập Tứ Thánh Định thì phải có những năng lực siêu việt của pháp Thân Hành Niệm thì mới mong nhập được. Nếu không có những năng lực này thì khó mà nhập được.

Muốn tu tập Thiền tư (PhậtDạy.1) thì phải dùng Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh sáng suốt, Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác, Ðịnh Niệm Hơi Thở, Tứ Niệm Xứ, Thân Hành Niệm và pháp Như Lý Tác Ý.

Muốn tu tập thủy giới (Truyền Thống.1) thì phải nương vào hơi thở vô ra mà tác ý: “Máu, mủ, đờm và những chất lỏng trong thân ta không phải của ta, không phải là ta, không phải bản ngã của, ta phải từ bỏ yểm ly xa lìa đừng dính mắc; hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Phải tu tập thường xuyên, chừng nào thấy tâm yểm ly nhàm chán thật sự, có nghĩa là nhàm chán ăn uống, ngủ nghỉ phi thời tức là không còn dính mắc vào ăn ngon, ăn nhiều bữa; mặc đẹp, mặc sang nữa. Đó là đã ly dục tham.

Muốn tu tập tính như lửa để đốt cháy các pháp ác và lòng tham muốn (TruyềnThống.1) thì hằng ngày nên như lý tác ý câu: “tâm ta như lửa phải đốt sạch các ác pháp không được để trong lòng những pháp ác, phải đốt sạch các cảm thọ đau khổ, phải đốt sạch các dục ham muốn, phải đốt sạch những phiền não trong tâm, phải đốt sạch lòng sân hận, phải đốt sạch sự lo lắng, ưu phiền, v.v...”. Hoặc nương vào hơi thở mà tác ý: “Phải đốt sạch tâm sân tôi biết tôi hít vô, phải đốt sạch tâm sân tôi biết tôi thở ra”. Hoặc: “Phải đốt sạch tâm tham tôi biết hít vô, phải đốt sạch tâm tham tôi biết tôi thở ra”. Hoặc “Phải đốt sạch sự hôn trầm thùy miên tôi biết tôi hít vô, phải đốt sạch hôn trầm thùy miên tôi biết tôi thở ra”. Hoặc “Phải đốt sạch thùy miên, hôn trầm, tôi biết tôi đang đi kinh hành”. Tu tập như vậy cho đến khi nào tâm tham, sân, si không còn, chỉ còn tâm thanh thản, an lạc và vô sự, hay nói cách khác chỉ còn lại tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ. Đó là ta đã đạt được mục đích của sự giải thoát.

Muốn tu tập tỉnh thức (PhậtDạy.2) tỉnh giác trên thân hành thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Và này các Tỳ Kheo, thế nào là Tỳ Kheo tỉnh giác? Ở đây này các Tỳ kheo, Tỳ Kheo tỉnh giác khi đi tới, đi lui, tỉnh giác; khi ngó tới, ngó lui, tỉnh giác, khi co tay, duỗi tay, tỉnh giác; khi mang áo sanghati (tăng già lê) mang bát, mang y tỉnh giác, khi ăn uống, khi nhai, khi nếm tỉnh giác, khi đại tiện, tiểu tiện tỉnh giác; khi đi, đứng, khi ngồi, khi nằm, khi thức, khi nói, khi im lặng, đều tỉnhgiác. Này các Tỳ Kheo, như vậy Tỳ Kheo sống tỉnh giác”.

Muốn tu tập tỉnh thức để ở trong chánh niệm (CầnBiết.4) thì luôn luôn nương vào thân hành niệm nội hay ngoại mà tập luyện với pháp môn như lý tác ý. Ví dụ: Nương vào hơi thở tác ý “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra” hay nương vào bước đi mà tác ý “Quán ly tham tôi biết tôi đi kinh hành” hay theo từng mỗi bước đi tác ý “Ly tham, ly sân, ly si, ly nghi, ly mạn, ly nghi”.

Muốn tu tập triển khai tư tuệ trong ý hành niệm, khẩu hành niệm, thân hành niệm để ly dục, ly ác pháp, để tu luyện tập đức nhẫn nhục (ThiềnCănBản) Khi tu tập ý tứ ý hành niệm, khẩu hành niệm, và thân hành niệm thì dùng tư tuệ quán sát ý niệm, lời nói, việc làm, biết rõ đúng sai, thiện ác, có lỗi không lỗi, phạm giới không phạm giới, diệt hay nuôi ngã, xả tâm hay dính mắc v.v…

Muốn tu tập Tứ Chánh Cần (Phậtdạy.3)(ĐườngVề.6)(ĐườngVề.9)(CầnBiết.4) cần phải hiểu pháp thiện và pháp ác cho đúng như Phật đã dạy. Pháp ác cũng vô lượng mà pháp thiện cũng có vô lượng. Do số luợng quá nhiều, làm sao biết đâu mà tu hành cho đúng pháp thiện và pháp ác. Muốn biết pháp thiện và pháp ác thì chúng ta phải theo lời Phật dạy trong kinh Thập Thiện. Lấy mười pháp thiện và mười pháp ác này áp dụng vào Tứ Chánh Cần thì mới đúng đường lối tu tập mà đức Phật đã hướng dẫn. Nếu ngăn chặn và đoạn diệt 10 pháp ác được thì ngay đó là sanh khởi và tăng trưởng 10 pháp thiện. Muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì đức Phật đã trang bị cho chúng ta bốn loại định: 1- Ðịnh Sáng Suốt. 2- Ðịnh Vô Lậu. 3- Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác. 4- Ðịnh Niệm Hơi Thở. Nên nhớ tu các định này phải luôn luôn kết hợp với pháp như lý tác ý. Ðịnh Niệm Hơi Thở khéo tác ý tức là pháp môn Nhập Tức Xuất Tức Niệm, pháp môn Nhập Tức Xuất Tức Niệm là pháp môn ngăn ác diệt ác pháp, cho nên người tu tập Nhập Tức Xuất Tức Niệm, làm cho sung mãn khiến cho Bốn Niệm Xứ được viên mãn, khi Bốn Niệm Xứ được viên mãn tức là Bảy Giác Chi sung mãn, Bảy Giác Chi sung mãn khiến cho minh giải thoát được viên mãn. Trong Định Niệm Hơi Thở có 18 đề mục tu tập (xin đọc lại Định Niệm Hơi Thở). Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn rất quan trọng. Nó được xem như là một chiếc “chổi thần” dùng để quét tất cả các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm của Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ mà được viên mãn đều phải nhờ đến cây chổi thần (Định Niệm Hơi Thở) này. Quét tâm có phương pháp để tâm bất động. Tâm bất động là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là đạt được giải thoát.

Muốn tu tập Tứ Chánh Cần ra hành động (PhậtDạy.2)(CầnBiết.4) thì phải tu tập Định Niệm Hơi Thở, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, Định Sáng Suốt và Định Vô Lậu.

Muốn tu tập Tứ Như Ý Túc (CầnBiết.4) thì đầu tiên phải tu tập Định Như Ý Túc. Tu tập Định Như Ý Túc thì dùng năng lực Trạch Pháp Giác Chi ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền. Đó là loại định đầu tiên trong Tứ Thánh Định. Một khi nhập được Sơ Thiền là chúng ta đã có cội gốc chánh định (định căn). Từ đó chúng ta mới có định thật sự.

Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ (PhậtDạy.2) thì hằng ngày phải quan sát trên bốn chỗ: Thân, thọ, tâm và pháp, nếu thấy có Tà niệm thì phải tu tập như sau: “Trên thân quán sát thân để khắc phục tham ưu; trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu ở đời; trên thọ quán thọ để khắc phục tham ưu; trên pháp quán pháp để khắc phục tham ưu”.

Muốn tu tập Tứ Niệm Xứ (Phậtdạy.3)(TâmThư.2) thì phải dùng pháp như lý tác ý quét chướng ngại pháp trên bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp bằng 18 đề mục của Ðịnh Niệm Hơi Thở, và phải thiện xảo áp dụng đúng cách cảm giác toàn thân phải để tâm tự nhiên cảm nhận, chứ không được lút lắt thân, không được tập trung tâm ức chế. Tu tập Tứ Niệm Xứ là cảm nhận toàn thân một cách tự nhiên. Chỉ khi nào tâm thanh tịnh bằng giới luật thì mới có sự cảm nhận tự nhiên, ngoài giới luật ra mà tu tập Tứ Niệm Xứ đều bị ức chế tâm, khi ức chế tâm thì rơi vào tưởng định.

Muốn tu tập Tứ Thánh Ðịnh làm chủ sự sống chết (Phậtdạy.3) thì phải tu tập ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp là giới luật, là thiện pháp. Muốn tu tập ly dục ly ác pháp thì phải sống nghiêm chỉnh Giới luật và tu tập Tứ Niệm Xứ để tịnh chỉ hơi thở nhập Tứ Thánh Ðịnh.

Muốn tu tập Tứ Vô Lượng Tâm (PhậtDạy.2) phải tu tập Ðịnh Niệm Hơi Thở, Ðịnh Sáng Suốt, Ðịnh Vô Lậu, Ðịnh Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Muốn tu tập và rèn luyện đức tùy thuận (ThiềnCănBản) để ly ác pháp và diệt bản ngã ác thì phải: 1. Luôn luôn làm theo ý kiến người khác, bất cứ người nào, dù ở giới nào, giai cấp nào, già hay trẻ, bé hay lớn, nam hay nữ, sang hay hèn. 2. Không làm theo ý kiến của mình, dù ý kiến của mình có đúng một trăm phần trăm. 3. Làm theo ý muốn của thiện hữu tri thức mà không làm theo ý muốn mọi người, đó là tâm sợ hãi (làm theo lệnh chỉ huy). Làm theo ý muốn của thiện tri thức, và cũng làm theo ý muốn mọi người mới là tu tập đức tùy thuận, ly ác pháp, xả ngã. 4. Trước khi muốn làm một việc gì thì phải hỏi ý kiến của thiện hữu tri thức và của mọi người. Nếu tùy tiện làm theo ý của mình là hành động theo bản ngã, nuôi dưỡng bản ngã và các ác pháp. Như thế thì không thể nào tu tập đức tùy thuận, ly ác pháp, xả ngã ác. 5. Khi thưa hỏi xong, phải làm đúng theo ý kiến mọi người. Ðó là tu tập đức tùy thuận, ly ác pháp, diệt ngã ác. 6. Khi thi hành có sơ sót, bị la rầy, liền tức khắc chuyển sự tu tập thùy thuận sang tu tập nhẫn nhục để ly ác pháp. 7. Luôn luôn phải tôn kính ý kiến của mọi người, không làm theo ý kiến của mình. 8. Luôn luôn phải hạ mình kính trọng mọi người, vì có kính trọng mọi người thì mới có tùy thuận được người. 9. Muốn ly ác pháp và diệt ngã thì phải tu tập nhận thấy mình là nhỏ nhất, là kém nhất. Muốn tùy thuận được thì phải triển khai tri kiến nhân quả cho thông suốt. Tùy thuận, nhưng không bị lôi cuốn vào ác pháp.

Muốn tu tập ý tứ thân hành niệm để ly các ác pháp, thực hiện đức nhẫn nhục (ThiềnCănBản) Khi tâm muốn làm một điều gì thì phải khởi ra ý niệm của việc làm đó, phải tìm ra nguyên nhân, mục đích của nó. Khi đã tìm xong, biết nó là thiện pháp thì thân mới bắt đầu hành động. Khi thân làm việc gì, phải ý tứ cẩn thận, kỹ lưỡng trong việc làm đó, không làm bừa bãi, không làm dối trá.

Muốn tu tập yểm ly hay từ bỏ hỏa giới (TruyềnThống.1) thì nên nương vào hơi thở vô hơi thở ra mà tác ý theo câu trạch pháp này: “Hỏa giới này không phải của ta, là ta, là bản ngã của ta, ta hãy yểm ly từ bỏ, hít vô tôi biết tôi hít vô thở ra tôi biết tôi thở ra”. Cứ hít vô thở ra đếm năm hơi thở thì tác ý câu trên một lần. Tu tập như vậy suốt 30 phút nghỉ xả hơi.

Muốn tu theo Phật giáo (PhậtDạy.2) có 9 điều cần quan tâm: - Thứ nhất: Chọn một bậc Giới, Ðịnh, Tuệ, tức là chọn một bậc Thầy đức hạnh tròn đầy, để luôn luôn gần gũi thưa hỏi những điều cần hiểu biết. - Thứ hai: Thông hiểu Giới, Ðịnh, Tuệ và Bát Chánh Ðạo, tức là vi diệu pháp của Phật giáo. - Thứ ba: Vững lòng tin, và bỏ ra những công sức tu tập, sửa sai những lỗi lầm, cuộc sống không làm khổ mình, khổ người. - Thứ tư: Phải có pháp Như Lý Tác Ý. - Thứ năm: Chánh Niệm Tỉnh Giác cần tu tập. - Thứ sáu: Các căn phải được chế ngự. - Thứ bảy: Ba Thiện Hành cần phải thực hiện cho được. - Thứ tám: Tứ Niệm Xứ cần phải thực hiện cho viên mãn. - Thứ chín: Bảy Năng Lực Giác Chi cần phải thực hiện cho được.

Muốn tu thiền Phật giáo (OaiNghi) thì tu tập phòng hộ sáu căn, luôn luôn giữ gìn những oai nghi chánh hạnh, không hề để vi phạm những lỗi nhỏ nhặt nào, và từng giây từng phút phải tu tập pháp Tứ Chánh Cần ngăn ác diệt ác pháp trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi liên tục trong suốt ngày này sang ngày khác, mà không có một niệm hôn trầm, thùy miên, vô ký, một niệm vọng tưởng, và tất cả cảm thọ không xen vào thì đó là trạng thái bất động thân và tâm. Ðó là trạng thái tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự, đó là trạng thái chân lý của Phật giáo, là Niết bàn. Tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự là tâm Vô lậu. Tâm Vô lậu này được kéo dài 7 ngày đêm thì tâm có đủ Tứ thần túc. Khi tâm có đủ Tứ thần túc thì muốn nhập định nào thì thân tâm đều nhập ngay định ấy, chứ không phải cần nhập theo thứ tự Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền rồi Tứ thiền. Người nào sống được trên tâm Vô lậu là người đã chứng quả A La Hán. Người chứng quả A La Hán là có đầy đủ Tam Minh, Lục Thông, là người giải thoát hoàn toàn, không bị nhân quả chi phối thân tâm. Vì vậy người ấy mới làm chủ được thân tâm, muốn sống, muốn chết đều tự tại. Người tu đúng pháp của Phật, nơi tâm bất động thanh thản, an lạc và vô sự đã có đủ Tam Minh và Lục Thông, không cần phải nhập vào Sơ thiền, Nhị thiền rồi Tam thiền đến Tứ thiền, và cũng không cần nhập Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Muốn tu Trạch Pháp Giác Chi (ĐườngVề.9) thì giữ gìn tâm thanh thản, an lạc và vô sự tức là tâm tỉnh giác, ở tâm tỉnh giác đó mà Trạch Pháp Giác chi thì rất hiệu quả, có nghĩa là ngăn ác và diệt ác pháp rất dễ dàng và dùng pháp hướng tâm điều khiển không mấy khó khăn. Cho nên kinh dạy: “Trong khi ấy Trạch Pháp Giác Chi được tỳ kheo tu tập đi đến viên mãn”, có nghĩa là chúng ta thường tu tập chọn lựa pháp nào thiện và pháp nào ác để loại trừ và thường hướng tâm đuổi ác pháp đi thì tâm của chúng ta thanh thản, an lạc, và vô sự, nhờ tâm thanh thản an lạc và vô sự chúng ta cảm thấy sự giải thoát an lạc rất rõ ràng và cụ thể, do đó tự động chúng thích tu tập Trạch Pháp Giác Chi.

Muốn tu Tứ Bất Hoại Tịnh (ĐườngVề.2) thì phải tu Ðịnh Vô Lậu thể hiện pháp môn Tứ Niệm Xứ trên thân, thọ, tâm và pháp mà tu tập, sống và làm việc giống như thân, thọ, tâm, pháp của đức Phật, nhưng muốn tu tập cho được tốt thì phải tùy theo đặc tướng thân, thọ, tâm và pháp của mình mà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới để triển khai mạnh, quét sạch tất cả các lậu hoặc, diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp. Tu như vậy gọi là tu Ðịnh Vô Lậu kết hợp với pháp Tứ Bất Hoại Tịnh, tức là tu Ðịnh Vô Lậu thân, thọ, tâm và pháp để sống và làm đúng như đức Phật đang sống và đang hành, đúng như Pháp mà đức Phật đã dạy không được làm sai lời dạy của pháp, đúng như đời sống chúng Thánh Tăng đang sống đang hành và đúng như giới luật đã dạy không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào cả. Tứ Bất Hoại Tịnh là bốn pháp hay là bốn đối tượng gương hạnh thanh tịnh của đạo Phật, để làm bốn chỗ chúng ta lấy thân, thọ, tâm và pháp của mình nương theo đó giữ gìn tu tập, sống đúng đời sống giải thoát của bốn chỗ này, khiến cho thân tâm chúng ta thanh tịnh.

Muốn vén sạch màn vô minh(CầnBiết.3) thì phải có minh, tức là trí tuệ Tam Minh. Nhưng làm sao có Tam Minh được? Muốn có trí tuệ Tam Minh thì phải tu tập bằng những con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

Muốn vượt thoát cuộc sống thế gian (ĐườngVề.1) để trở thành người tu sĩ chân chánh của Phật Giáo để trở thành bậc Thánh nhân, bậc chân nhân, bậc giải thoát, bậc A La Hán thì phải gan dạ đoạn dứt, dứt bỏ từ giã, xa lìa viễn ly tất cả các pháp thế gian như: 1- Xa lìa, từ bỏ, không trang điểm làm cho thân thể đẹp và sang. 2- Xa lìa, từ bỏ của cải, tài sản vật chất thế gian. 3- Xa lìa, đoạn dứt tình cảm cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thân bằng, quyến thuộc... Muốn dứt bỏ được ba trường hợp này, quý vị phải trạch pháp dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý hàng ngày phải đặt niệm trước mặt quán xét suy tư: “Thân này bất tịnh hôi thúi có gì sang đẹp mà trang điểm, hãy từ bỏ viễn ly không làm đẹp nữa. Thân này vô thường là ổ bệnh tật, là khổ đau, là không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta”. Câu hai: “Của cải, tài sản, vàng bạc, châu báu là những thứ làm ta đau khổ nhiều nhất, tai họa cũng từ đó sanh ra, ta hãy xả bỏ, tránh xa, từ khước, viễn ly như xa lìa loài rắn độc”. Câu ba: “Cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thân bằng, quyến thuộc, bạn bè, đều do duyên nhân quả nợ vay, vay nợ với nhau, chớ đâu có gì mà phải thương nhớ, phải ghét giận, phải khổ đau, phải mong ngóng, ta hãy xả bỏ và đoạn dứt hết”. Trên đây là những câu trạch pháp được chọn ra để người cư sĩ quán xét tư duy và dùng nó để ám thị tâm mình, chuẩn bị bước qua giai đoạn thứ hai trên đường tu tập của đạo Phật, nếu ai muốn tìm đường giải thoát thì nên hằng ngày phải siêng năng tu tập quán xét cho thông suốt những lý này và rèn luyện pháp hướng để tạo cho mình có một nội lực vững chắc, đến khi mình trở thành tu sĩ thì sẽ không bị đổ vỡ và tiến tu dễ dàng hơn.

Muốn xả Cảm thọ (Phậtdạy.3) thì phải có đủ năng lực của bảy Giác Chi. Nhờ bảy năng lực của Giác Chi mới đủ điều kiện tu tập Tứ Như Ý Túc trong Tứ Như Ý Túc có Ðịnh Như Ý Túc. Khi muốn tu tập Ðịnh Như Ý Túc thì dùng Trạch Pháp Giác Chi hướng tâm nhập Sơ Thiền bằng câu tác ý “Tâm ly dục ly bất thiện pháp nhập Sơ Thiền”. Ðó là câu trạch pháp hướng tâm của Thất Giác Chi. Và Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền cũng đều dùng Trạch Pháp hướng tâm tùy theo câu hướng tâm của loại định đó. Hướng tâm đúng pháp và đầy đủ lực Giác Chi thì nhập định được ngay liền.

Muốn xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh (ĐườngVề.9) thì phải trú vào hơi thở dùng pháp hướng tâm tịnh chỉ thân hành thì xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh sẽ đạt được kết quả như ý muốn, nhưng trước khi muốn xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì tâm phải ly dục ly ác pháp hoàn toàn thì lúc đó tịnh chỉ thân hành không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, bằng ngược lại chưa ly dục ly ác pháp hoàn toàn mà xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thì chẳng bao giờ xả được. Khi tu tập nhập vào tâm bất động thì tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Khi Tâm định tỉnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng là tâm có đủ bảy năng lực Giác Chi. Tâm có đủ bảy năng lực Giác Chi là tâm có đủ Tứ Thần Túc. Khi có đủ Tứ Thần Túc thì xả lạc, xả khổ và xả niệm thanh tịnh rất dễ dàng không có khó khăn không có mệt nhọc.

Muốn xả tâm (ĐườngVề.1) thì tu tập phải có đối tượng. Nhờ có đối tượng mà biết tâm xả hay chưa xả. Người tu hành theo đạo Phật, mà tránh né đối tượng, thì tu chẳng bao giờ có giải thoát. Cho nên, muốn tu tập giải thoát thì ngay nơi ác pháp ngăn và diệt; muốn ngăn và diệt ác pháp là phải dùng pháp như lý tác ý, và nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Hãy buông xả! Buông xả với một nhiệt tâm nồng cháy; với một nghị lực kiên cường; với một sự hiểu thông suốt: “Dục và ác pháp là khổ”, thì mới xả bỏ được, mới tìm thấy sự giải thoát chân thật của đạo Phật. Muốn cho có một nội lực sung mãn, để khắc phục tâm tham ưu của mình; để có kết quả tâm bất động trước các pháp; để ly được dục ly được ác pháp; để tâm không phóng dật và cuối cùng tâm định trên thân, thì nên thường xuyên dùng pháp Hướng Tâm - Như Lý Tác Ý, phải ám thị tâm khi muốn làm một điều gì theo ý muốn. Ví dụ, như muốn tâm không còn giận hờn, thương ghét, hay không cho nó nói chuyện, để sống trầm lặng một mình, thì nên trạch pháp một câu: “Tâm như cục đất, không nên nói chuyện với ai cả để sống đúng chánh hạnh, để được an vui, thanh thản và vô sự”. Phải sống với câu hướng tâm như bóng với hình, lúc nào, giờ nào cũng phải nhớ ám thị, đừng nên quên thì sẽ có hiệu quả xả tâm rất tốt. Nhớ kỹ, ám thị cho đến chừng nào có hiệu quả mới thôi.

Muốn xả tâm chấp ngã (Khi được khen tặng) (ĐườngVề.10) thì hằng ngày trong những giờ tu Ðịnh Niệm Hơi Thở hoặc đi kinh hành tu Chánh Niệm Tỉnh Giác Ðịnh ta nên hướng tâm: “Thân ngũ uẩn này không phải là ta, không phải của ta, không phải bản ngã của ta. Khi thân ngũ uẩn này chết rồi đâu còn cái gì là ta nữa, cho nên khen chê mừng vui chẳng còn có nghĩa lý gì với một người đã chết”.

Muốn xả tâm cho được rốt ráo (ĐườngVề.5)(ĐườngVề.8) thì phải 1.- Sống độc cư, không nên tiếp duyên bên ngoài với ai hết, không làm một việc gì cả, thường quan sát thấy tâm niệm khởi phá độc cư thì phải mau mau xả liền không được duy trì, không được nghe theo các niệm phá hạnh độc cư. Trong lúc độc cư, nếu có tất cả mọi niệm khởi lên dù đúng, sai, phải, trái, những niệm đó đều làm mất hạnh độc cư thì phải mau xả xuống, không nên khởi niệm, khởi niệm tức là phóng tâm, phóng tâm tức là theo niệm, theo niệm tức là phóng dật cho nên phá độc cư, tức là tâm phóng dật. Độc cư không được đọc kinh sách, không được làm mọi công việc, không được nói chuyện dù chuyện đạo chuyện đời, không được nghe băng nhạc, băng thuyết giảng, v.v... mà duy nhất chỉ có một việc làm là quán xét thân tâm mình để xả các niệm, tâm ham muốn và các ác pháp, do đó mới giữ gìn hạnh độc cư trọn vẹn. Có giữ gìn hạnh độc cư trọn vẹn như vậy thì sự tu hành mới có tiến bộ. Người tu thiền xả tâm mà giữ được hạnh độc cư thì xả tâm rất dễ dàng, còn giữ hạnh độc cư không được thì xả tâm không được nên tu thiền không tiến bộ, nói đúng hơn là không có kết quả giải thoát. 2.- Đào bứng cho tận gốc rễ sự buồn giận bằng cách tư duy quán xét nhận cho ra lỗi lầm là thiếu sự tùy thuận, rồi dùng câu tác ý mà xả cho sạch và diệt bản ngã bằng sự sám hối, nói lời xin lỗi.

Muốn xả tâm được như đất (ĐườngVề.2) thì phải sống cho đúng ba đức ăn, ngủ, độc cư và ba hạnh nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng. Nếu sống không đúng ba đức, ba hạnh thì làm sao tâm như đất được mà tâm không như đất thì làm sao sống đúng đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Còn làm khổ mình, khổ người thì làm sao có giải thoát được.

Muốn xả tâm sắc dục (ĐườngVề.5) người tu phải thường quán thân bất tịnh, phải biết phòng hộ sáu căn, phải ly dục ly ác pháp và dùng câu tác ý diệt tâm sắc dục khi nó vừa móng khởi lên từ trong ý niệm.

Muốn xả tâm sân (ĐườngVề.10) thì bình thường hằng ngày phải dùng câu tác ý: “Tham, sân, si là ác pháp, làm cho ta khổ đau, tâm phải xa lìa, phải từ bỏ, phải đoạn trừ”. Khi đang sân hận thì ta nên uống một ly nước, ngồi trên ghế trong tư thế nào cũng được và cố gắng phòng hộ mắt, tai bằng cách tập trung tâm vào hơi thở và hướng tâm; “Tai phải nghe hơi thở ra, vô cho rõ ràng, không được nghe bên ngoài”, khi hướng tâm xong thì đếm hơi thở 1, 2, 3, 4, 5 rồi nhắc lại câu pháp hướng, cứ tập tu như vậy khi nào tâm tập trung vào được hơi thở thì mới thôi hướng vì lúc bấy giờ tâm đã nhẫn được rồi. Sau khi nhẫn được, mọi sự đều được trở lại bình thường thì lúc bấy giờ ta quán xét để sự việc vừa xảy ra thấu suốt, đó là ta đã quét sạch sự sân hận trong ta.

Muốn xả tâm trạo hối (khi bị chê trách, bị mắng chửi mạ nhục) (ĐườngVề.10) thì phải quán xét tư duy sự lỗi lầm của mình khi mình làm lỗi bị người khác mắng chửi mạ nhục (đó là xả tâm trạo hối, có 3 cách như sau). 1- Khi quán xét sự lỗi lầm đó ta rút ra những kinh nghiệm không để sau này còn phạm lỗi nữa. 2- Ta tư duy sự lỗi lầm này đáng để cho người khác chỉ trích mắng chửi thậm tệ, để ta lấy đó răn nhắc mình. 3- Hằng ngày hướng tâm: “Ta phải sống đúng đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người”.

Muốn xả thọ (ĐườngVề.10) thì phải tịnh chỉ hơi thở ra, hơi thở vô.

Muốn ý hành tịnh chỉ (ĐườngVề.8) người tu sĩ phải ly dục ly ác pháp, diệt ngã xả tâm. Muốn ly dục ly ác pháp, diệt ngã xã tâm người tu sĩ phải sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ sáu căn với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các giới học. Muốn sống đầy đủ giới hạnh, giới bổn thì người tu sĩ phải dùng pháp như lý tác ý, muốn pháp như lý tác ý có hiệu quả thì người tu sĩ phải sống thân tâm không phóng dật.

Muốn yểm ly (12Duyên) phải dùng tri kiến hiểu biết nhân quả, hiểu biết các pháp vô thường, hiểu biết các pháp không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, và hiểu biết cái nào đúng cái nào sai; kế đó còn phải hiểu biết cái nào là chân lý và cái nào không phải là chân lý.

Muốn yểm ly ba thọ (PhậtDạy.4) thì Ðịnh Niệm Hơi Thở phải tu tập nhiếp phục và an trú tâm cho được nhuần nhuyễn trong hơi thở. Nhiếp tâm và an trú tâm cho được trong thân hành niệm nội hay ngoại. Ðó là những pháp yểm ly các thọ. Yểm ly các thọ là một hành động đạo đức tự thân tâm của các bạn.

Muốn yểm ly các thọ (PhậtDạy.4) thì nhiếp tâm và an trú tâm vào thân hành nội hay thân hành ngoại. Khi nói yểm ly thì nhớ đến Ðịnh Niệm Hơi Thở là phương pháp yểm ly các cảm thọ tuyệt vời: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Khi yểm ly được các cảm thọ tức là làm chủ được các cảm thọ mà làm chủ được các cảm thọ thì tham dục bị diệt trừ, do tham dục được diệt trừ thì được giải thoát.

Mười Ðiều Lành (10Lành) là con đường đưa con người đến nơi hạnh phúc chân thật; đưa con người thoát ra mọi cảnh sống thường tình thế gian sống chỉ biết lo cho cá nhân của mình mà chẳng cần biết đến ai cả.

Mười hai nhân duyên (12Duyên)(CầnBiết.4) Đức Phật chứng quả Vô Lậu, thấy biết vạn pháp trên thế gian này như thật nên Ngài dõng dạc tuyên bố: “Còn có cái hiểu biết khác, cái hiểu biết không nằm trong hai cực đoan Có và Không, cái hiểu biết vượt ra ngoài vòng khổ đau. Đó là cái hiểu biết Mười Hai Nhân Duyên.” Mười hai nhân duyên gồm có: 1- Duyên Vô Minh; 2- Duyên Hành; 3- Duyên Thức; 4- Duyên Danh sắc; 5- Duyên Lục nhập; 6- Duyên Xúc; 7- Duyên Thọ; 8- Duyên Ái; 9- Duyên Thủ; 10- Duyên Hữu; 11- Duyên Sanh; 12- Duyên ưu bi, sầu khổ, bệnh chết. Trong 12 duyên này, hễ có duyên này có thì duyên kia có, hễ duyên này diệt thì duyên kia diệt.

Mười hai cửa nhân duyên (12Duyên) là một trận đồ Thập Nhị Môn Ðồ Trận, là một trận đồ rất là rối rắm. Tuy 12 cửa nhân duyên, nhưng khi nó chịu đi vào hoạt động thì thiên biến vạn hóa nhân duyên, nên cứ duyên này có thì có duyên khác, trùng trùng duyên khởi vô cùng vô tận, hằng phút giây 12 nhân duyên đang tập hợp theo duyên tan hay hợp trùng trùng duyên khởi, duyên diệt. Vì thế, những khổ đau của con người cũng liên tục không bao giờ dứt trong vô số kiếp.

Mười một tri kiến giải thoát (TrợĐạo) Trong đạo Phật có mười một tri kiến giải thoát. Tỳ-kheo nào không đầy đủ mười một pháp này thì không thể lớn mạnh, tăng thịnh, thành mãn trong Pháp, Luật này.

Mười phước báu lớn (10Lành) là do Sống trong Mười Ðiều Lành: 1/ Thân không bệnh tật. 2/ Thân được sống trong cảnh giàu sang. 3/ Gia đình hạnh phúc, vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo. 4/ Ðược mọi ngươi kính yêu tin tưởng, đồng thời luôn luôn nghe và làm theo lời dạy. 5/ Trí tuệ thù thắng, thông minh sáng suốt không ai hơn, thấu suốt lý nhân quả thiện ác không còn chỗ nào bị ngăn che. 6/ Lời nói thẳng thắn được mọi người kính phục và yêu mến. 7/ Nói lời êm ái ngọt ngào ai nghe cũng vui mừng và yêu thích. 8/ Không nói lời hung dữ hay chửi mắng to tiếng với một người nào cả. 9/ Không sợ sệt bất cứ một điều gì, một hoàn cảnh nào. Không thối lui trước những nghịch cảnh. Ðứng trước đám đông người phát biểu những ý kiến, đều nói năng lưu loát, không ngập ngừng; tiếng nói sang sảng, nhiếp phục người nghe. 10/ Ba nghiệp thân, khẩu, ý đều thanh tịnh, không bị nhiễm ô bởi một dục lạc nào trong thế gian này.

Mười tám loại hỷ tưởng (Phậtdạy.3) Sáu loại tưởng trần gồm có: 1/ Sắc tưởng, 2/ Thinh tưởng, 3/ Hương tưởng, 4/ Vị tưởng, 5/ Xúc tưởng, 6/ Pháp tưởng. Sáu loại tưởng thức gồm có: 1/ Nhãn tưởng thức, 2/ Nhĩ tưởng thức, 3/ Tỷ tưởng thức, 4/ Thiệt tưởng thức, 5/ Thân tưởng thức, 6/ Ý tưởng thức. Sáu tưởng thông gồm có: 1/ Thiên nhãn tưởng thông, 2/ Thiên nhĩ tưởng thông, 3/ Tỷ tưởng thông, 4/ Thiệt tưởng thông, 5/ Thần túc tưởng thông, 6/ Tha tâm tưởng thông.

Mười tám tầng trời (ĐườngVề.3)(CầnBiết.5) chỉ cho 18 trạng thái thiện. Ví dụ: Nhập Sơ Thiền tức là đã ở cõi Sơ Thiền Thiên, nhập Không vô biên xứ tưởng tức là đã ở cõi Không vô biên xứ Thiên, nhập nhẫn nhục tức là đã ở cõi Đâu suất Thiên...

Miệng lưỡi (ĐạoĐức.2) gồm có bốn hành động ác gốc: 1. Nói lời không thật. 2. Nói lời hung dữ. 3. Nói lời thêm bớt. 4. Nói lời lật lọng.

Miệng thường nói lời nhân từ (PhậtDạy.4) là nói lời yêu thương đến với mọi người và với mọi loài chúng sanh, luôn luôn thực hiện lời nói nhân từ, lời nói ái ngữ. Lời nói yêu thương là lời ái ngữ, là lời nói ôn tồn, nhã nhặn, êm dịu, thanh lịch, lịch sự, nhẹ nhàng, an ủi mọi người, mọi loài vật khi gặp tai nạn, bệnh tật khổ đau hoặc những điều làm cho khiếp đảm, sợ hãi.

Món ăn (PhậtDạy.2) nghĩa là siêng năng tinh cần tu tập hằng ngày không biếng trễ.

Môi trường sống (ĐạoĐức.1) trên hành tinh này, là nói một môi trường mà trong đó gồm có: không gian, bầu không khí, các thứ khí, các loại từ trường, đất, đá, núi, sông, suối, biển, hồ, ao, mưa, nắng, gió, v.v...; có thời tiết khí hậu nóng, lạnh, ẩm, ướt; có rong rêu, ngàn cây nội cỏ và có các loài động vật nhỏ li ti như: loài côn trùng, vi sinh và vi khuẩn, cho đến các loài động vật to lớn khổng lồ như khủng long, cá ông, voi, rắn, chim, v.v... trong đó có loài người.

Mộng tưởng (Phậtdạy.3)(CầnBiết.4) là sự hoạt động của tưởng uẩn theo tâm trạng thất tình lục dục, là tưởng tri những điều không có thật, là những trạng thái do tưởng uẩn tạo ra giống như những người lên đồng, nhập cốt, giống như các nhà ngoại cảm, giống như giấc chiêm bao. Tịnh chỉ mộng tưởng là dùng năng lực tâm thanh tịnh tức là Thất Giác Chi dừng sự hoạt động của tưởng uẩn nhập Tam Thiền (ly hỷ)

Một trăm giới chúng học (GiớiĐức.1)(GiớiĐức.2) có tên là “Thức Xoa Ca La Ni”, cũng có chỗ gọi “Thi Xoa Kế Loại Ni”, nghĩa là cần nên học, còn gọi là giới thủ (giới giữ gìn oai nghi tế hạnh), tội nó rất nhẹ và vi tế, giữ gìn rất khó nên cần phải học cho kỹ, và phải cố gắng giữ gìn hết sức, mới giữ được, nó là hành động đạo đức của con người. Nếu ai giữ trọn nó, người ấy là người có đạo đức xứng đáng làm người, làm đệ tử Phật. Tội phạm nó không nặng, nên các vị tỳ kheo xem thường, phần nhiều không chịu để tâm học cho kỹ và quán xét oai nghi tế hạnh đạo đức của mình xem có phạm một trong những giới luật này hay không. Vi phạm giới này làm mất oai nghi tế hạnh tức là đức hạnh làm người, đức hạnh làm một vị tỳ kheo. Làm người mà đức hạnh không có, thì làm sao gọi là làm người; làm người không xứng đáng làm người thì làm sao xứng đáng là vị tỳ kheo đệ tử của Ðức Phật cho được.

Một trăm giới chúng học này không nói rõ tên tội, nhưng phạm mà do sự cố tâm hoặc là vô tâm. Cố tâm thì phạm tội Ðột cát la, phi oai nghi (thiếu đạo đức) tức là mất oai nghi tế hạnh của vị tỳ kheo (vị tỳ kheo không có đạo đức), phải sám hối, trước đại chúng để chừa bỏ, không còn tái phạm lại, còn nếu không cố tâm thì phạm tội Ðột cát la trơn, thì khỏi phải sám hối trước chúng, nhưng phải biết tự trách mình và cố gắng khắc phục không còn tái phạm nữa thì mới hết tội. Một trăm giới chúng học này là đạo đức làm người, là oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo, là hành động giới hạnh của người tu sĩ đệ tử của Phật. Vì thế, giới luật này được Ðức Phật chế ra dạy chúng tỳ kheo đầu tiên trước khi hoàn thành bộ giới luật. Nhưng phải hiểu ý Phật, một trăm giới này rất quan trọng và căn bản cho người mới tu về đạo đức làm người và đạo đức làm Thánh Nhân. Những giới luật này rất cần thiết về việc xả tâm “vô lậu” để đạt đến sự cứu cánh giải thoát hoàn toàn trong đường lối tu tập của đạo Phật. Tuy tội nó không nặng, nhưng giữ gìn rất khó, nó rất quan trọng cho sự tu tập nhập Bốn Thánh Ðịnh và thực hiện Tam Minh. một trăm giới chúng học này, các vị tỳ kheo không giữ gìn nghiêm chỉnh, thường oai nghi tế hạnh thô tháo, mọi người nhìn vào dễ nhận thấy hành động thiếu đức hạnh của người tu sĩ đạo Phật, nên đánh giá trị và khinh chê đạo Phật không có đạo đức và thiếu tổ chức.

Một trăm giới chúng học gồm có những oai nghi tế hạnh của một vị tỳ kheo tăng hay tỳ kheo ni, được chia ra mười giai đoạn thực hành đạo đức làm người trong sanh hoạt cuộc sống hằng ngày: 1- Phải ăn mặc tề chỉnh. 2- Ði vào làng phải nghiêm trang. 3- Ngồi đứng phải đúng cách của một vị tỳ kheo. 4- Ăn uống phải nghiêm trang tề chỉnh. 5- Phải khéo giữ gìn bát ăn nhẹ nhàng, khoan thai. 6- Ðại tiểu tiện phải đúng cách. 7- Thuyết pháp phải đúng nơi, đúng đối tượng, đúng chỗ. 8- Ðắp tượng, xây tháp đúng pháp. 9- Ði đường phải đúng pháp. 10- Trèo cây phải đúng pháp. Một trăm giới chúng học là những hành động đạo đức của mọi người, ai ai cũng đều cần phải học tập cho thông suốt, để tu sửa những hành động sai quấy, lỗi lầm và tội lỗi của mình, vì trong chúng ta hiện giờ mỗi người, ai cũng còn mang nhiều bản chất hung ác, gian xảo của loài cầm thú. Một trăm giới chúng học là một trăm oai nghi tế hạnh của một vị tu sĩ đệ tử Phật (tỳ kheo tăng và tỳ kheo ni). Nhưng đây chỉ là nói riêng, còn nói chung một trăm giới chúng học là một trăm hành động đạo đức của mỗi con người, nó không riêng cho giới đệ tử Phật mà cho tất cả mọi người, có tôn giáo hay không có tôn giáo và bất cứ tín đồ tôn giáo nào cũng cần phải học. Vì đạo đức này có lợi ích, thiết thực chung cho đời sống của mọi người trên hành tinh này. Một trăm giới chúng học là những oai nghi tế hạnh đạo đức đầu tiên mà chúng ta cần phải học và sống cho đúng, tuy nó đơn giản nhưng nó đem lại lợi ích rất lớn cho mình cho người một cách thiết thực và cụ thể. Một trăm giới chúng học là một trăm hành động đạo đức dạy làm người để thoát ra khỏi bản chất loài thú vật, chúng ta ước mong rằng tất cả những người có mặt trên hành tinh này đều có đủ duyên may gặp pháp bảo này để cứu mình sống trong cuộc đời mà không làm khổ mình, khổ người thì đó là chơn hạnh phúc của kiếp làm người.


 VIẾT TẮT CÁC SÁCH

(CầnBiết.1)=Người Phật Tử Cần Biết 1; (CầnBiết.2)=Người Phật Tử Cần Biết 2; (CầnBiết.3)=Người Phật Tử Cần Biết 3; (CầnBiết.4)=Người Phật Tử Cần Biết 4; (CầnBiết.5)=Người Phật Tử Cần Biết 5; (ChùaAm)=Lịch Sử Chùa Am; (CưSĩTu)=Những Chặng Đường Tu Học Của Người Cư Sĩ; (ĐạoĐức.1)=Đạo Đức Làm Người.1; (ĐạoĐức.2)=Đạo Đức Làm Người.2; (ĐườngRiêng)=Đạo Phật Có Đường Lối Riêng; (ĐườngVề.1)=Đường Về Xứ Phật 1; (ĐườngVề.10)=Đường Về Xứ Phật 10; (ĐườngVề.2)=Đường Về Xứ Phật 2; (ĐườngVề.3)=Đường Về Xứ Phật 3; (ĐườngVề.4)=Đường Về Xứ Phật 4; (ĐườngVề.5)=Đường Về Xứ Phật 5; (ĐườngVề.6)=Đường Về Xứ Phật 6; (ĐườngVề.7)=Đường Về Xứ Phật 7; (ĐườngVề.8)=Đường Về Xứ Phật 8; (ĐườngVề.9)=Đường Về Xứ Phật 9; (GiớiĐức.1)=Giới Đức Làm Người 1; (GiớiĐức.2)=Giới Đức Làm Người 2; (LinhHồn)=Linh Hồn Không Có ; (MuốnChứngĐạo)=Muốn Chứng Đạo Phải Tu Pháp Nào; (OaiNghi)=Hỏi Đáp Oai Nghi Chánh Hạnh; (PhậtDạy.1)=Những Lời Gốc Phật Dạy 1; (PhậtDạy.2)=Những Lời Gốc Phật Dạy 2; (PhậtDạy.3)=Những Lời Gốc Phật Dạy 3; (PhậtDạy.4)=Những Lời Gốc Phật Dạy 4; (TâmThư.1)=Những Bức Tâm Thư 1; (TâmThư.2)=Những Bức Tâm Thư 2; (TạoDuyên)=Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sanh; (TêNgưu)=Sống Một Mình Như Con Tê Ngưu Một Sừng; (ThanhQuy)=Thanh Quy Tu Viện Chơn Như; (ThiềnCănBản)=Thiền Căn Bản 1; (ThờiKhóa)=Thời Khóa Tu Tập; (TrợĐạo)=37 Phẩm Trợ Đạo; (TruyềnThống.1)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.1; (TruyềnThống.2)=Văn Hóa Phật Giáo Truyền Thống.2; (YêuThương.1)=Lòng Yêu Thương 1; (YêuThương.2)=Lòng Yêu Thương 2; (10Lành)=Hành Thập Thiện; (10Lành)=Sống 10 Điều Lành; (12Duyên)=12 Cửa Vào Đạo; (3Quy5Giới)=Tam Quy Ngủ Giới; (4BấtHoại)=Tứ Bất Hoại Tịnh; (8QuanTrai)=Nghi thức thọ bát quan trai;

***